LSVNO - Năm Nhâm Ngọ (1042), Luật Hình thư được ban hành, được xem là bộ luật thành văn đầu tiên của nước Việt. Trước đó, đa phần ý kiến của các nhà nghiên cứu luật học, sử học cho rằng, nước Việt chưa có luật thành văn. Vậy lúc ấy, chính quyền cai trị thần dân như thế nào? Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi giới hạn chủ đề ở việc hành pháp của Đinh Tiên Hoàng (968 - 979) khi luật thành văn chưa được ban hành, để qua đó, ta có một cảm nhận về việc thực hành luật pháp nước Việt khi chưa có luật chính thức bằng văn bản.
Cố đô Hoa Lư (Ninh Bình). Ảnh: Internet
Luật bất thành văn
Thời nhà Ngô (938-965) với mở đầu trang sử độc lập, tự chủ của dân tộc ta sau chiến thắng Bạch Đằng năm Mậu Tuất (938), rồi các triều đại tiếp nối về sau là nhà Đinh (968-980), nhà Tiền Lê (980-1009) củng cố vững chắc nền tảng độc lập, tự chủ đó để về sau chế độ phong kiến Đại Việt dần đi vào hoàn thiện, phồn thịnh.
Cũng bởi mới bước đầu xác lập, xây dựng chế độ phong kiến, nên các triều đại lúc này vào thế kỷ X còn nhiều điểm mang tính sơ khai, chưa được hoàn chỉnh. Tiếng là đã chế định triều nghi từ thời nhà Ngô với hai ban văn võ, nhưng trong lĩnh vực hình pháp thì luật pháp thành văn chưa xuất hiện, triều đình xét xử vẫn dùng luật tục trong dân gian là chủ yếu. Phải đến thời Hậu Lý (1009-1225), cơ quan chuyên trách pháp luật là Bộ hình và Thẩm hình viện được xây dựng, rồi bộ luật thành văn đầu tiên là Hình thư ra đời năm Nhâm Ngọ (1042), lúc ấy nền móng cho pháp luật nước Nam mới có và phát huy vào các đời sau với Quốc triều thông chế nhà Trần, Đại Ngu quan chế hình luật đời Hồ, Quốc triều hình luật thời Lê sơ...
Trong giai đoạn chuyển giao thời đại từ Bắc thuộc đi lên độc lập tự chủ, đất nước mới có được nền nhất thống sơ khai, phải lo củng cố sức mạnh quân sự để đương đầu với sự xâm lược trở lại của giặc phương Bắc, thế nên dễ hiểu là trong hàng ngũ quan lại, chủ yếu là quan võ, ngay cả các vị vua thời Ngô, Đinh, Tiền Lê đều là những người giỏi về chiến trận, đánh dẹp hơn là văn nghiệp. Thời nhà Đinh, Vạn Thắng vương Đinh Bộ Lĩnh sau khi lên ngôi Hoàng đế thì như lời Việt sử tiêu án cho biết: “Vua định phẩm bậc của các quan văn, võ và tăng đạo: Nguyễn Bặc làm Định quốc công, Lưu Cơ làm Đô hộ phủ sĩ sư, Lê Hoàn làm Thập đạo tướng quân, Ngô Chân Lưu được hiệu là Khuông việt thái sư, Trương Ma Ní làm Tăng lục đạo sĩ”.
Nhưng, trị nước không chỉ là gươm bén, cung căng, giáo dài… mà còn bao việc phải lo cho quốc thái dân yên. Trong đó không đời nào là không có kẻ phạm tội lớn nhỏ nên dĩ nhiên phải có việc xét xử, kiện tụng án nọ, án kia. Thế nên khi nhà Đinh thay nhà Ngô, vua Đinh Tiên Hoàng cũng quan tâm tới vấn đề đó. Nhưng vua áp dụng một biện pháp chưa từng có trong sử nước Nam ta nói chung và Đại Cồ Việt nói riêng.
Theo sử cũ truyền lại: “Vua (Đinh Tiên Hoàng) muốn dùng uy chế ngự thiên hạ, bèn đặt vạc lớn ở sân triều, nuôi hổ dữ trong cũi, hạ lệnh rằng: “Kẻ nào trái phép phải chịu tội bỏ vạc dầu, cho hổ ăn”[1]. Trong Nam Việt lược sử cũng cho biết điều tương tự: “Vua này bày luật lệ rất nghiêm; trước sân chầu có để vạc dầu sôi, có nhốt thú dữ, mà răn dân sự, cho chúng nó bỏ thói hung hăng theo đời 12 sứ quân”[2]. Còn vua Tự Đức cũng đề cập tới cách xét án của Đinh Tiên Hoàng trong thơ vịnh như sau:
Lộ trượng tranh phù “Vạn Thắng vương”,
Hoa Lư định đỉnh quýnh tầm thường.
