(LSVN) - Tiếp tục đợt 2 của Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIV, sáng 02/11, dưới sự điều hành của Phó Chủ tịch Quốc hội Phùng Quốc Hiển, Quốc hội họp phiên toàn thể hội trường, nghe báo cáo của Chính phủ về đề nghị chủ trương chuyển mục đích sử dụng rừng để thực hiện dự án Hồ chứa nước Sông Than, tỉnh Ninh Thuận và dự án Hồ chứa nước Bản Mồng, tỉnh Nghệ An.
Trình Quốc hội xem xét, quyết định chủ trương chuyển mục đích sử dụng 100,63 ha rừng phòng hộ để thực hiện Dự án Hồ chứa nước Sông Than, tỉnh Ninh Thuận
Thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ, trình bày Báo cáo về đề nghị chủ trương chuyển mục đích sử dụng rừng để thực hiện dự án Hồ chứa nước Sông Than, tỉnh Ninh Thuận và dự án Hồ chứa nước Bản Mồng, tỉnh Nghệ An, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Nguyễn Xuân Cường cho biết, về dự án hồ chứa nước sông Than, Dự án được Ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Thuận phê duyệt lần đầu tại Quyết định số 971/QĐ-UBND ngày 14/5/2010 với diện tích sử dụng đất 801,15 ha nhưng Dự án phải tạm dừng do khó khăn về nguồn vốn. Năm 2016, do tình hình hạn hán xảy ra nghiêm trọng, nhu cầu cấp bách của việc chống hạn, Dự án được đưa vào bố trí kế hoạch vốn trái phiếu Chính phủ giai đoạn 2017-2020. Năm 2017, tỉnh Ninh Thuận phê duyệt điều chỉnh dự án đầu tư.
Mục tiêu của dự án là nhằm cấp nước tưới cho 4.500 ha đất canh tác; cấp nước sinh hoạt cho khoảng 20.000 hộ dân vùng hạ lưu, cấp 24 triệu m3/năm cho các ngành kinh tế khác; cấp nước bổ sung cho các hồ chứa nước Lanh Ra, Tà Ranh và Bầu Zôn, cắt giảm lũ cho khu vực hạ du và tình trạng ngập úng.
Dự án được khởi công xây dựng vào tháng 7 năm 2018 đến nay đã triển khai xây dựng được khoảng 35% khối lượng công việc.
Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Nguyễn Xuân Cường nêu rõ, Dự án có trong Danh mục các công trình, dự án theo Điều chỉnh quy hoạch đất đến năm 2020 và Kế hoạch sử dụng đất kỳ cuối (2016-2020) của tỉnh Ninh Thuận được Chính phủ phê duyệt tại Nghị quyết số 113/NQ-CP ngày 30/8/2018. Báo cáo Đánh giá tác động môi trường đã được Bộ Tài nguyên và Môi trường thẩm định. Hiện tại, tỉnh Ninh Thuận đang hoàn thiện, bổ sung, giải trình để trình (báo cáo số 283/BC-UBND ngày 16/9/2020) Bộ Tài nguyên và Môi trường xem xét, phê duyệt theo đúng quy định.
Làm rõ lý do dự án phát sinh tiêu chí công trình quan trọng quốc gia, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho hay, tại Quyết định phê duyệt lần thứ nhất năm 2010, Hồ Sông Than có cao trình đỉnh đập là +134,3 m, dung tích toàn bộ 49,84 triệu m3; diện tích sử dụng đất 801,15 ha. Trong đó, diện tích sử dụng đất lâm nghiệp là 568,1 ha, gồm: đất lâm nghiệp có rừng 421,9 ha (phòng hộ 1,7 ha, sản xuất 420,2 ha), đất lâm nghiệp không có rừng 146,2 ha (phòng hộ 1,2 ha, sản xuất 145 ha). Như vậy, đối chiếu với quy định tại Nghị quyết số 66/2006/NQ-QH11, Dự án không thuộc nhóm dự án, công trình quan trọng quốc gia.
Tại Quyết định phê duyệt lần thứ hai năm 2017, Hồ Sông Than được điều chỉnh lên cao trình đỉnh đập là +141,5 m; dung tích toàn bộ 85,04 triệu m3; diện tích sử dụng đất là 1.011,86 ha. Trong đó, diện tích đất có rừng 576,69 ha (phòng hộ 6,88 ha, sản xuất 514,55 ha, ngoài quy hoạch lâm nghiệp 55,26 ha), đất chưa có rừng 435,17 ha. Vì vậy, theo Nghị quyết số 49/2010/QH12, dự án Hồ chứa nước Sông Than vẫn không thuộc dự án, công trình quan trọng quốc gia.
