/ Chưa được phân loại
/ TRỰC 06/01/2022

TRỰC 06/01/2022

06/01/2022 02:30 |

(LSVN) -

2.1. Bàn về việc áp dụng tội danh ‘Mua bán trái phép chất ma túy’ theo quy định của pháp luật hiện hành

(LSVN) - Hiện tại, việc xử lý hình sự đối với hành vi phạm tội về ma túy được áp dụng theo Bộ luật Hình sự năm 2015 (BLHS 2015), tại Chương XX, từ Điều 247 đến Điều 259. Tuy nhiên, việc xác định tội danh đối với một số tội phạm liên quan đến ma túy trên thực tế nhiều lúc gặp không ít khó khăn, đặc biệt là việc xác định tội danh “Mua bán trái phép chất ma túy”. 

Ảnh minh họa.

Điều 251 BLHS 2015 quy định về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” như sau: “1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm...”. Việc xác định tội “Mua bán trái phép chất ma túy” được hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP (Thông tư 17) (được sửa đổi bằng Thông tư liên tịch 08 ngày 14/11/2015 ). Tại mục 3.3 của Thông tư 17 nói trên đã hướng dẫn: Hành vi mua chất ma túy nhằm bán trái phép cho người khác là hành vi bị xử lý về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Trong phạm vi bài viết này, người viết trao đổi về việc định tội danh “Mua bán trái phép chất túy” được quy định tại Điều 251 BLHS 2015 trong một vụ án cụ thể đã được xét xử trong địa bàn tỉnh: Vào khoảng 18h25’ ngày 19/01/2021, Lương Văn Khoa - cư trú tại xã Hữu Khuông, Tương Dương, Nghệ An, đã bị bắt quả tang khi thực hiện hành vi tàng trữ trái phép heroin. Tại các giai đoạn tố tụng, Lương Văn Khoa đều khai nhận số ma túy này có được là do mình mua của một người đàn ông lạ mặt không quen biết nhằm mục đích để sử dụng và bán kiếm lời. Vì vậy, Lương Văn Khoa đã bị điều tra, truy tố, xét xử về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 BLHS.

Từ nội dung vụ án, chúng ta thấy, sau khi bị bắt quả tang về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, Lương Văn Khoa đã tự khai nhận về việc mình đã mua ma túy, rồi tàng trữ để vừa sử dụng cá nhân vừa bán kiếm lời. Khoa chưa thực hiện việc bán ma túy cho bất kỳ ai. Việc bán lại ma túy để kiếm lời chỉ đang còn là dự định, chưa thực hiện bằng hành vi. Trong trường hợp này, trên thực tế có thể xảy ra các khả năng: Lúc đầu thì Khoa có dự định sẽ bán, nhưng sau lại thay đổi ý định, không bán nữa, hoặc là vẫn giữ ý định sẽ bán nhưng vì đã sử dụng hết số ma túy này nên không thực hiện hành vi bán.

Trong tình huống cụ thể này, cơ quan điều tra đã căn cứ vào lời khai của người có ma túy để xác định động cơ, mục đích phạm tội để xác định tội danh. Thực tiễn xét xử, trên cơ sở kết quả điều tra và căn cứ vào mục 3.3 của Thông tư 17 thì Tòa án xác định hành vi mua chất ma túy nhằm bán trái phép cho người khác là phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Như vậy, động cơ, mục đích của người thực hiện hành vi phạm tội là căn cứ để phân biệt tội “Mua bán trái phép chất chất ma túy” với tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Cơ quan tiến hành tố tụng phải chứng minh người tàng trữ trái phép chất ma túy có nhằm mục đích bán để xác định tội danh “Mua bán trái phép chất ma túy”. Các tài liệu chứng minh về mục đích thực hiện hành vi phạm tội như: Lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, nhân chứng, vật chứng... mà thuận lợi nhất chính là lời khai của bị can và đồng phạm. Khi có nhiều nguồn chứng cứ thì việc đánh giá mục đích tội phạm là dễ dàng và chính xác, chúng ta không cần phải bàn luận. Vậy nhưng, trong vụ án nói trên, thì duy nhất chỉ có người thực hiện hành vi phạm tội biết và tự khai ra mục đích mua ma túy là để bán, vì không có bất kỳ người nào khác biết được mục đích này. Chính vì vậy, lời khai của người phạm tội trở thành chứng cứ duy nhất để cơ quan tiến hành tố tụng xác định tội danh - đây là vấn đề mà người viết muốn đưa ra bàn luận.