Đình trung dưỡng hổ tương thùy phạt?
Đỗ thị, Lê gia nhựt tại bàng.
Tạm dịch:
Lau vác đua phò “Vạn Thắng vương”,Hoa Lư định đỉnh khác tầm thường.
Phạt ai, mãnh hổ nuôi trong cũi?
Họ Đỗ nhà Lê chực sẵn sàng.
Đua vác cờ lau “Vạn Thắng” nghinh,Hoa Lư đế nghiệp khác thường tình.
Giữa sân nuôi cọp tru ai đó?
Họ Đỗ, nhà Lê đã rập rình[3].
Ghi nhận một trong những đặc trưng riêng thời trị vì của Đinh Tiên Hoàng, Đại Nam quốc sử diễn ca lưu ý:
Pháp hình cũng lạ xưa nay,
Hùm nuôi trong cũi, vạc bày ngoài sân[4].
Thực hư của “pháp hình” này như thế nào? Ta cùng tìm hiểu.
Pháp hình có nghiệt?
Các triều đại sau thời Đinh dù khi khép tội tử hình, có những cách xử khác nhau như lăng trì, giảo (thắt cổ), trảm (chém đầu), khiêu (chém bêu đầu) hay dùng thuốc độc… nhưng xét ra biện pháp xử án dùng “hổ dữ, vạc dầu” như được nói ở trên chắc chắn là rất khắc nghiệt. Bởi nếu xét kỹ với hai cách xử án này, thì số phận con người cũng là bị xử tử, nhưng cách tử hình ấy là đối với giống cầm thú, chẳng khác gì quăng con hươu, con nai cho cọp vồ, luộc con gà, con vịt trong nước sôi cho người giết thịt. Đối xử với đồng loại như thế, có bất nhân không?
Tượng vua Đinh Tiên Hoàng. Ảnh: Internet
Cách xử án của vua Đinh Tiên Hoàng xét về tình rõ ràng bất hợp lý, không phù hợp với văn hóa trọng nghĩa tình, đạo lý của dân ta, nhưng xét về lý lại có cái lý riêng của nó. Phải đặt trong bối cảnh lịch sử nước ta thế kỷ X mới thấy được cách làm của Đinh Tiên Hoàng. Bởi chăng:
Nước có nền tự chủ chưa được bao lâu, loạn 12 sứ quân vừa được vãn hồi, ắt trong nhân gian vẫn còn nhiều nơi này, nơi khác có mầm mống phản loạn, chứng thực về sau có nhiều vụ như ngay con rể vua là Ngô Nhật Khánh làm phản, hay Chi hậu nội nhân Đỗ Thích ám sát vua… mới thấy cái mầm phản loạn còn nhiều tới mức nào. Trong khi đó, quan chuyên về võ phần nhiều, thi cử chọn người tài chưa có, việc chế định luật pháp bởi thế cũng chưa thể thực hiện. Để dựng nước, yên dân, diệt mầm loạn đảng, bớt việc sai trái, vua mới cho đúc vạc lớn, nấu dầu sôi giữa sân điện, lại bắt hổ dữ cho vào cũi lấy đó mà dọa kẻ nào manh tâm làm việc trái nghịch. Trong thế kỷ X, việc nuôi hổ dữ trong cũi sắt, nấu dầu sôi giữa sân điện đời Ngô trước đó không có, đời Tiền Lê về sau cũng không có hình phạt nào tương tự thế, mà chỉ có ở đời vua Đinh Tiên Hoàng. Điều đó lại cho thấy vấn đề ở người trị vì. Theo các sử quan thời Nguyễn cho biết: “Tiên Hoàng nhà Đinh là người vô học, không có mưu mô gì, dữ tợn, kiêu căng”[5]. Hoặc sau này, Việt sử mông học có ghi về vua:Trí dũng thì có thừa,
Học vẫn còn chưa đủ.
Mọi hình pháp đặt ra,
Thị uy bằng nuôi hổ[6].
