/ Tổng thuật Tọa đàm: Xây dựng chế định luật sư công theo tinh thần Nghị quyết số 66-NQ/TW
Tổng thuật Tọa đàm: Xây dựng chế định luật sư công theo tinh thần Nghị quyết số 66-NQ/TW
22/08/2025 09:00 |
(LSVN) - Sáng nay (ngày 22/8), Tạp chí Luật sư Việt Nam đã tổ chức Tọa đàm khoa học với Chủ đề: “Xây dựng chế định luật sư công theo tinh thần Nghị quyết số 66-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương" nhằm tạo diễn đàn pháp lý để các luật sư cùng thảo luận, bàn bạc, đưa ra các quan điểm đề xuất về xây dựng chế định luật sư công tại Việt Nam, vừa phù hợp với các quy định pháp luật; tạo vị thế pháp lý, cơ chế hợp tác vững chắc cho chế định luật sư công hoạt động…
Tham dự Tọa đàm có Luật sư, Tiến sĩ Đỗ Ngọc Thịnh, Chủ tịch Liên đoàn Luật sư Việt Nam; Luật sư Nguyễn Văn Hậu, Ủy viên Ban Thường vụ, Chủ nhiệm Cơ quan truyền thông, Liên đoàn Luật sư Việt Nam; Luật sư Đào Ngọc Lý, Phó Chủ nhiệm Đoàn Luật sư TP. Hà Nội; Luật sư Lê Đăng Tùng, Phó Chủ nhiệm Đoàn Luật sư TP. Hà Nội; Luật sư Nguyễn Văn Hà, Phó Chủ nhiệm Đoàn Luật sư TP. Hà Nội;… cùng các luật sư, phóng viên đại diện các cơ quan báo chí tham gia, đưa tin chương trình.
Các đại biểu chủ trì Tọa đàm.
Tọa đàm do Luật sư, Tiến sĩ Đỗ Ngọc Thịnh, Chủ tịch Liên đoàn Luật sư Việt Nam; Luật sư Nguyễn Văn Hậu, Chủ nhiệm Cơ quan truyền thông, Liên đoàn Luật sư Việt Nam; Thạc sĩ Đặng Ngọc Luyến, Tổng biên tập Tạp chí Luật sư Việt Nam đồng chủ trì điều hành.
Thạc sĩ Đặng Ngọc Luyến, Tổng Biên tập Tạp chí Luật sư Việt Nam phát biểu khai mạc Tọa đàm.
Phát biểu khai mạc chương trình Tọa đàm, Thạc sĩ Đặng Ngọc Luyến, Tổng Biên tập Tạp chí Luật sư Việt Nam cho biết, trong những năm gần đây, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể trong việc cải thiện thể chế, chính sách liên quan đến nghề luật sư. Vai trò của luật sư trong đời sống xã hội không ngừng được mở rộng, khẳng định được vị thế trong công tác cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp cho các tổ chức, cá nhân.
Đến 5/2025, cả nước có hơn 20.000 luật sư đang hành nghề và hơn 6.000 tổ chức hành nghề luật sư đang hoạt động. Đối với chế định luật sư công, hiện nay pháp luật Việt Nam chưa có một định nghĩa cụ thể, đầy đủ đối với loại hình này; các loại hình tổ chức, hình thức, quy cách hoạt động,… mới chỉ dừng lại ở mức đề xuất, tham vấn. Tuy nhiên, dù chưa có cơ sở pháp luật rõ ràng, nhưng trên thực tế đã có luật sư đã và đang thực hiện nhiệm vụ bảo vệ quyền lợi thông qua việc ký kết hợp đồng vụ việc với cơ quan nhà nước để giải quyết tranh chấp quốc tế, các vụ kiện đầu tư nước ngoài, hoặc thực hiện các hoạt động trợ giúp pháp lý theo đúng quy định của pháp luật hiện hành.
Toàn cảnh Toạ đàm.
Theo Bộ Tư pháp, việc cung cấp dịch vụ pháp lý có tính chuyên nghiệp mới chỉ được thực hiện chủ yếu ở khu vực tư nhân mà chưa có trong khu vực công, trong khi thực tiễn đặt ra một số yêu cầu, đó là: Chính phủ, cơ quan nhà nước, doanh nghiệp nhà nước đang phải đối mặt với nhiều rủi ro pháp lý liên quan đến hoạt động đầu tư thương mại có yếu tố nước ngoài, cũng như trong mối quan hệ hành chính, đất đai. Do đó, nhu cầu dịch vụ pháp lý có tính chuyên nghiệp cao trong khu vực công là rất lớn. Một số loại việc có tính pháp lý ở khu vực công như tư vấn pháp luật cho các dự án kinh tế - xã hội ở địa phương, giải quyết tranh chấp quốc tế, giải quyết khiếu nại, tố cáo phức tạp... đòi hỏi người thực hiện phải có chuyên môn nghiệp vụ cao, am hiểu luật pháp quốc tế, có trình độ ngoại ngữ và có kinh nghiệm. Trong khi đó, đội ngũ cán bộ công chức trong bộ, ngành không đủ để đáp ứng yêu cầu, còn thiếu đội ngũ luật sư chuyên nghiệp đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích của Nhà nước. Các tranh chấp quốc tế chủ yếu được giải quyết thông qua việc thuê luật sư nước ngoài vì theo thông lệ của hầu hết các nước thì không cho phép luật sư nước ngoài được tham gia tố tụng tại Tòa án của các nước. Tuy nhiên, khi tham gia tố tụng quốc tế bên cạnh luật sư nước ngoài vẫn cần có luật sư Việt Nam để trao đổi các vấn đề pháp lý trong vụ kiện có liên quan đến pháp luật Việt Nam.
Do đó, yêu cầu đặt ra là cần có đội ngũ chuyên nghiệp để thực hiện. Thực tiễn thời gian qua, một số luật sư tư thực hiện hỗ trợ pháp lý cho khu vực công tốt nhất là trong giải quyết khiếu nại, tố cáo, các hoạt động có tính công ích như trợ giúp pháp lý, án chỉ định nhưng chưa có cơ chế thu hút, tận dụng được nguồn lực đông đảo của các luật sư tham gia cung cấp dịch vụ pháp lý chuyên nghiệp trong khu vực công.
Theo khoản 4, Điều 17 Luật Luật sư 2006 (sửa đổi 2012) quy định một số trường hợp không được hành nghề luật sư, trong đó có đối tượng là công chức, viên chức. Tại Nghị quyết số 66-NQ/TW, ngày 30/4/2025 về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới của Ban Chấp hành Trung ương nêu rõ: “Nghiên cứu hình thành chế định luật sư công và cơ chế có điều kiện cho phép viên chức được hành nghề luật sư; bảo đảm việc công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài phù hợp với các chuẩn mực và thông lệ quốc tế”.
Nghị quyết số 623/NQ-UBTVQH15, ngày 07/10/2022 về tiếp tục tăng cường hiệu lực, hiệu quả thực hiện chính sách, pháp luật vê tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã giao Chính phủ: “Chỉ đạo Bộ Tư pháp nghiên cứu về chế định “Luật sư công” giữ vai trò đại diện, giúp chính quyền địa phương tham gia các hoạt động tố tụng tại cơ quan tố tụng khi có yêu cầu và báo cáo cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định”.
"Như vậy, yêu cầu về xây dựng chế định luật sư công là cấp thiết cả về mặt thực tiễn và xây dựng cơ chế, chính sách pháp luật của Nhà nước. Hướng tới Kỷ niệm 80 năm Ngày Truyền thống Luật sư Việt Nam (10/10/1945-10/10/2025) là dịp nhìn lại chặng đường phát triển của giới luật sư với vai trò là người bảo vệ công lý, góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong suốt gần thế kỷ qua; đồng thời khẳng định vai trò, sứ mệnh của người luật sư trong giai đoạn phát triển mới của đất nước, với mục tiêu tạo diễn đàn pháp lý để các luật sư cùng thảo luận, bàn bạc, đưa ra các quan điểm đề xuất về xây dựng chế định luật sư công tại Việt Nam, vừa phù hợp với các quy định pháp luật; tạo vị thế pháp lý, cơ chế hợp tác vững chắc cho chế định luật sư công hoạt động…, hôm nay, Tạp chí Luật sư Việt Nam tổ chức Tọa đàm khoa học với Chủ đề: “Xây dựng chế định luật sư công theo tinh thần Nghị quyết số 66-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương”, Tổng Biên tập Đặng Ngọc Luyến nhấn mạnh.
Cơ sở pháp lý, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của luật sư công
Theo Luật sư Nguyễn Văn Hậu, Uỷ viên Ban Thường vụ, Chủ nhiệm Cơ quan Truyền thông, Liên đoàn Luật sư Việt Nam, cơ sở pháp lý cho việc hình thành chế định luật sư công có thể kể đến Kết luận số 69-KL/TW ngày 24/02/2020 của Ban Bí thư về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 33-CT/TW của Ban Bí thư về “tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức và hoạt động của luật sư”; Nghị quyết số 623/NQ-UBTVQH15 ngày 07/10/2022 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội cũng giao Chính phủ “chỉ đạo Bộ Tư pháp nghiên cứu về chế định ‘luật sư công’ giữ vai trò đại diện, giúp chính quyền địa phương tham gia các hoạt động tố tụng tại cơ quan tố tụng khi có yêu cầu”; Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN đã đề ra nhiệm vụ “hoàn thiện thể chế về luật sư và hành nghề luật sư, bảo đảm để luật sư thực hiện tốt quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm theo quy định của pháp luật”; Nghị quyết 59-NQ/TW ngày 24/01/2025 của Bộ Chính trị về “hội nhập quốc tế trong tình hình mới”; Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 của Bộ Chính trị về “Đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” và mới đây nhất là Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về “phát triển kinh tế tư nhân”...
