Ảnh minh họa.
Theo đó, Luật Đất đai năm 2013 đã quy định một trong các điều kiện để được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất để thực hiện dự án đầu tư là “không vi phạm quy định của pháp luật về đất đai đối với trường hợp đang sử dụng đất do Nhà nước giao đất, cho thuê đất để thực hiện dự án đầu tư khác” (điểm c khoản 3 Điều 58).
Tại điểm b khoản 3 Điều 14 và khoản 3 Điều 15 Nghị định 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai đã quy định cụ thể việc công bố tình trạng vi phạm pháp luật đất đai và kết quả xử lý vi phạm pháp luật đất đai trên trang thông tin điện tử của Bộ Tài nguyên và Môi trường và của Tổng cục Quản lý đất đai để các địa phương khác tra cứu, xác định vi phạm trên phạm vi cả nước.
Theo quy định tại Điều 233 Luật Đất đai năm 2024 thì thông tin về vi phạm pháp luật đất đai và kết quả xử lý vi phạm được quy định trong Hệ thống theo dõi và đánh giá đối với việc quản lý và sử dụng đất đai thuộc Hệ thống thông tin đất đai quốc gia.
Tại Điều 101 và Điều 102 Nghị định 102/2024/NĐ-CP ngày 30/7/2024 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai đã có quy định cụ thể việc theo dõi, đánh giá, cung cấp và phản ánh thông tin tình hình vi phạm pháp luật đất đai trên Hệ thống thông tin đất đai quốc gia.
Trong thời gian chưa hoàn thiện Hệ thống thông tin đất đai quốc gia, để đăng công khai các trường hợp vi phạm pháp luật đất đai. Bộ Tài nguyên và Môi trường đề nghị Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tiếp tục chỉ đạo thực hiện việc tổng hợp, công khai các trường hợp vi phạm và kết quả xử lý vi phạm pháp luật đất đai (việc khắc phục vi phạm pháp luật đất đai) trên Cổng thông tin điện tử của Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; đồng thời gửi báo cáo kết quả về Bộ Tài nguyên và Môi trường để đăng công khai trên Cổng thông tin điện tử của Bộ Tài nguyên và Môi trường.
VĂN QUANG