Phú Thọ: Lãnh đạo Chi cục THADS huyện Thanh Sơn bị 'tố' lạm quyền

12/11/2020 03:16 | 3 năm trước

(LSVN) - Sau khi thu thập được tài liệu, chứng cứ chứng minh ông Lê Quang Lâm - Chi cục Phó Chi Cục THADS huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ và ông Bùi Vĩnh Bảo - Chấp hành viên có hành vi vi phạm pháp luật hình sự, có dấu hiệu của tội “Lạm quyền trong khi thi hành công vụ”, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của mình, bà Phan Thị Bích Hằng đã có đơn tố cáo nhưng đến nay chưa được các cơ quan chức năng giải quyết, xử lý.

Bị “tố” lạm quyền

Phản ánh đến Tạp chí Luật sư Việt Nam, bà Phan Thị Bích Hằng (trú tại khu Tân Hương, xã Hương Cần, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ) cho biết: Trong quá trình được giao thực hiện thi hành án đối với Bản án số 11/2014/DS-ST ngày 28/8/2014 của TAND huyện Thanh Sơn, Chi cục Trưởng Chi cục THADS huyện Thanh Sơn đã ban hành Quyết định 06/QĐ-CCTHA ngày 28/9/2015 để thi hành án.

Tuy nhiên, theo nội dung Bản án số 11/2014/DS-ST thì tài sản thi hành án là Quyền sử dụng đất (QSDĐ) số M099694, diện tích 168m2, tờ bản đồ số 13A, số thửa đất 139. Thế nhưng trong quá trình thực hiện thi hành án, ông Lê Quang Lâm đã thực hiện trái nội dung bản án, cưỡng chế cả phần đất không được tuyên trong bản án, không thế chấp, chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Diện tích đất bà Hằng tố cáo Chi Cục THADS cố tình cưỡng chế vượt diện tích thế chấp.

Ngoài ra, bà Hằng cho biết, trong quá trình tố cáo, khởi kiện vụ án tại tòa án, bà Hằng đã tìm kiếm được tài liệu mà cơ quan thi hành án huyện Thanh Sơn đã “cất giấu” là: Hợp đồng bán đấu giá tài sản; Thông báo thi hành án; Biên bản bán đấu giá tài sản; Hợp đồng mua bán tài sản bán đấu giá; Thông báo về việc bán đấu giá thành…

“Theo đó, nội dung các tài liệu này đều thể hiện tài sản bán đấu giá là QSDĐ  số M099694, diện tích 168m2, tờ bản đồ số 13A, số thửa đất 139 đúng theo quyết định bản án đã tuyên và hợp đồng thế chấp. Trên thực tế, sau khi bán đấu giá thành, ký hợp đồng mua bán tài sản bán đấu giá là 168m2 đất trên, ông Lâm đã ban hành quyết định cưỡng chế giao toàn bộ diện tích 260,1m2 đất cho người trúng đấu giá, trong đó có 92,1m2 không thuộc tài sản thế chấp, bán đấu giá. Việc làm sai trái này khiến gia đình tôi không còn chỗ ở, màn trời chiếu đất, chồng chết không có chỗ để thờ cúng”, bà Hằng cho biết.

Tiếp đó, ngày 25/9/2017, ông Lê Quang Lâm ban hành Quyết định số 21/QĐ-CCTHADS về việc cưỡng chế giao tài sản cho người mua được tài sản bán đấu giá; Thông báo số 83/TB-CCTHADS về việc giao tài sản…Ngày 29/9/2017, ông Lê Quang Lâm tiếp tục lập biên bản cưỡng chế giao tài sản, theo đó giao toàn bộ tài sản là quyền sử dụng đất 260,1m2 trong đó có 168m2 đất đã được cấp giấy chứng nhận QSDĐ và 92,1m2 đất chưa được cấp giấy chứng nhận QSDĐ của gia đình bà Hằng.

Bà Hằng cho rằng: “Với việc ban hành quyết định cưỡng chế, quyết định bàn giao tài sản, ông Lâm đã cố tình lạm dụng quyền hạn của mình tự ý ban hành quyết định cưỡng chế, thông báo giao tài sản và lập biên bản giao tài sản là quyền sử dụng đất không được bán là 92,1m2 đất của gia đình tôi, không đúng với bản án, không đúng nội dung bán đấu giá, hợp đồng bán đấu giá, hành vi này là trái quy định pháp luật”.