Luật sư Nguyễn Văn Hậu, Ủy viên Ban Thường vụ, Chủ nhiệm Cơ quan truyền thông Liên đoàn Luật sư Việt Nam.
Mặc dù định hướng đã rõ, nhưng nhìn vào hệ thống pháp luật hiện hành có thể thấy chế định “luật sư công” chưa được quy định trong bất kỳ văn bản quy phạm pháp luật nào. Luật Luật sư (2006, sửa đổi 2012) hiện nay chưa phân loại “luật sư tư” hay “luật sư công” mà chỉ quy định chung về luật sư và hành nghề luật sư. Tương tự, Luật Trợ giúp pháp lý (2017) điều chỉnh hoạt động trợ giúp pháp lý miễn phí cho người được thụ hưởng, song lại sử dụng khái niệm “trợ giúp viên pháp lý” (viên chức thuộc Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước) thay vì “luật sư công”.
Chính vì vậy, xây dựng cơ sở pháp lý vững chắc cho chế định luật sư công là yêu cầu cấp bách để mô hình này có thể ra đời và hoạt động hiệu quả, minh bạch, đúng pháp luật. Theo quan điểm của tôi, trước mắt cần nghiên cứu, đề xuất sửa đổi, bổ sung Luật Luật sư, Luật Trợ giúp pháp lý và các văn bản liên quan nhằm “luật hóa” địa vị của luật sư công.
“Để chế định luật sư công có thể hình thành và hoạt động hiệu quả, bên cạnh khung pháp lý, một yếu tố mang tính quyết định chính là cơ chế chính sách và các điều kiện bảo đảm. Nói cách khác, chúng ta cần tạo ra môi trường thuận lợi về tổ chức, nhân sự, tài chính và cơ sở vật chất để các luật sư công yên tâm cống hiến, phát huy tối đa vai trò của mình”, Luật sư Hậu nêu quan điểm.
Bên cạnh đó, khi bàn về luật sư công, một vấn đề trọng tâm là xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của họ sẽ bao gồm những gì. Theo tinh thần các nghị quyết và định hướng của Bộ Tư pháp, luật sư công tập trung hoạt động trên ba lĩnh vực cơ bản: Tư vấn pháp lý; Tham gia tố tụng và Thực hiện các dịch vụ pháp lý khác phục vụ lợi ích công.
- Về tư vấn pháp lý: Luật sư công có nhiệm vụ cung cấp ý kiến tư vấn pháp luật cho các đối tượng khác nhau theo yêu cầu của Nhà nước. Trước hết, đối với người dân, luật sư công sẽ tư vấn pháp luật miễn phí cho những nhóm yếu thế, người nghèo, người không có điều kiện thuê luật sư tư, giúp họ hiểu rõ quyền lợi, nghĩa vụ và hướng giải quyết vấn đề pháp lý đang gặp phải. Đây là sự tiếp nối và nâng cao hơn nữa vai trò của trợ giúp viên pháp lý hiện nay. Song song, luật sư công còn có thể tư vấn pháp luật cho các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị – xã hội; và các tổ chức Hội được Đảng và Nhà nước giao nhiệm vụ.
- Về tham gia tố tụng: Đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của luật sư công. Khác với luật sư tư (hành nghề vì thù lao của thân chủ), luật sư công tham gia tố tụng theo sự phân công của Nhà nước nhằm bảo đảm lợi ích công và công bằng trong xét xử. Trước hết, họ sẽ đại diện cho cơ quan nhà nước, chính quyền địa phương hoặc các tổ chức thuộc hệ thống chính trị khi được yêu cầu, để tham gia tố tụng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các cơ quan này tại tòa án hoặc trọng tài. Theo chỉ đạo tại Nghị quyết 623/UBTVQH15, khi chính quyền địa phương (Uỷ ban Nhân dân, cơ quan nhà nước ở địa phương) có vụ việc tranh chấp tại tòa án, luật sư công có thể được chỉ định làm đại diện cho chính quyền để tham gia tố tụng, thay vì phải thuê luật sư tư bên ngoài. Điều này giúp chính quyền có đội ngũ bảo vệ quyền lợi chuyên nghiệp, am hiểu về bộ máy nhà nước, pháp luật, đồng thời giảm thiểu tình trạng lúng túng khi ra tòa (vì trước đây nhiều cơ quan phải cử cán bộ không có thẻ luật sư ra bảo vệ, hiệu quả không cao).
- Thực hiện các dịch vụ pháp lý khác: Ngoài tư vấn và tố tụng, luật sư công còn có thể được giao thực hiện nhiều nhiệm vụ pháp lý mang tính chất công vụ khác. Chẳng hạn, luật sư công có thể tham gia soạn thảo, rà soát hợp đồng, văn bản pháp luật, đại diện ngoài tố tụng cho cơ quan nhà nước (trong các đàm phán, ký kết hợp đồng quan trọng).
Kiến nghị một số nội dung khi xây dựng mô hình, cơ chế chính sách, điều kiện hoạt động của luật sư công
Bày tỏ sự đồng tình với các đại biểu tại Tọa đàm về yêu cầu cấp thiết của việc hình thành chế định luật sư công, Luật sư, Thạc sĩ Lê Đăng Tùng, Phó Chủ nhiệm Đoàn Luật sư TP. Hà Nội, Trưởng Văn phòng Luật sư Trường Giang cho biết, Luật Luật sư 2006, sửa đổi bổ sung năm 2012 chưa cho phép công chức, viên chức tham gia hoạt động luật sư. Đây là những yêu cầu cấp thiết sớm nghiên cứu để tháo gỡ những hạn chế cho sự phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng chỉ đạo tiếp tục phát triển mạnh thị trường dịch vụ pháp lý, tạo điều kiện thuận lợi để người dân, doanh nghiệp tăng cường quản trị rủi ro trong hoạt động đầu tư, kinh doanh và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp.
Thời gian qua có nhiều văn bản của Đảng và pháp luật Nhà nước nhằm chỉ đạo và thực hiện hoạt động luật sư. Nghị quyết 66/NQ- TW ngày 30/4/2025 của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới, chỉ đạo nghiên cứu hình thành chế định luật sư công và cơ chế có điều kiện cho phép viên chức được hành nghề luật sư; thu hút, tiếp nhận chuyên gia, nhà khoa học pháp lý, luật gia, luật sư giỏi vào khu vực công.
Luật sư Lê Đăng Tùng, Phó Chủ nhiệm Đoàn Luật sư TP. Hà Nội.
Trên thực tiễn, trong khu vực công đã có nhiều chuyên gia, nhà khoa học pháp lý thực hiện những công việc giống như luật sư thời gian qua cùng với Chính phủ, cơ quan Nhà nước tháo gỡ những vấn đề vướng mắc. Thế giới cũng có nhiều nước thực thi chế định luật sư công có hiệu quả.
“Do vậy, trong điều kiện hiện nay, kỷ nguyên vươn mình của đất nước; việc nghiên cứu hình thành chế định luật sư công trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là cần thiết”, Luật sư Tùng chia sẻ quan điểm.
Đáng chú ý, tại Tọa đàm, Luật sư Tùng đưa ra kiến nghị một số nội dung khi xây dựng mô hình, cơ chế chính sách, điều kiện hoạt động của luật sư công cụ thể như sau:
Về cơ chế hình thành, theo Luật sư Tùng, trước yêu cầu của Đảng, Nhà nước và thực tiễn xây dựng đất nước trong tình hình mới đòi hỏi sớm hình thành chế định luật sư công. Luật sư công là người thực hiện nhiệm vụ trong lĩnh vực công, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho cá nhân, cơ quan, tổ chức trong lĩnh vực công do vậy ngoài việc đáp ứng yêu cầu điều kiện là công chức, viên chức trong khu vực công; luật sư công phải đáp ứng đủ điều kiện để trở thành một luật sư từ đào tạo đến sát hạch...
Luật sư công vẫn có thể song song tồn tại cùng với trợ giúp viên pháp lý và cán bộ pháp chế. Khi những chủ thể này đủ điều kiện luật sư thì trở thành luật sư công.
Về phạm vi hoạt động, cùng với lĩnh vực tư đã có rất nhiều luật sư am hiểu pháp luật, chuyên sâu rất cần song song tồn tại và phát triển luật sư công hoạt động trong khu vực công; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho cá nhân, tổ chức, cơ quan trong lĩnh vực công; không được cung cấp dịch vụ pháp lý cho bên ngoài nhằm đảm bảo về thời gian và các yếu tố khác. Hai chế định luật sư công và tư sẽ bổ trợ cho nhau cùng phát triển song có tính độc lập tương đối trong hoạt động hành nghề.