Đến năm 2019, UBND tỉnh Ninh Thuận đã điều chỉnh diện tích rừng chuyển mục đích sử dụng ở cao trình mực nước dâng bình thường là 134,3m (thay vì ở cao trình đỉnh đập cao nhất là +141 m) đã làm diện tích sử dụng đất giảm xuống còn là 885,51 ha, trong đó có 431,76 ha rừng đề xuất chủ trương chuyển mục đích sử dụng. Theo Luật Lâm nghiệp và kết quả phê duyệt 3 loại rừng, Dự án có 100,63 ha rừng phòng hộ (tăng 90,73 ha so với phê duyệt năm 2010) và 309,48 ha rừng sản xuất (giảm 205,07 ha so với phê duyệt năm 2010); diện tích rừng quy hoạch đưa ra ngoài 3 loại rừng 21,65 ha (giảm 222,93 ha so với phê duyệt năm 2010). Vì vậy, sau khi cập nhật diện tích sử dụng đất thì Dự án Hồ chứa nước Sông Than thuộc dự án quan trọng quốc gia và Thẩm quyền quyết định chủ trương chuyển mục đích sử dụng rừng thuộc Quốc hội.
Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Nguyễn Xuân Cường nhấn mạnh, Dự án có phát sinh tiêu chí quan trọng quốc gia do có sử dụng 100,63 ha rừng phòng hộ đầu nguồn. Vì vậy, việc Chính phủ đề nghị Quốc hội xem xét, quyết định chủ trương chuyển mục đích sử dụng 100,63 ha rừng phòng hộ để thực hiện Dự án là đúng quy định; vị trí rừng phải chuyển đổi của Dự án là bắt buộc để bảo đảm hiệu quả đầu tư công trình.
Về trồng rừng thay thế, Dự án đã có phương án trồng rừng thay thế được UBND tỉnh Ninh Thuận phê duyệt tại Quyết định số 2244 năm 2018; đến nay UBND tỉnh Ninh Thuận đã chỉ đạo việc trồng rừng thay thế với diện tích 595 ha. Ngoài ra, UBND tỉnh Ninh Thuận cam kết “sau khi được Quốc hội quyết định chủ trương chuyển mục đích sử dụng rừng sang mục đích khác để thực hiện dự án hồ chứa nước Sông Than, sẽ phê duyệt kinh phí trồng rừng thay thế bổ sung theo quy định của Luật Lâm nghiệp”.
Trình Quốc hội xem xét quyết định chủ trương chuyển mục đích sử dụng 1.131,22 ha đất rừng trên địa bàn tỉnh Nghệ An và Thanh Hóa để thực hiện Dự án Hồ chứa nước Bản Mồng
Về Dự án hồ chứa nước Bản Mồng, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Nguyễn Xuân Cường nêu rõ, Dự án được Thủ tướng Chính phủ cho phép đầu tư tại Văn bản số 154/TTg-NN ngày 20/01/2006; Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phê duyệt dự án đầu tư năm 2009 và được khởi công năm 2010 nhưng đến năm 2011 dự án tạm dừng do Chỉ thị số 1792/CT-TTg. Năm 2017, dự án được bố trí vốn trở lại trong trung hạn 2016-2020 để tiếp tục thực hiện và được Chính phủ cho phép phân kỳ đầu tư thành 02 giai đoạn.
Mục tiêu của dự án là nhằm cấp nước cho sản xuất nông nghiệp (tưới 18.871 ha), cấp nước cho công nghiệp, dân sinh; bổ sung nước về mùa kiệt cho sông Cả với lưu lượng 22 m3/s và cho 2 hệ thống thủy lợi lớn ở hạ du là Nam và Bắc Nghệ An; kết hợp phát điện (45MW); tích nước phòng lũ, giảm lũ cho hạ du sông Hiếu; phục vụ phát triển công nghiệp, du lịch.
Đến nay, Dự án đã triển khai xây dựng được khoảng 90% khối lượng công việc; lũy kế giải ngân đến nay đạt 83% và dự kiến đến cuối năm 2020 cơ bản hoàn thành giai đoạn I.
Làm rõ lý do dự án phát sinh tiêu chí công trình quan trọng quốc gia Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Nguyễn Xuân Cường cho biết, tại Quyết định phê duyệt lần đầu của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn năm 2009 thì tổng diện tích chiếm đất của Dự án là 5.259,30 ha, trong đó đất rừng phòng hộ là 94,0 ha; đất rừng sản xuất là 671,10 ha. Vì vậy, tại thời điểm năm 2009, Dự án Hồ chứa nước Bản Mồng không thuộc dự án, công trình quan trọng quốc gia. Năm 2017, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phê duyệt điều chỉnh dự án và năm 2019, UBND tỉnh Thanh Hóa và Nghệ An đã xác định diện tích sử dụng đất của Dự án sau điều chỉnh là 3.963,83 ha (giảm 1.295.5 ha so với phê duyệt năm 2009). Trong đó, diện tích đề nghị chuyển mục đích sử dụng rừng là 1.131,22 ha (Nghệ An 544,77 ha, Thanh Hóa 586,45 ha). Trong đó, rừng phòng hộ đầu nguồn: 312,95 ha; rừng sản xuất: 661,08 ha; rừng ngoài quy hoạch lâm nghiệp: 157,19 ha.
Như vậy, đối chiếu với quy định của Luật Đầu tư công thì Dự án có 312,95 ha rừng phòng hộ phải chuyển mục đích sử dụng rừng nên thuộc tiêu chí Dự án quan trọng quốc gia và thẩm quyền quyết định chủ trương chuyển mục đích sử dụng rừng thuộc Quốc hội.
