Đơn thư bà bà Đào Thị Mai gửi đến tòa soạn Tạp chí Luật sư Việt Nam.
Từ đơn thư vợ tố cáo chồng quan hệ bất chính
Tòa soạn Tạp chí Luật sư Việt Nam nhận được đơn thư của bà Đào Thị Mai (SN 1962), phản ánh về việc bà Hà Thị Ấm hiện là giáo viên Trường Tiểu học Tân Khai A, huyện Hớn Quản, tỉnh Bình Phước có quan hệ bất chính, chung sống như vợ chồng với chồng bà là ông Phạm Đức Thiện, vi phạm Luật Hôn nhân và Gia đình. Sự việc trên đã được Huyện ủy Hớn Quản tiếp nhận, giải quyết, khai trừ đảng đối với bà Ấm, nhưng hiện nay, bà Mai tiếp tục phản ánh việc bà Ấm, ông Thiện mượn CMND của ông Đạt để tự ý đăng ký kết hôn và làm giấy khai sinh cho con,…
Theo phản ánh, bà Đào Thị Mai và ông Phạm Đức Thiện kết hôn năm 1988, đăng kí tại UBND thị trấn Nông Trường, huyện Điện Biên, tỉnh Lai Châu (nay là tỉnh Điện Biên), đã sinh được 03 người con chung. Hai vợ chồng sống hạnh phúc cho đến năm 2015 có phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do ông Thiện đi làm ăn xa tại tỉnh Bình Phước có mối quan hệ bất chính với bà Hà Thị Ấm là Phó Hiệu trưởng Trường Tiểu học Tân Lợi. Từ năm 2015 đến nay, ông Thiện và bà Ấm chung sống với nhau như vợ chồng và có 01 người con chung sinh ngày 29/8/2017. Thời gian đầu khi bà Mai phát hiện, ông Thiện vẫn giấu. Mãi đến năm 2021, ông Thiện mới nói rõ ràng về việc có con riêng và có quan hệ với người phụ nữ khác.
Khi biết chắc chắn cháu bé là con ông ông Thiện và bà Ấm, bà Mai nói chuyện với bà Ấm, bà Ấm thừa nhận quan hệ bất chính với ông Thiện và hứa sẽ chấm dứt mối quan hệ bất chính với ông Thiện (có cam kết), nhưng sau đó bà Ấm đã không thực hiện. Bà Mai làm đơn gửi các cơ quan chức năng huyện Hớn Quản. Ngày 23/9/2021, Đảng ủy thị trấn Tân Khai có Thông báo số 35/-TB/ĐU giải quyết tố cáo đối với bà Hà Thị Ấm, đảng viên, giáo viên Trường tiểu học Tân Khai A. Theo đó, Đảng ủy thị trấn Tân Khai kết luận: Việc tố cáo đồng chí Hà Thị Ấm có quan hệ bất chính với ông Phạm Đức Thiện và có 01 con chung tên là đúng; vi phạm mục 17, Quy định số 47-QĐ/TW ngày 01/11/2011 của BCH Trung ương về những đảng viên không được làm; vi phạm theo điểm a, khoản 3, Điều 24, Quy định số 102-QĐ-TW, ngày 15/11/2017 về Quy định xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm; yêu cầu Chi bộ Trường tiểu học Tân Khai A tiến hành họp và có hình thức xử lý kỷ luật đảng viên Hà Thị Ấm theo quy định.
Thông báo về việc giải quyết đơn đề nghị của Đảng ủy thị trấn Tân Khai.
Sau đó, Ủy ban Kiểm tra Huyện ủy Hớn Quản có quyết định thi hành kỷ luật đồng chí Hà Thị Ấm bằng hình thức khai trừ Đảng.
Những tưởng rằng việc ở đó dừng lại, nhưng bà Mai tiếp tục phản ánh ông Thiện, bà Ấm vẫn tiếp tục quan hệ. Không những vậy, bà Mai còn tố ông Phạm Đức Thiện và bà Hà Thị Ấm mượn CMND (bản photo) của ông Phạm Hiến Đạt (phường 14, quận Bình Thạnh, TP. Hồ Chí Minh) để làm Giấy chứng nhận kết hôn giữa bà Hà Thị Ấm và ông Phạm Hiến Đạt ngày 25/4/2017, mục đích để làm giấy khai sinh cho cháu bé.
Đăng ký kết hôn và Giấy khai sinh (bà Đào Thị Mai cung cấp).
Quy định pháp luật về hộ tịch, hôn nhân và gia đình...
Trao đổi về vấn đề trên, Thạc sĩ, Luật sư Bùi Minh Bằng, Văn phòng Luật sư Anh Bằng và liên danh cho biết, theo Điều 30 Bộ luật Dân sự năm 2015, quyền của cá nhân về khai sinh được quy định như sau: Cá nhân từ khi sinh ra có quyền được khai sinh; trẻ em sinh ra mà sống được từ hai mươi bốn giờ trở lên mới chết thì phải được khai sinh và khai tử; nếu sinh ra mà sống dưới hai mươi bốn giờ thì không phải khai sinh và khai tử, trừ trường hợp cha đẻ, mẹ đẻ có yêu cầu.