Trong Luật Luật sư có quy định việc luật sư hành nghề với tư cách cá nhân có nhiều điểm tương đồng có thể áp dụng cho việc xây dựng mô hình hoạt động của luật sư công.
Về mô hình hoạt động và quản lý, hoạt động của luật sư công thuộc lĩnh vực công đồng thời chịu sự quản lý của cơ quan, đơn vị công là công chức, viên chức; bên cạnh đó phải thực hiện quyền và nghĩa vụ của luật sư theo quy định pháp luật về luật sư liên quan.
Luật sư công được quy định quản lý riêng nhưng trong cùng một đầu mối cơ quan, tổ chức và pháp luật điều chỉnh; không tổ chức thành hai hệ thống cơ quan quản lý và luật riêng điều chỉnh nhằm đáp ứng yêu cầu tinh giản trong hệ thống chính trị hiện nay cũng như thống nhất về mặt quản lý Nhà nước và tính độc lập chịu trách nhiệm của luật sư.
Về chế độ chính sách, luật sư công bên cạnh việc thực hiện nhiệm vụ là công chức, viên chức đồng thời thực hiện nhiệm vụ của luật sư nên cần có chính sách hợp lý ngoài chế độ của khu vực công căn cứ đề xuất thực tế tại mỗi đơn vị công khi có yêu cầu sử dụng để xây dựng cho phù hợp từng đơn vị trong lĩnh vực công. Có thể có chính sách đãi ngộ riêng về vật chất đồng thời có khuyến khích khen thưởng kịp thời khi thực hiện vụ việc công.
Một số nội dung khác, công tác khen thưởng, kỷ luật; ngoài việc luật sư công được thực hiện theo quy định trong lĩnh vực công thì cũng được thực hiện như một luật sư và tuân theo quy định chung về luật sư để đảm bảo việc quản lý đúng người, đúng việc, đúng đối tượng.
Theo Luật sư Lê Đăng Tùng, Nhà nước CHXHCN Việt Nam là Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân nên việc hình thành chế định luật sư công hiện nay là cần thiết cho sự phát triển vươn mình của đất nước. Chế định luật sư công là lĩnh vực mới và rất khó do vậy cần có bước đi thận trọng, phù hợp và vì con người đảm bảo tính độc lập, trung thực, tôn trọng sự thật khách quan của hoạt động hành nghề luật sư. Đồng thời, cần chú trọng thường xuyên sơ kết, tổng kết thực tiễn, tiếp thu kinh nghiệm hay của nước ngoài nhằm hoàn thiện lý luận về luật sư công và tiếp tục soi đường cho thực tiễn phát triển trong thời đại vươn mình của đất nước.
Thực tiễn luật sư tham gia vào lĩnh vực công của Nhà nước
Luật sư Nguyễn Văn Hà, Phó Chủ nhiệm Đoàn Luật sư TP. Hà Nội, Phó Chủ tịch Hội Luật gia TP. Hà Nội cho biết, theo Báo cáo công tác tư pháp của Bộ Tư pháp năm 2022, cả nước có 63 Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước và hiện nay, sau khi sắp xếp, tinh gọn bộ máy, cả nước có 34 Trung tâm Trợ giúp pháp lý (TGPL) Nhà nước, hợp tác với khoảng 1.500 luật sư cộng tác viên tham gia thực hiện trợ giúp pháp lý. Hoạt động này chủ yếu tập trung vào bào chữa cho bị can, bị cáo thuộc diện được trợ giúp pháp lý (người nghèo, người có công, trẻ em, người yếu thế). Từ năm 2009 đến 2018, số vụ việc mà luật sư cộng tác viên đã thực hiện cho các đối tượng trợ giúp pháp lý là 124.894 vụ việc.
Tuy nhiên, số lượng vụ việc trợ giúp pháp lý do luật sư thực hiện vẫn chưa tương xứng với số lượng luật sư tham gia trợ giúp pháp lý và nhu cầu của đối tượng được trợ giúp pháp lý. Một số luật sư, tổ chức hành nghề luật sư tham gia TGPL còn chưa nhiệt tình, dành nhiều thời gian thực hiện TGPL. Đôi lúc, đôi khi việc đăng ký tham gia TGPL của các tổ chức hành nghề luật sư còn mang tính hình thức, chưa có nhiều vụ việc TGPL. Một số ít vụ việc TGPL còn cử luật sư chưa có nhiều kinh nghiệm tham gia dẫn tới vụ việc đạt chất lượng chưa cao. Một số ít địa phương còn chưa ký hợp đồng thực hiện trợ giúp pháp lý với luật sư nên đã phần nào cản trở sự tham gia của các luật sư. Một phần nguyên nhân nữa cũng là do chế độ thù lao thấp, dẫn đến sự tham gia của luật sư mang tính hình thức hoặc bị giới hạn về thời gian, công sức.
Luật sư Nguyễn Văn Hà, Phó Chủ nhiệm Đoàn Luật sư TP. Hà Nội.
Bên cạnh đó, luật sư ở Việt Nam hiện tham gia phổ biến pháp luật thông qua các chương trình phối hợp giữa Đoàn Luật sư và cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị – xã hội. Liên đoàn Luật sư Việt Nam đã thực hiện các mô hình phổ biến giáo dục pháp luật có hiệu quả như: Mô hình trợ giúp pháp lý; mô hình phối hợp tuyên truyền, phổ biến, giáo dục trên các phương tiện thông tin đại chúng; mô hình tuyên truyền, phổ biến nâng cao trình độ pháp luật cho đội ngũ luật sư trong toàn quốc; mô hình tư vấn pháp luật và cung cấp dịch vụ pháp lý; mô hình Câu lạc bộ Luật sư Thương mại quốc tế.
“Có thể thấy, khung pháp lý hiện hành đã ghi nhận vai trò của luật sư trong lĩnh vực công, nhưng cơ chế tổ chức và vận hành chưa thật sự hiệu quả. Những tồn tại này đặt ra yêu cầu cấp thiết phải cải cách toàn diện cả về pháp lý, tổ chức và tài chính để bảo đảm sự tham gia của luật sư vào lĩnh vực công thực sự mang tính hiệu quả, bền vững và có đóng góp rõ rệt cho xã hội”, Luật sư Nguyễn Văn Hà nói.
Từ yêu cầu thực tiễn và định hướng cải cách tư pháp, cần thiết phải xem xét, bổ sung và hoàn thiện các quy định pháp luật, đồng thời triển khai đồng bộ các giải pháp về tổ chức, nguồn lực và đào tạo. Luật sư Nguyễn Văn Hà đưa ra một số đề xuất hoàn thiện về nghề luật sư ở Việt Nam như sau:
- Bổ sung định nghĩa và nguyên tắc về thực hiện nhiệm vụ công của luật sư, luật sư tham gia vào lĩnh vực công của Nhà nước hoặc luật sư công vào Luật Luật sư, với vị trí, vai trò và nhiệm vụ bao trùm;
- Quy định rõ cơ chế phối hợp giữa Bộ Tư pháp, Liên đoàn Luật sư Việt Nam và các cơ quan tiến hành tố tụng;
- Xây dựng chế độ đãi ngộ hợp lý, bảo đảm nguồn lực tài chính ổn định từ ngân sách;
- Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn cho luật sư tham gia lĩnh vực công;
- Khuyến khích xã hội hóa dịch vụ pháp lý công thông qua hợp tác công – tư.
Trao đổi tại Tọa đàm, Luật sư Luật sư Đào Ngọc Lý, Phó Chủ nhiệm Đoàn Luật sư TP. Hà Nội bày tỏ sự đồng tình với Nghị quyết số 66-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương, tuy nhiên, Luật sư Lý cho rằng khi xây dựng chế định luật sư công cần xem xét kỹ khái niệm “luật sư công”. Luật sư kiến nghị tên gọi “luật sư dịch vụ công” để có thể bao quát đầy đủ, chính xác và sát với thực tế hơn. Luật sư dẫn chứng, hiện nay, có những luật sư làm án chỉ định, bảo vệ cơ quan nhà nước trong các vụ án hành chính, nhưng không được gọi là “luật sư công”. Điều này sẽ làm giảm nhiệt huyết của họ khi tham gia vào các tranh chấp mang tính chất công.
Luật sư Đào Ngọc Lý, Phó Chủ nhiệm Đoàn Luật sư TP. Hà Nội.
Bên cạnh đó, Luật sư Lý cũng kiến nghị cần quy định ba đối tượng trở thành luật sư công gồm: toàn bộ giới luật sư; cán bộ, công chức có nhu cầu, đáp ứng đủ điều kiện tham gia luật sư công; cán bộ, công chức thuộc Trung tâm Trợ giúp pháp lý.
Kinh nghiệm quốc tế về mô hình luật sư công
Tại Tọa đàm, Luật sư Trịnh Văn Toàn, Trưởng Văn phòng Luật sư ATK cũng đã tập trung trình bày nghiên cứu thiết chế luật sư công của một số quốc gia trên thế giới, từ đó góp phần đặt ra những định hướng và gợi mở cho quá trình xây dựng đội ngũ luật sư công ngày càng chuyên nghiệp, tận tâm và phụng sự vì lợi ích chung.
