/ Luật sư trực ban
/ Pháp luật quy định như thế nào về việc nhận nuôi con nuôi?

Pháp luật quy định như thế nào về việc nhận nuôi con nuôi?

01/01/0001 00:00 |

(LSVN) - Việc nhận nuôi con nuôi nhằm mục đích cho con nuôi được nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trong một môi trường có tính chất gia đình – cấu trúc nền tảng, tạo lập nên xã hội. Pháp luật về nuôi con nuôi ra đời nhằm mục đích xác lập về mặt pháp lý quan hệ giữa cha mẹ nuôi với con nuôi lâu dài, bền vững vì sự phát triển của trẻ.

  Ảnh minh họa. 

Liên quan đến quy định của pháp luật về việc nhận nuôi con nuôi, Luật sư Nguyễn Thị Kiều Trang, Đoàn Luật sư TP. Hà Nội cho biết, trường hợp trẻ em bị bỏ rơi, không ai chăm sóc, thì Ủy ban nhân dân cấp xã nơi phát hiện trẻ em có trách nhiệm tìm người hoặc tổ chức tạm thời nuôi dưỡng trẻ em. Nếu có người nhận trẻ em làm con nuôi, thì Ủy ban nhân dân cấp xã nơi phát hiện trẻ em bị bỏ rơi xem xét, giải quyết theo quy định của pháp luật. Nếu không có người nhận trẻ em làm con nuôi thì lập hồ sơ đưa trẻ em vào cơ sở nuôi dưỡng.

Trường hợp trẻ em mồ côi không có người nuôi dưỡng hoặc trẻ em có cha mẹ đẻ, người thân thích nhưng không có khả năng nuôi dưỡng thì người giám hộ, cha mẹ đẻ, người thân thích có trách nhiệm báo cáo Ủy ban nhân dân cấp xã nơi trẻ em thường trú tìm gia đình thay thế cho trẻ em. Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm hỗ trợ nuôi dưỡng trẻ em và thông báo, niêm yết tại trụ sở trong thời hạn 60 ngày để tìm người nhận trẻ em làm con nuôi. Nếu có người nhận trẻ em làm con nuôi, thì Ủy ban nhân dân cấp xã xem xét, giải quyết. Hết thời hạn thông báo, niêm yết, nếu không có người trong nước nhận trẻ em làm con nuôi thì Ủy ban nhân dân cấp xã lập hồ sơ đưa trẻ em vào cơ sở nuôi dưỡng.

Bên cạnh đó, Bộ Tư pháp là cơ quan có trách nhiệm thông báo tìm người nhận trẻ em làm con nuôi bằng cách đăng thông tin lên trên trang thông tin điện tử của Bộ Tư pháp. Trong thời hạn 60 ngày, kể từ ngày thông báo, nếu có người trong nước nhận trẻ em làm con nuôi thì hướng dẫn người đó liên hệ với Ủy ban nhân dân cấp xã nơi trẻ em thường trú để xem xét, giải quyết. Nếu việc nhận con nuôi đã hoàn thành thì Ủy ban nhân dân cấp xã báo cáo Bộ Tư pháp để xóa tên trẻ em đó trong danh sách trẻ em cần tìm gia đình thay thế.

Điều 8 Luật Nuôi con nuôi 2010 quy định điều kiện để một cá nhân, được nhận làm con nuôi phải là trẻ em dưới 16 tuổi hoặc trẻ em từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi nếu thuộc một trong hai trường hợp: Được cha dượng, mẹ kế nhận làm con nuôi; Được cô, cậu, gì, chú, bác ruột nhận làm con nuôi. Một người chỉ được làm con nuôi của một người độc thân hoặc của cả hai người là vợ chồng. Để được nhận người khác là con nuôi thì cha mẹ nuôi cũng phải đáp ứng các điều kiện quy định tại Điều 14 Luật Nuôi con nuôi 2010, cụ thể: Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; Hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên; Có sức khỏe, kinh tế, chỗ ở bảo đảm việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi; Có tư cách đạo đức tốt.