Tự ý hủy kết quả đấu giá

Về hành vi của ông Bùi Vĩnh Bảo – Chấp hành viên, bà Hằng cho biết, trước khi Công ty Dịch vụ đấu giá Việt Nam với ông Trần Duy Luân ký Hợp đồng mua bán tài sản đấu giá số 228-14/HĐMB-VAS.PT ngày 17/8/2017, Công ty này đã ký Hợp đồng mua bán tài sản bán đấu giá số 02/12/HĐMB-VAS.PT ngày 18/5/2016 thành với ông Vũ Duy Hoàng (địa chỉ xã Hương Cần, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ) được hơn 1,2 tỉ đồng.

Tuy nhiên, sau đó ông Bùi Vĩnh Bảo được giao thực hiện thi hành án đã hoàn trả tiền mua trúng đấu giá tài sản cho ông Vũ Duy Hoàng. Trong khi đó, theo khoản 1 Điều 48 Nghị định số 17 năm 2010 của Chính phủ quy định: Kết quả đấu giá bị hủy trong trường hợp sau đây: Do thỏa thuận của người có tài sản bán đấu giá, người mua được tài sản đấu giá và tổ chức bán đấu giá tài sản.

“Gia đình tôi và ông Hoàng không có bất kỳ biên bản thỏa thuận nào về việc đồng ý  hủy kết quả đấu giá thành của ông Hoàng. Như vậy, việc Chi cục THADS huyện Thanh Sơn, Công ty Đấu giá Việt Nam tự ý hủy kết quả đấu giá, trả lại tiền cho người trúng đấu giá, là không đúng quy định pháp luật như viện dẫn trên. Gây thiệt hại 400 triệu cho gia đình tôi”, bà Hằng cho biết.

Theo đó, bà Hằng cho rằng, với trách nhiệm của cơ quan thi hành án, với vai trò chấp hành viên được giao nhiệm vụ phải thực hiện thủ tục cưỡng chế bàn giao tài sản cho ông Hoàng, nhưng cơ quan thi hành án đã không làm, đã không thực hiện đúng nhiệm vụ của chấp hành viên được giao.

“Kết luận tố cáo trước đó nêu, việc chi trả lại tiền cho người mua trúng đấu giá là ông Vũ Duy Hoàng là vi phạm Điều 103 Luật Thi hành án dân sự năm 2008. Do đó, hành vi này của ông Bảo có dấu hiệu của tội “Lạm quyền trong khi thi hành công vụ được quy định tại điều 357 Bộ Luật hình sự”, bà Hằng nói.

Ngoài ra, bà Hằng cho rằng, nội dung giải trình của người bị tố cáo không trung thực. Ông Bảo, ông Lâm cho rằng không chiếm đoạt số tiền 400 triệu đồng trong việc thay đổi kết quả đấu giá. Vậy, tại sao kết quả đấu giá được là 1.261.000.000 đồng, đã thu tiền của người trúng đấu giá lại hủy trả lại tiền và tổ chức bán đấu giá lại với giá 860.000.000 đồng, giảm 400 triệu đồng. Gây thiệt hại cho gia đình bà 400 triệu đồng. Ai phải chịu trách nhiệm về việc này?

Được biết, ngày 14/5/2020, VKSND Tối cao đã có Văn bản số 1999/VKSTC-V6 về việc chuyển đơn giải quyết theo thẩm quyền cho Cơ quan điều tra của VKSND Tối cao giải quyết. Nhưng đến nay, Cơ quan điều tra của VKSND Tối cao vẫn chưa có kết luận xử lý đối với các hành vi có dấu hiệu vi phạm hình sự của ông Lê Quang Lâm và ông Bùi Vĩnh Bảo, thu hồi số tiền 400 triệu đồng thất thoát do vi phạm về bán đấu giá tài sản, trả lại tôi diện tích 92,1m2 cưỡng chế trái pháp luật, đảm bảo  quyền và lợi ích hợp pháp của gia đình tôi.

“Gia đình tôi mong rằng Cơ quan điều tra của ViKSND Tối cao sớm xem xét điều tra, khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can đối với ông Lê Quang Lâm, ông Bùi Vĩnh Bảo đối về hành vi vi phạm pháp luật hình sự có dấu hiệu của tội “Lạm quyền trong khi thi hành công vụ” được quy định tại Điều 357 BLHS để đảm bảo tính nghiêm minh, khách quan của pháp luật, tránh bỏ lọt tội phạm và đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của gia đình tôi”, bà Hằng nói.

PV

/nguoi-co-quyen-loi-nghia-vu-lien-quan-trong-vu-an-tranh-chap-ve-quyen-su-dung-dat.html