Theo Luật sư Toàn, trên thế giới, chế định luật sư công của Chính phủ (Government lawyer) là khái niệm quen thuộc và tồn tại ở nhiều quốc gia đang phát triển khác. Nhiệm vụ của các luật sư này là thực hiện tư vấn hoặc/và trợ giúp pháp lý cho các cơ quan, tổ chức nhà nước khi giải quyết các vấn đề hoặc tranh chấp pháp lý. Để đáp ứng nhu cầu pháp lý của các cơ quan nhà nước, nhiều nước trên có cơ chế duy trì một đội ngũ luật sư làm việc trong chính các cơ quan nhà nước đó hoặc trong Bộ Tư pháp. Các luật sư này sẽ được huy động vào từng trường hợp tư vấn, đại diện hay bảo vệ lợi ích cụ thể.
Luật sư Trịnh Văn Toàn, Trưởng Văn phòng Luật sư ATK.
Ở Mỹ, “public defender” bào chữa miễn phí cho bị cáo không đủ khả năng thuê luật sư trong tố tụng hình sự. Luật sư công chỉ có trong lĩnh vực hình sự. Ở Mỹ, quyền có luật sư bảo vệ trên tòa hình sự là quyền Hiến định. Bất cứ người nào không có khả năng thuê luật sư thì nhà nước có trách nhiệm cử luật sư bảo vệ. Do đó, Nhà nước thành lập hệ thống các Văn phòng Luật sư công (Public Defender Office) cấp liên bang và tiểu bang để cung cấp dịch vụ bào chữa công cho người nghèo, người không đủ khả năng thuê luật sư trong các phiên tòa hình sự. Hệ thống luật sư công ở liên bang chịu trách nhiệm đối với vụ việc hình sự cấp liên bang. Luật sư công ở Mỹ là công chức Chính phủ, tuy nhiên chỉ có nhiệm kỳ 04 năm, do Thẩm phán Tòa án bổ nhiệm, cũng có bang quy định do Thống đốc bang bổ nhiệm hoặc Nghị viện bang bầu ra. Các luật sư công được tuyển dụng với mức lương tương ứng với các luật sư tư. Ngoài lương còn có sự hỗ trợ quỹ phúc lợi để giữ chân các luật sư có trình độ cao, đặc biệt là ở các vùng nông thôn.
Chế định luật sư công ở Nhật Bản, hay còn gọi là luật sư Nhà nước được hiểu là những người làm việc như các luật sư cho các cơ quan công quyền để bảo vệ lợi ích công. Ở Nhật Bản, chế định này ra đời từ năm 1947 và tồn tại cho đến ngày nay, góp phần quản lý hiệu quả và nhất quán đối với các tranh chấp liên quan đến Chính phủ ở Nhật Bản. Chế định luật sư công ở Nhật Bản là một mô hình tổ chức chuyên nghiệp, hiệu quả trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà nước. Luật sư công chủ yếu là công chức, đặc biệt là các công tố viên thuộc Bộ Tư pháp, đảm nhiệm vai trò đại diện chính phủ trong các vụ kiện dân sự, hành chính, hình sự và cung cấp tư vấn pháp lý cho các cơ quan nhà nước.
Một đặc điểm đáng chú ý của mô hình luật sư Nhà nước ở Nhật Bản là tính luân chuyển rất cao giữa các vị trí và chức danh. Các công tố viên thuộc Bộ Tư pháp làm việc theo chế độ nhiệm kỳ 3 năm và biệt phái từ các Viện Công tố. Hệ thống này được tổ chức tập trung, có sự phân công nhiệm vụ rõ ràng giữa các cơ quan và thường xuyên thực hiện cơ chế luân chuyển công tác nhằm nâng cao năng lực và tính linh hoạt cho đội ngũ. Đây là một mô hình tiêu biểu mà Việt Nam có thể tham khảo trong lộ trình hoàn thiện thiết chế luật sư công trong hệ thống pháp luật hiện đại.
Là nước láng giềng với Việt Nam, Trung Quốc đã thực hiện nhiều chính sách xây dựng và phát triển đội ngũ luật sư tư vấn cho Chính phủ về thương mại và đầu tư quốc tế từ khi mở cửa nền kinh tế, nhất là thực thi khá tốt chính sách hợp tác công - tư. Qua đó, giúp giải quyết tốt những vấn đề về thương mại và đầu tư quốc tế phát sinh. Từ khi mở cửa nền kinh tế, đặc biệt là sau khi trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vào năm 2001, Trung Quốc đã có nhiều nỗ lực để phát triển đội ngũ luật sư tư vấn cho Chính phủ về thương mại và đầu tư quốc tế. Đội ngũ luật sư tư vấn cho Chính phủ Trung Quốc về thương mại và đầu tư quốc tế được xây dựng theo mô hình kết hợp giữa các chuyên gia pháp lý thuộc Bộ Thương mại Trung Quốc (MOFCOM) và một số công ty luật trong nước.
Dù tên gọi và phạm vi nhiệm vụ có thể khác nhau, nhưng theo cách hiểu phổ biến trên thế giới, luật sư công là những người hành nghề luật được Nhà nước trực tiếp tuyển dụng, trả lương và giao nhiệm vụ bảo vệ lợi ích công. Họ không hoạt động vì lợi nhuận, thực hiện các công việc pháp lý phục vụ Nhà nước, cộng đồng.
Trên cơ sở thực tiễn hoạt động tư pháp của Việt Nam và kinh nghiệm từ một số quốc gia trên thế giới, Luật sư Trịnh Văn Toàn đề xuất mô hình luật sư công ở Việt Nam trong thời gian tới như sau:
Thứ nhất, đặt ra những yêu cầu cần có đối với luật sư công tại Việt Nam. Cụ thể, về chuyên môn, kỹ năng và đạo đức nghề nghiệp như: Yêu cầu về trình độ chuyên môn là điều kiện tiên quyết; kỹ năng pháp lý là yếu tố then chốt quyết định hiệu quả công việc; yêu cầu về phẩm chất đạo đức nghề nghiệp là nền tảng không thể bỏ qua. Đây là những yếu tố làm nên sự khác biệt giữa một luật sư thông thường và người được xem như luật sư công phục vụ lợi ích Nhà nước.
Thứ hai, xác lập địa vị pháp lý rõ ràng cho luật sư công. Cần xác định rõ khái niệm luật sư công như là người đại diện pháp lý cho Nhà nước hoặc là người bảo vệ quyền lợi hợp pháp của nhóm yếu thế. Họ có thể là công chức pháp chế, luật sư tuyển chọn vào biên chế, hoặc luật sư tư nhân ký hợp đồng chuyên trách. Việc đưa định nghĩa này vào các đạo luật như Luật Luật sư, Luật Tổ chức cơ quan hành chính hay Luật Trợ giúp pháp lý sẽ tạo cơ sở pháp lý để điều chỉnh chặt chẽ quyền hạn, trách nhiệm, chế độ đãi ngộ và cơ chế giám sát.
Thứ ba, xây dựng mô hình tổ chức luật sư công chuyên nghiệp. Việt Nam cần thành lập các mô hình tổ chức chuyên nghiệp như “Văn phòng luật sư Nhà nước” trực thuộc Bộ hoặc Sở Tư pháp, hoạt động theo nguyên tắc công vụ với đội ngũ luật sư được tuyển chọn chuyên trách. Đồng thời có thể nâng cấp phòng pháp chế và trung tâm trợ giúp pháp lý thành các đơn vị “luật sư công liên cơ quan”. Mô hình này không chỉ chuyên nghiệp hóa hoạt động pháp lý, mà còn tiết kiệm chi phí và nâng cao hiệu quả pháp luật.
Thứ tư, cơ chế tuyển chọn, đào tạo và đánh giá minh bạch. Cần thiết lập quy trình tuyển chọn minh bạch qua thi tuyển công khai, đánh giá phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên môn. Sau khi trúng tuyển, luật sư công cần được đào tạo chuyên sâu định kỳ và có hệ thống đánh giá hiệu quả dựa trên số lượng, chất lượng công việc, sự hài lòng của thân chủ và đánh giá từ cơ quan tố tụng. Hệ thống đánh giá minh bạch sẽ là cơ sở khách quan cho khen thưởng, bổ nhiệm, miễn nhiệm.
Thứ năm, phân tách chức năng đại diện Nhà nước và bảo vệ người yếu thế. Cần tách biệt rõ hai nhóm chức năng của luật sư công: Đại diện pháp lý cho Nhà nước và trợ giúp pháp lý cho người yếu thế, nhằm tránh xung đột lợi ích và đảm bảo tính chuyên môn. Nên xây dựng hai nhánh riêng biệt với ngân sách và quy trình vận hành riêng, nhưng chịu sự giám sát chung của Bộ Tư pháp và các cơ quan độc lập.
Thứ sáu, đảm bảo cơ chế tài chính và độc lập nghiệp vụ. Một cơ chế tài chính ổn định và độc lập là điều kiện cần thiết để hệ thống luật sư công hoạt động hiệu quả. Ngân sách riêng giúp luật sư công không phụ thuộc vào phí dịch vụ hay chịu sức ép từ cơ quan sử dụng dịch vụ. Cần có cơ chế giám sát khách quan với sự tham gia của chuyên gia pháp lý, thanh tra tư pháp và xã hội dân sự để bảo đảm tính liêm chính và chuyên nghiệp.