Bám sát vào các quy định về tố tụng hình sự, Điều 15 Bộ luật Tố tụng Hình sự (BLTTHS) quy định: “trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng”. Điều 87 BLTTHS quy định rõ lời khai, lời trình bày là một nguồn thu thập, xác định chứng cứ. Điều 98 BLHS quy định lời nhận tội của bị can, bị cáo chỉ có thể được coi là chứng cứ nếu phù hợp với những chứng cứ khác của vụ án. Tuy nhiên, trong vụ án nói trên, mục đích tàng trữ ma túy để bán chỉ thể hiện duy nhất qua lời thừa nhận của người tàng trữ trái phép chất ma túy khai, thì sẽ gây khó khăn trong việc đánh giá động cơ, mục đích của bị can, bị cáo, bởi nó phụ thuộc vào ý chí của người thực thi pháp luật và chính bản thân người có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Vậy, khi không có “chứng cứ khác” để đối chiếu với lời khai, lời nhận tội của bị can, bị cáo thì làm sao cơ quan tiến hành tố tụng có cơ sở vững chắc và thuyết phục khi chứng minh lời nhận tội của bị can, bị cáo phù hợp với những chứng cứ khác của vụ án để khẳng định rằng lời nhận tội của bị can, bị cáo có thể được coi là chứng cứ?

Như vậy, trong trường hợp cụ thể này, khi các cơ quan tiến hành tố tụng chỉ có duy nhất lời khai, lời nhận tội của bị can, bị cáo mà vẫn lấy đó để làm căn cứ định tội thì có vi phạm quy định: “Lời nhận tội của bị can, bị cáo chỉ có thể được coi là chứng cứ nếu phù hợp với những chứng cứ khác của vụ án. Không được dùng lời nhận tội của bị can, bị cáo làm chứng cứ duy nhất để buộc tội, kết tội” tại Điều 98 BLTTHS hay không?

Theo người viết, nếu căn cứ theo cơ sở lý luận là có vi phạm Điều 98 BLTTHS. Sau đây là một số đánh giá, phân tích về vi phạm pháp luật và cấu thành tội phạm để làm rõ quan điểm này:

Vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật và có lỗi, do chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện, xâm hại đến các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ. Vi phạm pháp luật bao gồm 4 yếu tố cấu thành là mặt khách quan, mặt chủ quan, chủ thể và khách thể. Như vậy, trước hết, vi phạm pháp luật phải là hành vi xác định của con người, tức là xử sự thực tế, cụ thể của cá nhân hoặc tổ chức nhất định, bởi vì pháp luật được ban hành để điều chỉnh hành vi của các chủ thể mà không điều chỉnh suy nghĩ của họ. Vì vậy, phải căn cứ vào hành vi thực tế của các chủ thể mới có thể xác định được là họ thực hiện pháp luật hay vi phạm pháp luật. Tiếp đến, vi phạm pháp luật phải là hành vi có lỗi của chủ thể, tức là khi thực hiện hành vi trái pháp luật, chủ thể có thể nhận thức được hành vi của mình và hậu quả của hành vi đó, đồng thời điều khiển được hành vi của mình.