Pháp luật quy định cụ thể về điều kiện của trẻ em được nhận nuôi và điều kiện của cha mẹ nhận con nuôi nhằm mục đích tránh trường hợp: Lợi dụng việc nuôi con nuôi để trục lợi, bóc lột sức lao động, xâm hại tình dục của con nuôi; Bắt cóc, mua bán trẻ em; Lợi dụng việc làm con nuôi của thương binh, người có công với cách mạng, người thuộc dân tộc thiểu số để hưởng chế độ, chính sách ưu đãi của Nhà nước; Lợi dụng việc nuôi con nuôi để vi phạm pháp luật, phong tục tập quán, đạo đức, truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc.

Về thành phần hồ sơ nhận nuôi con nuôi được quy định tại Điều 17 và điều 18 của Luật Nuôi con nuôi 2010. Theo đó, hồ sơ của người nhận con nuôi gồm có: Đơn xin nhận con nuôi; Bản sao giấy tờ chứng thực cá nhân; Phiếu lý lịch tư pháp; Văn bản xác nhận tình trạng hôn nhân; Giấy khám sức khỏe; Văn bản xác nhận hoàn cảnh gia đình, tình trạng chỗ ở, điều kiện kinh tế. Hồ sơ của người được giới thiệu là con nuôi gồm có: Giấy khai sinh; Giấy khám sức khỏe; Hai ảnh chân dung; Các giấy tờ chứng minh nhân thân của trẻ.

Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi thường trú của người được giới thiệu làm con nuôi hoặc của người nhận con nuôi đăng ký việc nuôi con nuôi trong nước. Thời hạn giải quyết việc nuôi con nuôi là 30 ngày, kể từ ngày Ủy ban nhân dân cấp xã nhận đủ hồ sơ hợp lệ.

Ngoài ra, việc nhận nuôi con nuôi phải được sự đồng ý của cha mẹ đẻ của người được nhận làm con nuôi; nếu cha đẻ hoặc mẹ đẻ đã chết, mất tích, mất năng lực hành vi dân sự hoặc không xác định được thì phải được sự đồng ý của người còn lại. Nếu cả cha mẹ đẻ đều đã chết, mất tích, mất năng lực hành vi dân sự hoặc không xác định được thì phải được sự đồng ý của người giám hộ. Trường hợp nhận trẻ em từ đủ 09 tuổi trở lên làm con nuôi thì còn phải được sự đồng ý của trẻ em đó. Sự đồng ý phải hoàn toàn tự nguyện, trung thực, không bị ép buộc, không bị đe dọa hay mua chuộc, không vụ lợi, không kèm theo yêu cầu trả tiền hoặc lợi ích vật chất khác. Cha mẹ đẻ chỉ được đồng ý cho con làm con nuôi sau khi con đã được sinh ra ít nhất 15 ngày.

Sau khi hoàn thành thủ tục nhận nuôi con nuôi, cha mẹ nuôi còn có trách nhiệm báo cáo cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi mình thường trú biết về tình trạng của con nuôi. Cụ thể: Sáu tháng một lần trong thời hạn 03 năm, kể từ ngày giao nhận con nuôi, cha mẹ nuôi có trách nhiệm thông báo cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi họ thường trú về tình trạng sức khỏe, thể chất, tinh thần, sự hòa nhập của con nuôi với cha mẹ nuôi, gia đình, cộng đồng. Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cha mẹ nuôi thường trú có trách nhiệm kiểm tra, theo dõi tình hình thực hiện việc nuôi con nuôi.

Như vậy, có thể thấy, pháp luật hiện hành liên quan đến việc nuôi con nuôi đã có những quy định hết sức thiết thực, hiệu quả vừa bảo vệ được sự phát triển lành mạnh, bình thường của trẻ em, vừa hạn chế được việc lợi dụng nhận nuôi con nuôi để thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức xã hội, bảo vệ tối đa quyền và lợi ích hợp pháp của người được nhận làm con nuôi.

Ý NHƯ

Bộ Y tế không yêu cầu xét nghiệm với hành khách đã tiêm vaccine Covid-19

Lê Minh Hoàng