Thứ bảy, mở rộng vai trò luật sư công trong các lĩnh vực chuyên biệt. Luật sư công cần được khuyến khích tham gia vào các lĩnh vực nhạy cảm và phức tạp như kiện hành chính, đầu tư công, trách nhiệm dân sự của Nhà nước, bồi thường oan sai, bảo vệ môi trường, quản lý tài sản công, hợp đồng BOT… Đây là những lĩnh vực đang phát triển mạnh, đòi hỏi trình độ chuyên sâu và bản lĩnh nghề nghiệp cao. Sự hiện diện của luật sư công trong các lĩnh vực này sẽ góp phần tăng cường tính minh bạch, trách nhiệm giải trình và công bằng xã hội.
Cho ý kiến tại Tọa đàm, Luật sư, Tiến sĩ Đỗ Ngọc Thịnh, Chủ tịch Liên đoàn Luật sư Việt Nam khẳng định sự cấp thiết ban hành chế định luật sư công để thể chế hóa quy định của pháp luật.
Chủ tịch Liên đoàn Luật sư Việt Nam - Tiến sĩ, Luật sư Đỗ Ngọc Thịnh.
Tọa đàm "Xây dựng chế định luật sư công theo tinh thần Nghị quyết số 66-NQ/TW" là diễn đàn pháp lý quan trọng để các luật sư cùng thảo luận, bàn bạc, đưa ra các quan điểm đề xuất về xây dựng chế định luật sư công tại Việt Nam. Ý kiến của các đại biểu tại Tọa đàm rất xác đáng, cần thiết, phản ánh chân thực nhu cầu của đời sống xã hội. Đây sẽ là nguồn tham khảo quan trọng cho cơ quan quản lý nhà nước.
Chủ tịch Liên đoàn Luật sư Việt Nam cho rằng, Ban Tổ chức cần tổng hợp ý kiến trình bày tại Tọa đàm trình các cơ quan quản lý nhằm hoàn thiện quy định về chế định luật sư công tại Việt Nam.
Kiến nghị một số phương án lập pháp khi xây dựng cơ sở pháp lý cho chế định luật sư công
Trình bày tham luận tại Tọa đàm, Thạc sĩ, Luật sư Hoàng Văn Hướng, Trưởng Văn phòng Luật sư Hoàng Hưng đưa ra một số quan điểm pháp luật hiện hành, nhận diện khoảng trống, bất cập trong các quy định pháp luật hiện nay và tham vấn một số mô hình quốc tế... để xây dựng cơ sở pháp lý cho chế định luật sư công tại Việt Nam.
Luật sư Hướng cho rằng, việc xây dựng chế định "luật sư công" không chỉ đáp ứng yêu cầu nội luật hóa các cam kết quốc tế về quyền con người mà còn là giải pháp nâng cao hiệu quả tố tụng, bảo đảm công lý và phòng ngừa oan sai. Quá trình này cần thực hiện theo lộ trình, thí điểm, đánh giá tác động và pháp điển hóa. Song song, phải bảo đảm các nguyên tắc độc lập, minh bạch, tiêu chuẩn năng lực, tài chính ổn định và trách nhiệm giải trình. Nếu triển khai thành công, chế định này sẽ trở thành một trụ cột mới của nền tư pháp nhân văn, hiện đại, góp phần củng cố niềm tin của nhân dân vào công lý và pháp luật Việt Nam.
Luật sư Hoàng Văn Hướng, Trưởng Văn phòng Luật sư Hoàng Hưng.
Luật sư Hướng cũng đưa ra một số phương án lập pháp khi xây dựng cơ sở pháp lý cho “chế định luật sư công”, cụ thể:
Phương án A: Sửa Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 để “định chế hóa” đội ngũ luật sư công.
Theo đó, bổ sung chương về “luật sư công”: (i) Khái niệm; (ii) vị trí pháp lý (đơn vị sự nghiệp công lập đặc thù thuộc Bộ Tư pháp hoặc thiết chế độc lập do Quốc hội lập ra/trao thẩm quyền, có Hội đồng quản trị/giám sát); (iii) nhiệm vụ, quyền hạn; (iv) nguyên tắc độc lập trong bào chữa; (v) tiêu chuẩn, tuyển dụng, đào tạo, đánh giá; (vi) đạo đức và bảo mật; (vii) ngân sách và cơ chế đãi ngộ; (viii) phối hợp tố tụng (cửa sổ “một điểm chạm” với Cơ quan điều tra/Viện Kiểm sát/Tòa án); (ix) trách nhiệm giải trình (báo cáo Quốc hội/Hội đồng nhân dân, kiểm toán, công khai số liệu).
Đồng thời, ban hành Nghị định mới thay thế Nghị định 144/2017/NĐ-CP quy định chi tiết cơ cấu tổ chức (Văn phòng Luật sư công cấp tỉnh/khu vực), biên chế, trực 24/7 tại cơ sở giam giữ, biểu phí nội bộ, định mức tải việc (caseload), cơ chế khoán chi và đấu thầu dịch vụ bào chữa bổ sung ở nơi thiếu nhân lực.
Phương án B: Sửa đổi Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 để “chốt chặn” quyền tiếp cận sớm và chất lượng bào chữa công.
Theo đó, bổ sung điều về “bào chữa công”. Cụ thể, định nghĩa người bào chữa công là một chủ thể bào chữa; ghi nhận nghĩa vụ của cơ quan tiến hành tố tụng kích hoạt ngay dịch vụ bào chữa công khi thuộc diện chỉ định hoặc khi có yêu cầu của người bị buộc tội không đủ khả năng chi trả.
Đồng thời, nâng chuẩn tiếp cận sớm, ràng buộc thời hạn có mặt của luật sư công tại cơ sở giam giữ (ví dụ, tối đa 3–6 giờ ở đô thị, 12 giờ vùng sâu), bảo đảm quyền có luật sư từ thời điểm đầu (từ khi người bị bắt có mặt tại cơ quan có thẩm quyền).
Chuẩn tối thiểu chất lượng bào chữa (tham khảo thông lệ quốc tế) như: Nghĩa vụ điều tra đối chứng, tiếp xúc người bị buộc tội ở các mốc tố tụng then chốt, chuẩn hồ sơ bào chữa, nghĩa vụ tư vấn hậu tố tụng (kháng cáo, khiếu nại).
Phương án C: Ban hành Luật về “Dịch vụ bào chữa công” (Luật Luật sư công).
Luật sư Hướng nhấn mạnh, nếu cần một thiết kế tổng thể, đồng bộ, có thể xây dựng một đạo luật riêng điều chỉnh từ nguyên tắc, tổ chức, nhân sự đến tài chính, giám sát. Luật này dẫn chiếu – phối hợp với Luật Trợ giúp pháp lý và Bộ luật Tố tụng hình sự, tạo hành lang pháp lý đặc thù cho bào chữa công, tránh “trộn kênh” giữa tư vấn trợ giúp pháp lý và bào chữa hình sự chuyên sâu.
Ngoài ra, Luật sư hướng cũng đề xuất phương án cần sửa đổi Luật Luật sư hiện hành.
Kiến nghị nhằm xây dựng cơ sở pháp lý cho chế định “luật sư công” tại Việt Nam hiện nay, Luật sư Hướng đề xuất cần giao Bộ Tư pháp chủ trì xây dựng Đề án thí điểm luật sư công (2025–2027), phối hợp Tòa án nhân dân Tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao, Bộ Công an và Liên đoàn Luật sư Việt Nam. Sau thí điểm, trình dự án luật sửa Luật Trợ giúp pháp lý và Bộ luật Tố tụng hìn, hoặc dự án Luật Luật sư công (2028–2030).
Đồng thời, cần bảo đảm nguồn lực, ngân sách ổn định nhiều năm, cơ chế đãi ngộ cạnh tranh, hạ tầng số liên thông. Thành lập Hội đồng giám sát bào chữa công độc lập ở trung ương và địa phương, công khai số liệu hằng năm.
Hoàn thiện thể chế để thu hút luật sư giỏi tham gia luật sư công
Bày tỏ sự đồng tình với các đại biểu về sự cần thiết của chế định luật sư công và yêu cầu cần làm rõ khái niệm, định nghĩa chung, thống nhất về luật sư công, Luật sư Nguyễn Văn Nguyên, Giám đốc Công ty Luật Hưng Nguyên cho biết thêm: Dưới góc độ luật học, khái niệm luật sư công (Public Defender hoặc Public Lawyer) đang được hiểu là những người hành nghề luật sư nhưng làm việc trong các tổ chức công lập do Nhà nước thành lập. Nhiệm vụ chính của luật sư công là thực hiện sứ mệnh trợ giúp pháp lý, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các đối tượng được trợ giúp pháp lý miễn phí, như người nghèo, người yếu thế, người dân tộc thiểu số, người chưa thành niên, người bị buộc tội không có điều kiện mời luật sư…
Luật sư Nguyễn Văn Nguyên, Giám đốc Công ty Luật Hưng Nguyên.