Ở vụ án nói trên, việc “bán” ma túy chưa trở thành hành vi, mà chỉ đang ở trạng thái là ý định, là suy nghĩ. Như vậy, khi chưa có hành vi (hành vi là biểu hiện mặt khách quan của vi phạm pháp luật), thì làm sao chúng ta lại được xét đến hành vi có lỗi hay hành vi không có lỗi? “Lỗi” ở đây là mặt chủ quan của cấu thành tội phạm, nó là trạng thái tâm lý hay thái độ của chủ thể đối với hành vi của mình và đối với hậu quả của hành vi đó gây ra cho xã hội được thể hiện dưới hai hình thức: cố ý hoặc vô ý. Lại một lần nữa, chúng ta thấy, khi chưa thực hiện hành vi bán ma túy thì chúng ta không thể xác định được trạng thái tâm lý hay thái độ của chủ thể đối với hành vi “bán” được. Có thể liên hệ với tội "Giết người", nếu anh A. khai rằng anh A. muốn giết anh B. nhưng lại chưa thực hiện bất cứ hành vi gì đe dọa, xâm phạm đến tính mạng và sức khỏe của anh B. thì chúng ta không thể chỉ căn cứ vào suy nghĩ hay lời nới của A mà định tội danh “Giết người” cho anh A. được. 

Theo quan điểm của người viết, trong một vụ án, nếu như công an bắt quả tang người nào đó đang có hành vi tàng trữ ma túy và họ tự khai số ma túy này là do họ mua về để sử dụng và bán kiếm lời. Trên thực tế là họ chưa bán cho bất kỳ người nào khác, cũng không có chứng cứ nào khác ngoài lời khai của họ thì cơ quan tiến hành tố tụng chỉ có căn cứ để xử lý về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điều 249 BLHS, chứ không đủ căn cứ để xử lý về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo Điều 251 BLHS để tránh vi phạm Điều 98 BLTTHS như phân tích ở trên.

Vẫn biết rằng, ma túy là hiểm họa của nhân loại, nó không chỉ tác động xấu đến sức khỏe, tính mạng con người, mà còn làm xói mòn các giá trị văn hoá, đạo đức và là nguyên nhân dẫn đến nhiều tội ác, kéo lùi sự phát triển của xã hội và văn minh của nhân loại. Vấn đề phòng, chống ma túy luôn được các quốc gia và toàn thế giới đồng lòng chung sức thực hiện một cách bền bỉ và mạnh mẽ, khắt khe. Tuy vậy, nếu nhìn ở góc độ lý luận thì chúng ta cần tiếp tục cân nhắc hơn nữa đối với việc áp dụng các quy định về các tội phạm về ma túy, đặc biệt là đối với tội danh “Mua bán trái phép chất ma túy” như trong vụ án mà tác giả đề cập trong bài viết này để đảm bảo áp dụng đúng pháp luật trong xử lý hành vi phạm tội./.

THẠC SĨ PHẠM VĂN CHUNG

Sở Tư pháp tỉnh Kon Tum

Một số điểm mới nổi bật trong Nghị định số 67/2021/NĐ-CP của Chính phủ

1.1. Án lệ số 44/2021/AL về việc xác định thời hiệu khởi kiện đối với yêu cầu phản tố

(LSVN) - Án lệ số 44/2021/AL được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao thông qua ngày 25 tháng 11 năm 2021 và được công bố theo Quyết định số 594/QĐ-CA ngày 31 tháng 12 năm 2021 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

Nguồn án lệ:

Quyết định giám đốc thẩm số 10/2021/KDTM-GĐT ngày 14/9/2021 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội về vụ án kinh doanh thương mại “Tranh chấp hợp đồng tư vấn thiết kế” tại Hà Nội, giữa nguyên đơn là Công ty cổ phần H với bị đơn là Công ty TNHH Thiết kế và Xây dựng P.

Vị trí nội dung án lệ:

Đoạn 2 phần “Nhận định của Tòa án”.

Khái quát nội dung án lệ:

- Tình huống án lệ:

Trong vụ án dân sự, bị đơn có yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập.

- Giải pháp pháp lý:

Trường hợp này, Tòa án phải xác định yêu cầu phản tố của bị đơn chính là yêu cầu khởi kiện và phải tuân thủ theo các quy định của pháp luật về thời hiệu khởi kiện.

Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ:

Khoản 4 Điều 60, Điều 159, Điều 176, Điều 178 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 (tương ứng với khoản 4 Điều 72, Điều 184, Điều 200, Điều 202 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015); điểm e, khoản 1, Điều 217 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Từ khóa của án lệ:

“Yêu cầu phản tố”; “Xác định thời hiệu khởi kiện”.

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo đơn khởi kiện ngày 24/6/2010 và quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là Công ty cổ phần H do người đại diện trình bày:

Ngày 29/01/2008, Công ty cổ phần H và Công ty TNHH Thiết kế và Xây dựng P ký Hợp đồng tư vấn thiết kế số 01-2008/PLC-HDC, với nội dung: Công ty TNHH Thiết kế và Xây dựng P (bên Tư vấn) có trách nhiệm thiết kế toàn bộ Dự án “Trung tâm Thương mại - Khách sạn 4 sao HD - Hotel” trên khu đất diện tích 8.971m2 tại D7, phường X, quận T, thành phố Hà Nội, do Công ty cổ phần H là Chủ đầu tư. Tổng giá trị Hợp đồng là 1.754.550 USD (chưa bao gồm thuế giá trị gia tăng), được phân bổ theo 3 giai đoạn thực hiện: Giai đoạn 1 - Thiết kế xây dựng; Giai đoạn 2 - Thiết kế nội thất cảnh quan; Giai đoạn 3 - Giám sát tác giả.

Theo đó, Giai đoạn 1 (Thiết kế xây dựng), phí thiết kế là 1.191.822 USD (được ký hiệu là A); phí giám sát tác giả là 62.728 USD (ký hiệu AA) được chia làm 12 đợt (từ “Thanh toán lần 1” cho đến “Thanh toán lần 12”), trong đó:

- Thanh toán lần 1: 25% x A ngay sau khi ký Hợp đồng và bên Tư vấn đã nộp Chứng thư Ngân hàng bảo lãnh Hợp đồng, các Hợp đồng bảo hiểm cho Chủ đầu tư.

- Thanh toán lần 2: 5% x A sau khi nộp Hồ sơ thiết kế quy hoạch tổng mặt bằng và phương án kiến trúc cho Chủ đầu tư và được Chủ đầu tư chấp thuận.

- Thanh toán lần 3: 10% x A sau khi nộp Hồ sơ thiết kế quy hoạch tổng mặt bằng và phương án kiến trúc lên Sở Quy hoạch Kiến trúc Hà Nội hoặc các cơ quan chức năng có thẩm quyền tương đương và Hồ sơ trên được thẩm tra phê duyệt.

Quá trình thực hiện ở Giai đoạn 1 (Thiết kế xây dựng), Công ty TNHH Thiết kế và Xây dựng P đã giao nộp cho Công ty cổ phần H các Hợp đồng bảo hiểm, Chứng thư Ngân hàng bảo lãnh Hợp đồng và Hồ sơ thiết kế quy hoạch tổng mặt bằng và phương án kiến trúc của Dự án. Công ty cổ phần H đã chuyển tiền thanh toán cho Công ty TNHH Thiết kế và Xây dựng P được 02 đợt: Thanh toán lần 1 (25% x A và thuế giá trị gia tăng, theo Hóa đơn giá trị gia tăng số 0081905 ngày 27/02/2008); thanh toán lần 2 (5% x A và thuế giá trị gia tăng, theo Hóa đơn giá trị gia tăng số 0081909 ngày 18/8/2008). Tổng số tiền của 2 lần thanh toán nêu trên là 396.751,75 USD, tương đương với 6.374.689.675 đồng quy đổi theo tỷ giá VND/USD tại thời điểm thanh toán. Sau đó, do thay đổi quy mô Dự án và hai bên không thỏa thuận được với nhau về việc điều chỉnh giá trị hợp đồng cho thiết kế mới nên Công ty cổ phần H đơn phương chấm dứt Hợp đồng và có tranh chấp với Công ty TNHH Thiết kế và Xây dựng P về giá trị thanh toán.