Từ quy định này có thể thấy, việc khai sinh là quyền của cá nhân có được kể từ khi sinh ra kể cả trẻ em chỉ sống được 24 giờ trước khi sinh cũng phải được khai sinh. Chỉ trường hợp sống không được 24 giờ thì có thể được khai sinh theo yêu cầu của cha, mẹ đẻ.
Đồng thời, Điều 15 Luật Hộ tịch cũng quy định, cha, mẹ phải có trách nhiệm đăng ký khai sinh cho con trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày sinh con. Không chỉ vậy, để nêu cao trách nhiệm đăng ký khai sinh cho trẻ, khoản 2 Điều 15 Luật Hộ tịch còn nêu rõ: Công chức tư pháp – hộ tịch thường xuyên kiểm tra, đôn đốc việc đăng ký khai sinh cho trẻ em trên địa bàn trong thời hạn quy định; trường hợp cần thiết thì thực hiện đăng ký khai sinh lưu động.
Có thể thấy, khai sinh cho trẻ không chỉ là quyền lợi của mỗi cá nhân ngay sau khi được sinh ra mà còn là trách nhiệm của cha, mẹ hoặc ông, bà, người thân thích, cá nhân, tổ chức đang nuôi dưỡng trẻ thậm chí cả công chức tư pháp, hộ tịch.
Do đó, nếu đặt giả sử trong tình huống này, mặc dù có con với người đã có gia đình, tuy nhiên, quyền được khai sinh là quyền cơ bản của cháu bé.
Nếu trường hợp chưa đăng ký kết hôn, thậm chí cha của đứa bé còn đang có vợ thì người con sinh ra vẫn được khai sinh nhưng sẽ được khai sinh theo diện không xác định được cha, mẹ. Khi đó, nếu đi khai sinh thì phần tên cha trong giấy khai sinh của đứa bé sẽ để trống theo phân tích ở trên.
Tuy nhiên, nếu muốn để con có cả cha và mẹ trong giấy khai sinh thì khoản 3 Điều 15 Nghị định 123/2015 hướng dẫn đăng ký khai sinh cho trẻ chưa xác định được cha, mẹ quy định: Nếu vào thời điểm đăng ký khai sinh người cha yêu cầu làm thủ tục nhận con theo quy định tại khoản 1 Điều 25 của Luật Hộ tịch thì Ủy ban nhân dân kết hợp giải quyết việc nhận con và đăng ký khai sinh; nội dung đăng ký khai sinh được xác định theo quy định tại Khoản 1 Điều 4 của Nghị định này.
Theo đó, nếu tại thời điểm khai sinh mà người cha yêu cầu làm thủ tục nhận cha, mẹ, con thì Ủy ban nhân dân cấp xã sẽ kết hợp giải quyết việc nhận con và đăng ký khai sinh. Khi đó, con đã được nhận cha và đồng thời được đăng ký khai sinh có tên người cha vừa nhận luôn. Trường hợp này, Ủy ban nhân dân xã sẽ kết hợp thực hiện 02 thủ tục nhận cha, mẹ, con và thủ tục đăng ký khai sinh. Do đó, trong giấy khai sinh sẽ có đầy đủ cả tên của cha và mẹ.
Cũng theo Luật sư Bằng, có con với người đã có vợ/chồng sẽ bị phạt theo quy định của pháp luật. Theo đó, nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình được pháp luật tôn trọng, bảo vệ nêu tại khoản 1 Điều 2 Luật Hôn nhân và Gia đình như sau: Hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng.
Đồng thời, việc người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ là hành vi bị nghiêm cấm nêu tại Điều 5 Luật Hôn nhân và Gia đình.
Theo đó, trường hợp có con với người đang có gia đình thì bị xử phạt như sau: Phạt hành chính, căn cứ khoản 1 Điều 59 Nghị định số 82 năm 2020, sẽ bị phạt tiền từ 03 - 05 triệu đồng do đang có vợ hoặc đang có chồng mà chung sống như vợ chồng với người khác; chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng hoặc đang có vợ.
Luật sư Bằng cho biết thêm, việc chung sống với người đã có vợ/chồng cũng có thể phải chịu trách nhiệm hình sự. Theo đó, nếu là người đang có chồng mà chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có chồng mà chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có vợ thì căn cứ vào Điều 182 Bộ luật Hình sự năm 2015, sẽ bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng - 01 năm nếu làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn; đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm.
Đặc biệt, sẽ bị phạt tù từ 06 tháng - 03 năm nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây: Làm cho vợ, chồng hoặc con của một trong hai bên tự sát; đã có quyết định của Tòa án hủy việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó.
PV
Một số nội dung mới của dự thảo Nghị định về vị trí việc làm, biên chế công chức