Ở nhiều quốc gia phát triển như Hoa Kỳ, Canada, Anh, mô hình luật sư công được công nhận và trở thành thiết chế quan trọng trong hệ thống tư pháp, đặc biệt trong các vụ án hình sự. Luật sư công được hưởng lương từ ngân sách Nhà nước, hưởng các phúc lợi từ các nguồn lực ngoài xã hội, chế độ làm việc công vụ. Luật sư công tại Hoa Kỳ là luật sư được chính quyền quận, tiểu bang hoặc liên bang tuyển dụng hoặc ký hợp đồng. Tại Hoa Kỳ, luật sư công chỉ có trong lĩnh vực hình sự và quyền có luật sư bảo vệ trên tòa hình sự là quyền Hiến định. Còn tại Argentina, luật sư công được bố trí tại các văn phòng luật sư công cấp liên bang và cấp bang để thực hiện nhiệm vụ trợ giúp pháp lý. Người thực hiện trợ giúp pháp lý ở Argentina là các luật sư công và các nhân viên hỗ trợ được Nhà nước trả lương. Đa phần luật sư công ở các quốc gia có đối tượng đích là nhóm nghèo.
Ngoài ra, ở một số nước luật sư công còn đóng vai trò trong cung cấp dịch vụ công như hỗ trợ soạn thảo, thẩm định văn bản pháp luật, văn bản hành chính, tham vấn chính sách, hỗ trợ pháp lý cho các nguyên thủ quốc gia về pháp lý khi đàm phán, ký kết các hiệp định thương mại, hợp đồng kinh tế lớn quan trọng, có yếu tố pháp lý phức tạp hoặc tham gia các vụ kiện bảo vệ lợi ích công.
Luật sư Nguyên đánh giá, việc vận hành một mô hình trợ giúp pháp lý trong đó có thực hiện một số chức năng của luật sư công còn nhiều hạn chế bất cập như:
- Thiếu sức thu hút luật sư giỏi, có kinh nghiệm tham gia trợ giúp pháp lý. Chế độ đãi ngộ, lương, phụ cấp còn thấp, chậm cải thiện phần nào ảnh hưởng đến tâm huyết, trách nhiệm và chất lượng của hoạt động trợ giúp pháp lý, dễ chảy máu chất xám, khó cạnh tranh để thu hút nhân sự chất lượng cao.
- Thiếu cơ hội phát triển nghề nghiệp, các trợ giúp viên pháp lý ít có cơ hội đào tạo, bồi dưỡng, chế độ thăng tiến, bổ nhiệm và phát triển chuyên môn hoặc được tham gia các vụ án lớn, phức tạp để trau dồi kinh nghiệm khẳng định bản thân. Nhiều luật sư trẻ sau thời gian làm việc tại trung tâm trợ giúp pháp lý đã chuyển sang hành nghề tư nhân do áp lực về kinh tế để có thu nhập cao và có điều kiện phát triển tốt hơn.
Từ những bất cập, hạn chế đó, Luật sư Nguyễn Văn Nguyên đề xuất một số giải pháp thu hút luật sư giỏi tham gia luật sư công như:
Thứ nhất, hoàn thiện thể chế về luật sư công.
Cần hoàn thiện khung pháp lý, xây dựng chế định luật sư công với các tiêu chuẩn, điều kiện, chức năng, nhiệm vụ, bổ nhiệm, tuyển chọn, chế độ công tác minh bạch, rõ ràng. Việc hoàn thiện khung pháp lý về luật sư công là đặc biệt quan trọng tạo cơ sở cho hoạt động luật sư công đi vào thực chất. Chúng ta có thể quy định chế định luật sư công trong Luật Luật sư hoặc Luật Trợ giúp pháp lý. Ngoài ra có thể xây dựng các nghị định, thông tư và đề án về chiến lược pháp triển luật sư công để thu hút các nguồn lực từ xã hội. Khi thể chế được hoàn thiện thì việc thu hút nhân lực chất lượng cao, đặc biết là luật sư giỏi, có uy tín và có nhiều kinh nghiệm trong hành nghề luật sư tham gia luật sư công sẽ được phát huy. Từ đó tạo ra sự chuyển biến thực chất, đảm bảo quyền lợi chính đáng cho luật sư, phát huy động lực phục vụ công lý và xã hội. Xây dựng quy chế làm việc, phối hợp từ các cơ quan, tổ chức trong hoạt động của luật sư công.
Thứ hai, nâng cao thu nhập và điều kiện làm việc. Theo đó, cần xây dựng cơ chế lương, phụ cấp đặt thù, hoặc chế độ thuê khoán, thù lao, trợ cấp hành nghề chi phí di chuyển, chế độ đào tạo, công tác phí, nhà công vụ, thuê mua nhà ở xã hội của luật sư công,… Chế độ công tác linh hoạt, hợp lý với nhiều đãi ngộ mang tính vượt trội hấp dẫn để cạnh tranh với lĩnh vực tư nhân. Chế độ lương, thưởng, phụ cấp và thù lao phải tương xứng với trình độ chuyên môn, kinh nghiệm, tính chất và đặc thù công việc.
Đồng thời, xây dựng môi trường làm việc chuyên nghiệp, đáp ứng yêu cầu công việc phù hợp với xu thế chuyển đổi số mạnh mẽ hiện nay từ cơ sở vật chất, phương tiện tác nghiệp hành nghề.
Thứ ba, xây dựng cơ hội thăng tiến trong nghề nghiệp.
Xây dựng cơ hội thăng tiến việc làm công bằng, cơ hội được bổ nhiệm làm giữ các chức vụ quản lý, lãnh đạo trong các cơ quan quản lý Nhà nước. Công nhận thành tích thông qua giải thưởng nghề nghiệp, danh hiệu luật sư công xuất sắc hằng năm. Cho phép luật sư công được tham gia đào tạo, nghiên cứu, công tác quốc tế để mở rộng kiến thức và mối quan hệ nghề nghiệp.
Thứ tư, nghiên cứu việc xã hội hóa thu hút luật sư từ khu vực tư tham gia luật sư công.
Nhà nước có thể xây dựng cơ chế ký hợp đồng giao khoán, trả thù lao theo vụ việc đối với các luật sư giỏi, có nhiều chuyên môn và kinh nghiệm đang hành nghề ở lĩnh vực luật sư tư để tham gia các hoạt động có tính chất công. Xã hội hóa hoạt động luật sư công bằng quy định các nghĩa vụ pháp lý bắt buộc của luật sư tham gia như vai trò của luật sư công trong các vụ việc trợ giúp pháp lý, vì trách nhiệm cộng đồng theo quy định bắt buộc hoặc với tinh thần tự nguyện hoặc thành lập các tổ chức luật sư công phi lợi nhuân.
Thứ năm, tôn vinh giá trị xã hội và giám sát hoạt động của luật sư công.
Đẩy mạnh truyền thông về vai trò và đóng góp của luật sư công trong việc bảo vệ công lý, quyền công dân. Kết hợp các cơ quan báo chí, Liên đoàn Luật sư Việt Nam và chính quyền địa phương kịp thời vinh danh, khen thưởng các gương sáng, việc tốt, sáng kiến hay trong hành nghề luật sư công, tôn vinh, giao lưu điển hình luật sư công tiêu biểu. Xây dựng hình ảnh luật sư công như một “người bảo vệ công bằng” trong lòng nhân dân, nhất là vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo.
Bên cạnh đó, cần xây dựng cơ chế kiểm tra, giám sát kịp thời uốn nắn điều chỉnh nếu có sai phạm để hoạt động luật sư công đúng pháp luật, phát huy được vai trò chức năng nhiệm vụ và đáp ứng kỳ vọng của xã hội.
Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ cụ thể của luật sư công
Luật sư, Thạc sĩ Nguyễn Thị Thu Hoài, Giám đốc Công ty Luật TNHH Thuế và Luật Hà Nội trình bày tham luận với chủ đề “Xây dựng cơ sở pháp lý cho chế định luật sư công tại Việt Nam – Thực trạng, kinh nghiệm quốc tế và giải pháp”.
Trong đó đáng chú ý, cho biết thêm về mô hình luật sư công trên thế giới, theo Luật sư Hoài, hoạt động trợ giúp pháp lý tại các quốc gia trên thế giới hiện nay đang được thực hiện song song bởi mô hình luật sư công và luật sư tư. Mô hình luật sư công đã xuất hiện từ lâu ở một số nước trên thế giới như: Singapore, Đông Timo, Mỹ, Agrentia, Úc… Từ kinh nghiệm quốc tế, Luật sư Hoài cho rằng có thể rút ra những bài học cụ thể như:
Thứ nhất, đa dạng hóa mô hình: Các nước áp dụng nhiều mô hình khác nhau từ luật sư công chức đến luật sư theo hợp đồng dịch vụ.
Thứ hai, chuyên môn hóa: Luật sư công thường được chuyên môn hóa theo lĩnh vực (hình sự, dân sự, hành chính,…).
Thứ ba, độc lập nghề nghiệp: Dù làm việc cho Nhà nước nhưng luật sư công vẫn phải đảm bảo tính độc lập trong hoạt động nghề nghiệp.
Thứ tư, chế độ đãi ngộ: Cần có chế độ đãi ngộ phù hợp để thu hút nhân tài.