Công ty cổ phần H cho rằng ở đợt Thanh toán lần 1, Công ty cổ phần H đã tạm ứng thanh toán thừa so với khối lượng công việc thực tế Công ty TNHH Thiết kế và Xây dựng P đã thực hiện. Nay Công ty cổ phần H chỉ chấp nhận thanh toán cho Công ty TNHH Thiết kế và Xây dựng P số tiền chiếm khoảng 8% phí thiết kế xây dựng (8% x A) cho cả 2 lần thanh toán (lần 1 và lần 2). Ngoài ra, Công ty cổ phần H chấp nhận chịu khoản tiền phạt tương đương với 1 % giá trị Hợp đồng do Công ty cổ phần H đơn phương chấm dứt Hợp đồng. Do đó, Công ty cổ phần H khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc Công ty TNHH Thiết kế và Xây dựng P hoàn trả lại cho Công ty cổ phần H số tiền mà Công ty cổ phần H đã thanh toán thừa cho Công ty TNHH Thiết kế và Xây dựng P là 278.841,8 USD (sau khi đối trừ số tiền đã tạm ứng với số tiền được thanh toán).

Bị đơn là Công ty TNHH Thiết kế và Xây dựng P do người đại diện trình bày:

Công ty TNHH Thiết kế và Xây dựng P không chấp nhận yêu cầu khởi kiện đòi lại tiền của nguyên đơn với lý do đây là tiền Công ty cổ phần H đã thanh toán cho Công ty TNHH Thiết kế và Xây dựng P theo tiến độ thỏa thuận trong Hợp đồng, không phải là tiền tạm ứng. Ngoài ra, Công ty TNHH Thiết kế và Xây dựng P có Đơn phản tố, yêu cầu Công ty cổ phần H ngoài việc phải chịu khoản tiền phạt tương đương với 1% giá trị Hợp đồng do đơn phương chấm dứt Hợp đồng, Công ty cổ phần H phải tiếp tục thanh toán cho Công ty TNHH Thiết kế và Xây dựng P đợt Thanh toán lần 3 (10% phí thiết kế) do Công ty TNHH Thiết kế và Xây dựng P đã hỗ trợ xong về mặt kỹ thuật để phê duyệt Hồ sơ thiết kế của Dự án. Công ty TNHH Thiết kế và Xây dựng P cho rằng việc không trình Hồ sơ thiết kế cho cấp có thẩm quyền dẫn đến Hồ sơ thiết kế này không được phê duyệt là hoàn toàn do lỗi của Công ty cổ phần H.

Tại Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 01/2011/KDTM-ST ngày 20/6/2011, Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội quyết định:

Chấp nhận đơn khởi kiện của Công ty cổ phần H đối với Công ty TNHH Thiết kế và Xây dựng P. Buộc Công ty TNHH Thiết kế và Xây dựng P phải hoàn trả cho Công ty cổ phần H số tiền tạm ứng của Hợp đồng số 01-2008/PLC-HDC ký ngày 29/01/2008 là 272.571,41 USD tương đương với 5.642.228.187 đồng. Bác yêu cầu phản tố của Công ty TNHH Thiết kế và Xây dựng P đối với Công ty cổ phần H.

Ngày 01/7/2011, Công ty TNHH Thiết kế và Xây dựng P kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.

Tại Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 27/2011/KDTM-PT ngày 21/9/2011, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội quyết định:

Không chấp nhận kháng cáo của Công ty TNHH Thiết kế và Xây dựng P. Giữ nguyên quyết định của Bản án sơ thẩm.

Sau khi xét xử phúc thẩm, Công ty TNHH Thiết kế và Xây dựng P có đơn đề nghị giám đốc thẩm đối với bản án phúc thẩm nêu trên.

Tại Quyết định kháng nghị số 60/2014/KN-KDTM ngày 15/9/2014, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 27/2011/KDTM-PT ngày 21/9/2011 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội; đề nghị Tòa Kinh tế Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm theo hướng hủy bản án phúc thẩm nêu trên và hủy Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 01/2011/KDTM-ST ngày 20/6/2011 của Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật.