Như vậy, hình phạt ấy xuất hiện thời Đinh Tiên Hoàng chính từ cái dương tính rất mạnh của vua nên từ đó khi muốn trấn áp thiên hạ, vua đã đặt ra phương thức này.
Bên cạnh đó, nước Nam ta có sự giao lưu văn hóa với Trung Hoa. Trong lịch sử Trung Hoa xưa kia, có nhiều vị vua cũng đã từng dùng những biện pháp mạnh để xét xử làm cho người đời khiếp sợ như Trụ Vương đời Thương đặt ra hình phạt “bào lạc”, “sái bồn” (sẽ giải thích bên dưới), hay Tần Thủy Hoàng ném người vào vạc dầu sôi… Vua Đinh trong một chừng mực nào đó không thể không bị ảnh hưởng bởi những tiền lệ đã có đó mà áp dụng cho triều đại mới lập của mình. Một điều cần phải chú ý nữa là thời này luật thành văn chưa có, nhà nước trị dân chủ yếu dùng luật tục. Thế nên khi mà văn bản pháp quy chưa thể ban hành rộng rãi để dân nhất nhật tuân theo, nhà vua đã dùng biện pháp mạnh mà ta thấy là đánh vào tâm lý của nhân gian phần nhiều. Theo GS Vũ Văn Mẫu thì “Trong thời ấy, việc binh đã chiếm hết các nỗi ưu tư của nhà cầm quyền; vì vậy, việc san định luật pháp chưa được đề cập một cách chu đáo”[7]. Cũng theo GS họ Vũ, đây chỉ là biện pháp nhất thời mà thôi.Tính hai mặt của hình pháp thời vua Đinh
Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng dù tiếng là biện pháp mạnh đấy, thậm chí là có phần khắc nghiệt, vô nhân tính, nhưng xét khắp trong sử sách cổ kim chúng ta chưa từng ghi nhận một trường hợp nào phạm trọng tội mà bị Đinh Tiên Hoàng bỏ cho hổ xé xác, phanh thây, hay phải chịu cảnh luộc chín trong vạc dầu sôi đỏ lửa. Ngay lời trích dẫn của Việt sử lược có viết: “Bọn tù tội đều sợ phục, không dám trái mệnh”[8], Đại Việt sử ký toàn thư cũng đồng ý kiến, đủ cho chúng ta thấy biện pháp của Đinh Tiên Hoàng chủ yếu là ngăn ngừa hơn là thực thi. Trong Việt sử toàn thư được hậu thế viết sau này cũng khẳng định: “Nhờ có hình luật nghiêm khắc này, nền an ninh quốc gia được vãn hồi”.
Vậy là, dù biện pháp xử án bị người đời xem là ác nghiệt, nhưng Đinh Tiên Hoàng không giống những ông vua Trung Hoa trước đó. Nếu như Trụ Vương nhà Thương để vui lòng Đắc Kỷ đã tạo nên kiểu xét xử “sái bồn” bằng cách đào hố sâu, bỏ rắn độc vào, lột y phục người bị tội xô xuống cho rắn cắn chết, rồi hình phạt “bào lạc” dùng chiếc cột đồng rỗng ruột đốt lửa đỏ cho nóng, dí nạn nhân vào cho thịt da cháy khét mà chết trong đau đớn. Hoặc Tần Thủy Hoàng ưa hình pháp, chôn sống người phạm tội, lại kẻ nào bất đồng chính kiến, cho bỏ luôn vào vạc dầu sôi suốt mấy ngày đêm làm bao nhiêu quan thần bỏ mạng. Đinh Tiên Hoàng hổ dữ có nuôi, vạc dầu có đỏ lửa, nhưng đó là để khuyên răn những kẻ có dã tâm phạm tội nhìn thấy mà khiếp sợ hơn là hiện thực hóa hình phạt. Vậy là, vua Đinh chỉ đánh vào mặt tinh thần chứ không làm triệt để, khắc nghiệt như người khác. Bởi ông biết, vì việc ác làm mất nhân tâm mà nhà Thương chấm dứt, nhà Tần đoản mệnh. Đinh Tiên Hoàng chắc rằng cũng biết gương tày liếp trong sử Trung Hoa, nên dù là vạc dầu, hổ dữ hay cột đồng nung, đó cũng chỉ là biện pháp khắc chế mà thôi chứ không lạm dụng.