Ngoài ra, Dự án đã thực hiện nghiêm túc các quy định pháp luật về hồ sơ, trình tự thủ tục chuyển mục đích sử dụng rừng được thực hiện theo quy định của Luật Lâm nghiệp và Nghị định 83/2020/NĐ-CP. Theo báo cáo của UBND tỉnh Nghệ An, UBND tỉnh Thanh Hóa diện tích rừng tự nhiên phải chuyển đổi là 662,55 ha đều thuộc loại rừng nghèo, nghèo kiệt; vị trí rừng tự nhiên phải chuyển đổi của Dự án là bắt buộc để bảo đảm hiệu quả đầu tư công trình.
Các tỉnh Nghệ An, tỉnh Thanh Hóa là các tỉnh có diện tích rừng lớn, nếu được phép chuyển đổi diện tích rừng để thực hiện Dự án thì độ che phủ rừng của Thanh Hóa có giảm 0,05%, Nghệ An có giảm 0,03% nhưng vẫn ở mức cao so với toàn quốc. Trong hồ sơ dự án các tỉnh đều xây dựng phương án trồng rừng thay thế bằng việc nộp tiền vào Quỹ bảo vệ và phát triển rừng để trồng rừng tại địa phương, đã tuân thủ nghiêm túc, đáp ứng các quy định của pháp luật.
Do đó, Chính phủ đề nghị Quốc hội xem xét quyết định chủ trương chuyển mục đích sử dụng 1.131,22 ha đất rừng trên địa bàn hai tỉnh Nghệ An (544,77 ha) và Thanh Hóa (586,45 ha), trong đó: Rừng phòng hộ 312,95 ha rừng phòng hộ, 661,08 ha rừng sản xuất và 157,19 ha rừng ngoài quy hoạch lâm nghiệp để thực hiện Dự án Hồ chứa nước Bản Mồng, tỉnh Nghệ An.
Sau khi nghe báo cáo của Chính phủ, Quốc hội nghe Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội Phan Xuân Dũng trình bày báo cáo thẩm tra về chủ trương chuyển mục đích sử dụng rừng sang mục đích khác để thực hiện Dự án hồ chứa nước sông Than, tỉnh Ninh Thuận và Dự án hồ chứa nước Bản Mồng, tỉnh Nghệ An.
Báo cáo thẩm tra trước Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Phan Xuân Dũng cho biết, Ủy ban cơ bản tán thành các nội dung về đề nghị chủ trương chuyển mục đích sử dụng rừng để thực hiện dự án Hồ chứa nước Sông Than, tỉnh Ninh Thuận và dự án Hồ chứa nước Bản Mồng, tỉnh Nghệ An như báo cáo của Chính phủ và bổ sung thêm như sau: Các Dự án này đều có thời gian thực hiện kéo dài do gặp khó khăn về bố trí nguồn vốn (Dự án Hồ Bản Mồng được phê duyệt chủ trương đầu tư năm 2006, dự án Hồ chứa nước sông Than năm 2010), đến năm 2011 đều bị tạm dừng hoặc dừng dãn tiến độ; đến khi thực hiện trở lại thì do thay đổi quy định của pháp luật về lâm nghiệp nên dự án phải chuyển mục đích sử dụng rừng phòng hộ đầu nguồn (Dự án hồ Sông Than phải chuyển 100,63 ha rừng phòng hộ đầu nguồn, Dự án Hồ Bản Mồng phải chuyển 312,95 ha).
Qua khảo sát thực tế và báo cáo tại các địa phương cho thấy, các tỉnh đều thực hiện tốt công tác trồng rừng, có tỷ lệ che phủ rừng cao; diện tích rừng phải chuyển đổi để thực hiện Dự án đều là những diện tích bắt buộc phải chuyển đổi để bảo đảm hiệu quả công trình; theo đánh giá của cơ quan chức năng thì chất lượng các diện rừng phải chuyển đổi đều là rừng nghèo, nghèo kiệt. Do vậy, việc chuyển đổi mục đích sử dụng rừng để sớm đưa các dự án này sớm hoàn thành vào hoạt động là cần thiết và cấp bách. Tuy nhiên, đối với Dự án Hồ chứa nước sông Than cần giải thích rõ thêm về tính tối ưu của việc điều chỉnh, nâng dung tích hồ chứa; đối với hồ chứa nước Bản Mồng cần lưu ý sau khi được Quốc hội quyết định chủ trương chuyển mục đích sử dụng rừng thì cần cập nhật báo cáo đánh giá tác động môi trường của Dự án.
Trên cơ sở Báo cáo thẩm tra đề nghị xem xét, quyết định chủ trương chuyển mục đích sử dụng rừng sang mục đích sử dụng khác để thực hiện dự án hồ chứa nước sông Than, tỉnh Ninh Thuận; dự án Hồ chứa nước Bản Mồng, tỉnh Nghệ An, Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường kính trình Quốc hội xem xét, quyết định.
PV (t/h)