Tại Quyết định giám đốc thẩm số 18/2015/KDTM-GĐT ngày 26/3/2015, Tòa Kinh tế Tòa án nhân dân tối cao quyết định: Hủy Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 27/2011/KDTM-PT ngày 21/9/2011 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội và Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 01/2011/KDTM-ST ngày 20/6/2011 của Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật.

Tại Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 32/2019/KDTM-ST ngày 25/11/2019, Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội quyết định:

1. Bác yêu cầu khởi kiện của Công ty cổ phần H đối với Công ty TNHH Thiết kế và Xây dựng P về việc buộc Công ty TNHH Thiết kế và Xây dựng P phải trả lại cho Công ty cổ phần H số tiền 6.308.478.665 đồng.

2. Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của Công ty TNHH Thiết kế và Xây dựng P buộc Công ty cổ phần H thanh toán cho Công ty TNHH Thiết kế và Xây dựng P (tính đến ngày 20/11/2019), số tiền cụ thể sau:

+) Tiền thanh toán lần 03 (theo Hợp đồng tư vấn thiết kế số 01/2008/PLC-HDC ngày 29/01/2008): 1.599.420.000 đồng.

+) Tiền bồi thường (theo Điều 2.8.5b, điều kiện chung của Hợp đồng tư vấn thiết kế số 01/2008/PLC-HDC ngày 29/01/2008) là: 406.704.690 đồng.

+) Tiền lãi của số tiền 1.599.420.000 đồng là 2.080.735.870 đồng.

Tổng cộng là: 4.086.860.560 đồng.

3. Ngoài số tiền Công ty cổ phần H phải thanh toán cho Công ty TNHH Thiết kế và Xây dựng P như trên, Công ty cổ phần H còn phải thanh toán cho Công ty TNHH Thiết kế và Xây dựng P số tiền lãi của số tiền 1.599.420.000 đồng kể từ ngày 21/11/2019 cho đến khi thanh toán xong theo mức lãi suất chậm thanh toán mà các bên đã thỏa thuận là 12%/năm.

4. Đối với số tiền bồi thường (theo Điều 2.8.5b, điều kiện chung của Hợp đồng tư vấn thiết kế số 01/2008/PLC-HDC ngày 29/01/2008) là 406.704.690 đồng thì kể từ ngày Công ty TNHH Thiết kế và Xây dựng P có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi Công ty cổ phần H thanh toán xong, Công ty cổ phần H còn phải thanh toán tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.

Ngày 09/12/2019, Công ty TNHH Thiết kế và Xây dựng P và Công ty cổ phần H đều có đơn kháng cáo đối với bản án sơ thẩm nêu trên.

Tại Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 82/2020/KDTM-PT ngày 15+19/6/2020, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội quyết định:

Sửa Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 32/2019/KDTM-ST ngày 25/11/2019 của Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm về cách tuyên đối với nghĩa vụ chịu lãi chậm thi hành án.

1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty cổ phần H đối với Công ty TNHH Thiết kế và Xây dựng P về việc buộc Công ty TNHH Thiết kế và Xây dựng phải trả lại số tiền 6.308.478.665 đồng.

2. Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của Công ty TNHH Thiết kế và Xây dựng P. Công ty cổ phần H phải thanh toán cho Công ty TNHH Thiết kế và Xây dựng P các khoản: 1.599.420.000 đồng (tiền thanh toán giai đoạn 03 của Hợp đồng tư vấn thiết kế) + 2.080.735.870 đồng (lãi suất chậm trả) + 406.704.690 đồng (tiền phạt do đơn phương chấm dứt hợp đồng). Tổng cộng: 4.086.860.560 đồng.

Ngày 02/11/2020, Công ty cổ phần H có đơn đề nghị giám đốc thẩm đối với bản án dân sự phúc thẩm nêu trên.