Từ những phân tích trên, Luật sư Nguyễn Thị Thu Hoài kiến nghị, đề xuất một số giải pháp xây dựng chế định luật sư công, cụ thể:
Thứ nhất, hoàn thiện khung pháp lý:
- Sửa đổi Luật Luật sư:
Để thu hút đội ngũ luật sư làm việc cho các cơ quan Nhà nước cần phải rà soát, đề xuất sửa đổi một số văn bản pháp luật để triển khai chế định luật sư công như: Luật Luật sư; Luật Tố tụng hành chính; Bộ luật Tố tụng dân sự; Luật Cán bộ, công chức; Luật Viên chức và các văn bản pháp luật có liên quan khác.
Cụ thể, cần bổ sung định nghĩa rõ ràng về luật sư công trong Điều 2 Luật Luật sư; sửa đổi Điều 17 khoản 4 để tạo ngoại lệ cho chế định luật sư công; quy định rõ quyền hạn, nghĩa vụ và trách nhiệm của luật sư công; thiết lập cơ chế giám sát và đánh giá hoạt động của luật sư công.
- Tận dụng cơ chế thu hút nhân tài:
Nhà nước cần có cơ chế đặc biệt để thu hút chuyên gia, nhà khoa học, luật gia, luật sư giỏi, doanh nhân tiêu biểu, xuất sắc, sinh viên tốt nghiệp xuất sắc và nguồn nhân lực chất lượng cao khác vào làm việc trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội. Điều này cũng đã và đang được Đảng, Chính phủ quan tâm triển khai, đang từng bước hoàn thiện cơ chế, chính sách để thực hiện. Đó cũng là điểm thuận lợi cho quá trình xây dựng cơ sở pháp lý cho chế định luật sư công.
Luật sư, Thạc sĩ Nguyễn Thị Thu Hoài, Giám đốc Công ty Luật TNHH Thuế và Luật Hà Nội.
Thứ hai, xây dựng mô hình tổ chức hiệu quả.
- Mô hình đề xuất - "Trung tâm Luật sư công": Luật sư Hoài cho rằng, thành lập Trung tâm Luật sư công trực thuộc Bộ Tư pháp với cơ cấu tổ chức như sau:
Cấp trung ương: Trung tâm Luật sư Công Trung ương, với nhiệm vụ: Phụ trách các vụ việc có tầm quốc gia, tranh chấp quốc tế; tư vấn cho Chính phủ, các bộ, ngành trong các vấn đề pháp lý phức tạp.
Cấp địa phương: Chi nhánh Trung tâm tại các tỉnh, thành phố, có nhiệm vụ: Phụ trách các vụ việc địa phương; hỗ trợ UBND các cấp trong hoạt động tố tụng.
Cơ chế hoạt động linh hoạt: Các cơ quan nhà nước có thể tuyển dụng luật sư công (theo chính sách thu hút nhân tài) hoặc có thể ký hợp đồng dài hạn hoặc hợp đồng theo từng vụ án, vụ việc cụ thể (hợp đồng dịch vụ pháp lý) để làm việc cho cơ quan nhà nước.
Thứ ba, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ cụ thể. Theo đó, phạm vi hoạt động của luật sư công gồm:
- Tư vấn pháp lý chiến lược: Tham gia soạn thảo, thẩm định dự án luật, nghị định quan trọng; đánh giá tác động pháp lý của các chính sách công; tư vấn cho lãnh đạo các cơ quan nhà nước trong việc ra quyết định.
- Đại diện tố tụng: Đại diện cho các cơ quan nhà nước trong các vụ án hành chính; tham gia các vụ tranh chấp có yếu tố quốc tế; bào chữa trong các vụ án hình sự khi được chỉ định.
- Bảo vệ lợi ích công: Khởi kiện để bảo vệ tài sản nhà nước; Tham gia các vụ việc liên quan đến môi trường, tài nguyên; Đại diện nhà nước trong các thương vụ lớn.
Thứ tư, thiết lập tiêu chuẩn và quy trình tuyển dụng. Luật sư Hoài đề xuất các tiêu chuẩn luật sư công:
Về chuyên môn: Có bằng thạc sĩ trở lên; Có chứng chỉ hành nghề luật sư và ít nhất 5 năm kinh nghiệm hành nghề luật sư; Thành thạo ít nhất một ngoại ngữ (ưu tiên tiếng Anh); Có kiến thức chuyên sâu về lĩnh vực được phân công.
Về phẩm chất: Trung thành với Tổ quốc, có lập trường chính trị vững vàng; Có đạo đức nghề nghiệp cao, liêm chính, trung thực; Có khả năng làm việc dưới áp lực và trong môi trường quốc tế.
Quy trình tuyển dụng minh bạch: Thi tuyển công khai theo hình thức thi vấn đáp; Đánh giá năng lực thông qua các tình huống thực tế; Yêu cầu về trình độ ngoại ngữ và kỹ năng tranh tụng; Thời gian thử việc 2-3 tháng trước khi chính thức bổ nhiệm.
Thứ năm, xây dựng chế độ đãi ngộ hấp dẫn. Theo đó, cần áp dụng chính sách lương, thưởng cạnh tranh để thu hút và giữ chân luật sư công. Tuy nhiên, vấn đề chế độ đãi ngộ cho luật sư công cần được xem xét thấu đáo, có tính đến thực tế, được xem xét và quyết định bởi các ngành, lĩnh vực đặc thù (nội vụ, BHXH, thuế, tài chính,…). Trong phạm vi bài tham luận này, xin đề xuất theo quan điểm cá nhân về chế độ luật sư công như sau: về tiền lương, phải xây dựng mức lương thực sự hấp dẫn để thu hút những người có năng lực trình độ tham gia, để họ yên tâm đóng góp, cống hiến; chế độ phụ cấp hưởng từ 50–100% lương; thưởng theo kết quả công việc, có bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp và được hưởng chế độ hỗ trợ đào tạo. Bên cạnh đó, cần có lộ trình phát triển nghề nghiệp rõ ràng và cơ hội đào tạo, trao đổi quốc tế.
Thứ sáu, xây dựng chương trình đào tạo chuyên biệt cho luật sư công, có thể đào tạo tại Học viện Tư pháp, tập trung vào luật quốc tế, kỹ năng tranh tụng, ngôn ngữ pháp lý tiếng Anh, đàm phán và quản lý rủi ro pháp lý. Giai đoạn 2022 – 2025, đặt mục tiêu đào tạo 2.000 luật sư/năm, trong đó 100–150 phục vụ hội nhập quốc tế.
Thứ bảy, xây dựng cơ chế giám sát và đánh giá. Cụ thể, xây dựng hệ thống giám sát đa chiều:
- Giám sát nội bộ: Qua hệ thống báo cáo định kỳ và đánh giá hiệu quả công việc;
- Giám sát nghề nghiệp: Thông qua Liên đoàn Luật sư Việt Nam và các Đoàn Luật sư địa phương;
- Giám sát xã hội: Công khai hóa thông tin về hoạt động và kết quả công việc.
Đồng thời, xây dựng bộ tiêu chí đánh giá cụ thể như: Số lượng và chất lượng vụ việc được giải quyết; tỉ lệ thắng kiện trong các vụ án tranh tụng; mức độ hài lòng của các cơ quan được phục vụ; đánh giá từ đồng nghiệp và cộng đồng pháp lý.
Kiến nghị điều kiện hoạt động cho chế định luật sư công tại Việt Nam
Luật sư Lê Quốc Nghĩa, Hãng Luật Lê Hồng Hiển và Cộng sự cho biết, Việt Nam đang trong quá trình hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Trong bối cảnh đó, vai trò của luật sư ngày càng được nhìn nhận không chỉ là người đại diện pháp lý cho thân chủ, mà còn là một chủ thể góp phần bảo vệ công lý, hỗ trợ cải cách tư pháp và thúc đẩy bình đẳng pháp lý trong xã hội. Tuy nhiên, hệ thống luật sư hiện nay chủ yếu hoạt động dưới hình thức tư nhân, định hướng lợi nhuận, điều này dẫn đến một khoảng trống lớn trong việc cung cấp dịch vụ pháp lý cho các nhóm yếu thế – những người không có khả năng chi trả cho dịch vụ luật sư nhưng lại rất cần được bảo vệ pháp lý. Việc xây dựng chế định "luật sư công" chính là nhằm khắc phục khoảng trống này.
Luật sư Lê Quốc Nghĩa, Hãng Luật Lê Hồng Hiển và Cộng sự.
Do đó, Luật sư Nghĩa đưa ra một số kiến nghị về cơ chế chính sách và điều kiện hoạt động cho chế định luật sư công tại Việt Nam như sau:
- Về tuyển dụng và đào tạo: Luật sư công cần được tuyển chọn qua kỳ thi độc lập, khách quan, khác biệt so với đào tạo luật sư tư. Đồng thời, cần có chương trình đào tạo chuyên sâu về nhân quyền, tố tụng hình sự, hành chính, các kỹ năng điều tra xã hội học, bảo vệ trẻ em và người yếu thế.
- Về thù lao, khen thưởng, kỷ luật: Luật sư công cần có chế độ đãi ngộ xứng đáng, được đánh giá bằng hiệu quả giải quyết vụ việc, số lượng khách hàng yếu thế được trợ giúp thành công, cũng như chất lượng các phiên tòa mà họ tham gia. Cần có chế tài xử lý khi vi phạm đạo đức nghề nghiệp, đồng thời có cơ chế khen thưởng, phong danh hiệu.