Mặc dù có tác dụng đáng kể giúp cho sơn hà xã tắc trong buổi ban đầu được yên ổn, nhưng việc xử án không dựa vào văn bản, chế luật nhất định của thời Đinh cũng có tác dụng ngược của nó. Với việc xử án theo cảm tính, khi vua đang có tâm trạng vui vẻ, ắt xử án khoan dung, độ lượng. Còn đấng kim thượng mà đương cơn nóng giận, nổi trận lôi đình, thì việc không cũng thành có, ít thành nhiều, mà đúng thành sai là điều không thể không tránh khỏi. Thế nên trong An Nam chí lược của Lê Tắc, khi viết về vua Lê Đại Hành, cũng là thời chưa có luật thành văn, phần thuật lại chuyến đi sứ của Tống Cảo năm Canh Dần (990) có viết về vua ta: “Bọn quan thuộc hễ ai thạo việc, thì chọn vào ở thân cận, ai phạm chút lỗi gì, thì đánh đuổi đi, khi hết giận, thì cho khôi phục chức cũ”.
Tác dụng là thế, nhưng chính vì bản tính ưa dùng vũ lực, ưa sự áp chế hơn là giáo hóa, vỗ về nhân dân, nên nhà Đinh cũng không được lâu bền. Về sau, vua Đinh Tiên Hoàng vẫn bị Đỗ Thích giết hại nơi thềm điện Hoa Lư. Nhà Đinh truyền đến đời thứ hai của Vệ vương Đinh Toàn cũng dứt. Nên sử nhà Nguyễn bình rằng: “Đạo trời ưa kẻ khiêm nhường, răn người tự mãn. Tiên Hoàng nhà Đinh là người vô học, không có mưu mô gì, chẳng qua dữ tợn, kiêu căng, đến nỗi cuối cùng cả hai cha con đều bất đắc kỳ tử, mới được hai đời đã mất! Nhân đức và tàn bạo thật khác nhau hẳn: đáng làm gương chung. Đinh kêu là Vạn Thắng, Tần mong được vạn thế, xe trước xe sau cùng đi một vết, thương thay!”[9].
Chính từ vết xe đổ của tiên triều Đinh nên về sau khi nhà Tiền Lê dứt, nhà Hậu Lý lên nối nghiệp năm Kỷ Dậu (1009), thì đến năm Nhâm Ngọ (1042) đã có Luật Hình thư để giản tiện cho việc xử án, tạo điều kiện cho luật pháp nước ta tiến lên một bước mới từ xét xử bằng luật tục, cảm tính lên xét xử bằng luật nước, luật thành văn có sự quy củ, rõ ràng: “Sách làm xong, xuống chiếu ban hành, dân lấy làm tiện. Đến đây phép xử án được bằng thẳng rõ ràng” - lời của Đại Việt sử ký tiền biên về sự tiện dụng của luật thành văn từ thời Lý. Cũng phải thấy rằng, có bước quá độ từ việc hành pháp thời các triều vua trước đó, trong đó có thời Đinh Tiên Hoàng, mới ra được vậy.
---*---
[1] Ngô Sĩ Liên và các sử quan nhà Lê (1998), Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.211.
[2] Nguyễn Văn Mai (1919), Nam Việt lược sử, Imprimerie et Librairie J. Việt, Sài Gòn, tr.13.
[3] Dực Tông Anh Hoàng đế (Lê Xuân Giáo, Nguyễn Quang Tô dịch) (1970), Ngự chế Việt sử tổng vịnh, tập Thượng, Phủ Quốc vụ khanh đặc trách văn hóa xuất bản, Sài Gòn, tr.75.
[4] Lê Ngô Cát, Phạm Đình Toái (Ngọc Hồ, Nhất Tâm tường giải) (1972), Đại Nam quốc sử diễn ca, Sống Mới xuất bản, Sài Gòn, tr.114.
[5] Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), Khâm định Việt sử thông giám cương mục, tập I, Nxb.Giáo dục, Hà Nội, tr.225.
[6] Ngô Đức Dung (1998), Việt sử mông học (từ Hồng Bàng đến 1945), Nxb. Văn học, Hà Nội, tr.83.
[7] Vũ Văn Mẫu (1972), Cổ luật Việt Nam thông khảo, Quyển thứ nhất, Sài Gòn, tr.106.
[8] Khuyết danh (Trần Quốc Vượng dịch) (2005), Việt sử lược, Nxb. Thuận Hóa, Huế, tr.54.
[9] Quốc sử quán triều Nguyễn, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, tập I, Sđd, tr.225
Trần Đình Ba