Tại Quyết định kháng nghị số 02/KNGĐT-VC1-KDTM ngày 02/3/2021, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội kháng nghị Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 82/2020/KDTM-PT ngày 15+19/6/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội; đề nghị Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội hủy bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm nêu trên và hủy Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 32/2019/KDTM-ST ngày 25/11/2019 của Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội; giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội đề nghị Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

[1] Về tố tụng: Tại Giấy ủy quyền ngày 01/10/2015 và Giấy ủy quyền ngày 16/03/2016 thể hiện ông S là người đại diện theo pháp luật của Công ty TNHH Thiết kế và Xây dựng P ủy quyền cho ông D và ông N tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện theo ủy quyền của bị đơn. Tuy nhiên, theo kết quả xác minh tại Cục Quản lý xuất nhập cảnh tại Công văn số 9089/A72-P4 ngày 10/8/2015, Công văn số 14733/A72-P4 ngày 11/12/2015 và Công văn số 9443/QLXNC-P4 ngày 12/6/2019 xác định “ông S xuất cảnh ngày 18/10/2014, không có thông tin liên quan đến nhập, xuất cảnh của ông S trong khoảng thời gian từ 01/8/2015 đến ngày 07/6/2019”. Như vậy, có căn cứ xác định thời điểm ông S ký giấy ủy quyền cho ông D, ông N tham gia tố tụng thì ông S không có mặt tại Việt Nam. Trong trường hợp, các giấy ủy quyền này được lập, gửi về từ nước ngoài thì theo quy định tại Điều 478 Bộ luật Tố tụng dân sự phải được công chứng, chứng thực và hợp pháp hóa lãnh sự mới có giá trị pháp lý. Bên cạnh đó, việc xác định vào thời điểm lập giấy ủy quyền, ông S đang ở Việt Nam hay ở nước ngoài còn liên quan đến việc xem xét, xác định thẩm quyền giải quyết vụ án. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm chưa làm rõ các nội dung này mà đã chấp nhận giá trị và nội dung của giấy ủy quyền (trong khi nguyên đơn cũng có yêu cầu Tòa án xác minh tính xác thực và tính hợp pháp của các giấy ủy quyền này) là vi phạm nghiêm trọng tố tụng.

[2] Về yêu cầu phản tố, nhận định của Tòa án cấp phúc thẩm tại Bản án số 82/2020/KDTM-PT về việc yêu cầu phản tố không bị giới hạn bởi thời hiệu khởi kiện (tr. 15) là không đúng. Theo các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 và Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, yêu cầu phản tố là yêu cầu không nằm trong yêu cầu của nguyên đơn, có thể được giải quyết bằng một vụ án độc lập; việc giải quyết yêu cầu phản tố trong cùng vụ án là để kết quả giải quyết chính xác và nhanh hơn. Yêu cầu phản tố cũng chính là yêu cầu khởi kiện nên phải tuân thủ quy định về thời hiệu khởi kiện. Do đó, trường hợp có yêu cầu phản tố và có đương sự trong vụ án đề nghị áp dụng thời hiệu khởi kiện thì Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm phải xác định xem yêu cầu phản tố có còn thời hiệu khởi kiện hay không mới đúng quy định pháp luật.