- Về mô hình tổ chức, Luật sư đề xuất ba mô hình:
(i) Mô hình 1: Trung tâm Luật sư công trực thuộc Bộ Tư pháp hoặc Sở Tư pháp, vận hành như đơn vị sự nghiệp công lập có thu.
(ii) Mô hình 2: Trung tâm Luật sư công đặt tại trụ sở Tòa án để thuận tiện cho việc tiếp xúc với bị cáo, bị hại cần bảo vệ nhưng độc lập hoàn toàn về chuyên môn và tổ chức.
(iii) Mô hình 3: Liên kết giữa Nhà nước và các tổ chức hành nghề luật sư đủ uy tín để vận hành “chương trình luật sư công”, được Nhà nước cấp kinh phí, giám sát chất lượng.
“Luật sư công không chỉ là một thiết chế pháp lý mới, mà còn là biểu tượng cho lương tri của một xã hội tiến bộ – nơi không ai bị bỏ lại phía sau trước cánh cửa công lý. Hy vọng các cơ quan có thẩm quyền sớm nghiên cứu, đề xuất và luật hóa chế định luật sư công”, Luật sư Lê Quốc Nghĩa khẳng định.
Kinh nghiệm của Trung Quốc về bổ nhiệm, hoạt động, đánh giá luật sư công
Gợi mở từ mô hình luật sư công tại Trung Quốc, Luật sư Bùi Bảo Ngọc, Công ty Luật TNHH AKARI Việt Nam cho biết, Trung Quốc đã thiết lập một trong những hệ thống luật sư công bài bản và có ảnh hưởng nhất tại châu Á, định hình một bộ phận pháp lý chuyên nghiệp trong bộ máy hành chính nhà nước. Mặc dù Luật Luật sư Trung Quốc (2017) không trực tiếp quy định về chế định này, nhưng sự ra đời và thể chế hóa của nó là kết quả trực tiếp từ một văn bản pháp lý có tầm quan trọng đặc biệt: Chỉ thị số 36 năm 2015 của Quốc vụ viện và Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, mang tên “Ý kiến về việc hoàn thiện chế độ cố vấn pháp lý Quốc gia và chế độ luật sư công – Luật sư doanh nghiệp” là văn bản mang tính đột phá đã chính thức công nhận và định nghĩa vai trò then chốt của luật sư công.
Luật sư Bùi Bảo Ngọc, Công ty Luật TNHH AKARI Việt Nam.
Quy trình bổ nhiệm luật sư công tại Trung Quốc được thiết kế chi tiết dưới sự chỉ đạo của Bộ Tư pháp thông qua các văn bản hướng dẫn chi tiết, phản ánh sự cân nhắc kỹ lưỡng giữa năng lực pháp lý và yêu cầu của hệ thống công vụ. Việc tuyển chọn từ nhiều nguồn, trong đó ưu tiên nguồn nội bộ. Đối với các cán bộ, công chức, viên chức đang làm công tác pháp chế (fazhi gongzuo) tại chính cơ quan hành chính đó, những người đã am hiểu quy trình nội bộ và bối cảnh hoạt động cụ thể là những đối tượng được ưu tiên. Ngoài ra, có sự mở rộng đối với các luật sư tư nhân, giáo sư, tiến sĩ chuyên môn nghiên cứu luật, các học giả trong lĩnh vực luật pháp để có góc nhìn đa dạng, kinh nghiệm thực tiễn phong phú. Sau khi được tuyển chọn, các ứng viên phải trải qua quá trình thẩm định nghiêm ngặt trên 3 phương diện là tư tưởng chính trị, đạo đức công vụ nghề nghiệp và năng lực chuyên môn.
Về cơ chế giám sát và đánh giá luật sư công, để đảm bảo luật sư công hoạt động hiệu quả, minh bạch và tuân thủ chuẩn mực, Trung Quốc thiết lập một cơ chế giám sát kép và đánh giá đa chiều. Về cơ chế giám sát kép, cơ chế này vừa mang tính chất hành chính và tính chất nghề nghiệp. Đối với giám sát hành chính, luật sư công phải tuân thủ các quy định, cơ chế công vụ của cán bộ, công chức theo Luật Công chức, chịu sự quản lý của cơ quan nhà nước chủ quản. Giám sát này tập trung vào kỷ luật công vụ, thực hiện các công việc được giao và tuân thủ nội quy cơ quan. Tiếp theo là giám sát nghề nghiệp, hoạt động của luật sư do Bộ Tư pháp hoặc Sở Tư pháp địa phương thực hiện. Đây là sự giám sát về mặt chuyên môn nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp luật sư và việc tuân thủ các quy định riêng về hành nghề luật sư công. Cơ chế này giúp duy trì chuẩn mực nghề nghiệp chung và tính độc lập tương đối về chuyên môn của luật sư.
Đáng chú ý, quy tắc đánh giá hàng năm dành cho luật sư giống như một thước đo để đánh giá công việc của luật sư, ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển nghề nghiệp của Luật sư. Về cơ bản, các quy tắc đánh giá này nhằm mục đích đánh giá toàn diện hiệu suất của luật sư trong năm qua, bao gồm nhiều khía cạnh như năng lực chuyên môn của luật sư về:
- Hiệu quả công việc: Bao gồm số lượng vụ việc đã thụ lý, số vụ việc đã giải quyết, số lượng vụ việc đã nộp, số lượng công ty tư vấn đã phục vụ và mức phí.
- Đào tạo liên tục: Bao gồm tự học, đào tạo chuyên môn, thời lượng, trình độ, nội dung và phương pháp học tập nâng cao.
- Tuân thủ quy định: Bao gồm việc có khiếu nại, việc tuân thủ các quy định, quy chế, hệ thống chấm công, và việc tuân thủ các quy tắc kinh doanh , đạo đức nghề nghiệp và kỷ luật nghề nghiệp.
- Trình độ học vấn: Bao gồm hiểu biết cơ bản về nghề nghiệp được thể hiện qua việc xử lý các vụ việc pháp lý...
Tổng quan về mô hình luật sư công tại Trung Quốc có thể nhận thấy luật sư công tại Trung Quốc duy trì cơ chế bổ nhiệm hành chính chặt chẽ, chỉ có công chức trong cơ quan nhà nước hoặc đoàn thể mới được làm luật sư công. Nhấn mạnh tính độc lập chuyên môn của luật sư công. Mô hình của Trung Quốc yêu cầu luật sư công chỉ phục vụ trong khuôn khổ nhà nước hoặc những đối tượng đặc thù theo quy định pháp luật, không hành nghề thương mại hoặc đại diện khu vực tư nhân ngoài nhiệm vụ công.
Phát biểu tại Tọa đàm, Luật sư, Tiến sĩ Liêu Chí Trung, Phó Tổng biên tập Tạp chí Luật sư Việt Nam, qua các tham luận của đại biểu tham gia Tọa đàm, chúng ta đã có cái nhìn đa chiều, thống nhất về việc xây dựng chế định luật sư công.
Tọa đàm đã thu hút được nhiều tham luận tâm huyết và những chia sẻ kinh nghiệm quý báu của các luật sư trong quá trình hành nghề. Có thể thấy, vị trí của luật sư tại Việt Nam ngày càng được khẳng định; vai trò, trách nhiệm của luật sư đối với xã hội ngày càng được nâng cao.
Với các ý kiến đóng góp Tọa đàm của các luật sư sẽ là nguồn thông tin tham khảo giúp các cơ quan chức năng xây dựng chế định luật sư công hoàn thiện.
Phát biểu tổng kết Tọa đàm, Luật sư Nguyễn Văn Hậu, Ủy viên Ban Thường vụ, Chủ nhiệm Cơ quan truyền thông, Liên đoàn Luật sư Việt Nam nhấn mạnh việc hình thành chế định luật sư công ở Việt Nam là cần thiết và cấp bách trong giai đoạn hiện nay. Đây không chỉ là việc thực hiện các nghị quyết của Đảng và Quốc hội, mà hơn hết là một bước tiến lớn nhằm bảo đảm công bằng pháp lý, nâng cao hiệu quả hệ thống tư pháp và tăng cường niềm tin của Nhân dân vào pháp luật. Luật sư công sẽ là cầu nối để chính sách, pháp luật đi vào cuộc sống, góp phần bảo vệ quyền con người, quyền công dân, đồng thời hỗ trợ Nhà nước trong các nhiệm vụ pháp lý phức tạp.
Để mô hình này vận hành hiệu quả, cần có cách làm bài bản, thận trọng và hoàn thiện cơ sở pháp lý minh bạch; xác định rõ chức năng, nhiệm vụ để tránh chồng chéo với luật sư tư; xây dựng cơ chế đãi ngộ thỏa đáng; và chuẩn bị đầy đủ điều kiện tổ chức, nhân lực. Đây là trách nhiệm không chỉ của cơ quan nhà nước mà còn đòi hỏi sự chung tay của toàn xã hội, đặc biệt là giới luật sư.
“Từ góc nhìn của một luật sư hành nghề, tôi tin rằng chế định luật sư công sẽ tạo cơ hội để nghề luật sư đóng góp tích cực hơn nữa cho công lý và sự phát triển của đất nước, khẳng định tính ưu việt của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, Luật sư Hậu nói.