[3] Về nội dung: Theo Hợp đồng tư vấn thiết kế giữa hai bên, điều kiện để được Thanh toán lần 3 là: “Sau khi nộp Hồ sơ thiết kế quy hoạch tổng mặt bằng và phương án kiến trúc lên Sở Quy hoạch Kiến trúc Hà Nội hoặc các cơ quan chức năng có thẩm quyền tương đương và Hồ sơ trên được thẩm tra phê duyệt”. Tài liệu hồ sơ vụ án cho thấy, sau khi nhận được Công văn số 99- 2008/CV-HĐ/QLDA ngày 03/9/2008 của Công ty cổ phần H thông báo về việc dừng in bản vẽ thiết kế do thay đổi quy mô Dự án (nâng số tầng), Công ty TNHH Thiết kế và Xây dựng P đã chấp thuận nội dung thông báo này của Công ty cổ phần H nên ngày 29/9/2008, Công ty TNHH Thiết kế và Xây dựng P đã gửi Văn bản số MLS/HD/29/9/08 về việc “Chào giá thiết kế phí công trình khách sạn cao cấp H” để điều chỉnh giá cho phương án thiết kế mới. Do không thỏa thuận được với nhau về việc điều chỉnh giá trị hợp đồng nên Công ty cổ phần H đã đơn phương chấm dứt hợp đồng trước thời hạn. Hai bên tranh chấp về việc giải quyết hậu quả của việc đơn phương chấm dứt hợp đồng. Công ty cổ phần H cho rằng đã thanh toán thừa cho Công ty TNHH Thiết kế và Xây dựng P số tiền 278.841,8 USD (sau khi đối trừ số tiền đã tạm ứng với số tiền được thanh toán) nên khởi kiện đòi lại. Công ty TNHH Thiết kế và Xây dựng P không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của Công ty cổ phần H và có yêu cầu phản tố buộc Công ty cổ phần H thanh toán tiền lần 3 theo hợp đồng và khoản tiền phạt vi phạm. Thấy rằng, Công ty cổ phần H đã đơn phương chấm dứt hợp đồng (theo quy định tại điểm g Điều 2.8.1 Phần II) nên theo điểm a Điều 2.8.5 Phần II của Hợp đồng tư vấn thiết kế quy định: “Khi chấm dứt hợp đồng theo các Điều 2.8.1 hoặc Điều 2.8.2 của Điều kiện chung của hợp đồng, các bên sẽ thỏa thuận về việc thanh toán cho Tư vấn thu nhập theo Điều 6 của Điều kiện chung của Hợp đồng trên cơ sở các phần dịch vụ Tư vấn đã thực hiện đạt yêu cầu và được chủ đầu tư chấp thuận trong thời gian trước ngày chấm dứt hợp đồng có hiệu lực. Ngoài ra, chủ đầu tư không phải thanh toán cho tư vấn bất kỳ khoản nào khác, ngoại trừ Điều 2.8.1.g thì chủ đầu tư sẽ bồi thường cho tư vấn tương đương 1% giá trị hợp đồng”. Do đó, cần phải căn cứ vào giá trị khối lượng công việc thực tế mà Công ty TNHH Thiết kế và Xây dựng P đã thực hiện để làm cơ sở xác định nghĩa vụ thanh toán của Công ty cổ phần H. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm không yêu cầu Công ty TNHH Thiết kế và Xây dựng P xuất trình tài liệu, chứng cứ chứng minh khối lượng công việc thực tế mà Công ty TNHH Thiết kế và Xây dựng P đã thực hiện sau lần thanh toán thứ 2 của giai đoạn 1 được quy định tại Điều 6.4 Hợp đồng tư vấn thiết kế, đã chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bị đơn, buộc Công ty cổ phần H phải thanh toán cho Công ty TNHH Thiết kế và Xây dựng P ½ số tiền của lần thanh toán thứ 3 theo hợp đồng (tương ứng với 5% phí thiết kế xây dựng) là không đúng, ảnh hưởng đến quyền lợi của nguyên đơn.

[5] Vì vậy, kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội là có cơ sở nên cần hủy toàn bộ bản án phúc thẩm và bản án sơ thẩm để xét xử sơ thẩm lại.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH:

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 337, khoản 3 Điều 343, Điều 345 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

1. Chấp nhận Quyết định kháng nghị số 02/QĐKNGĐT-VC1-KDTM ngày 02/3/2021 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội.

2. Hủy toàn bộ Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 82/2020/KDTM-PT ngày 15+19/6/2020 của Tòa án nhân dân thanh phố Hà Nội và hủy toàn bộ Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 32/2019/KDTM-ST ngày 25/11/2019 của Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội về vụ án “Tranh chấp hợp đồng tư vấn thiết kế” giữa nguyên đơn là Công ty cổ phần H với bị đơn là Công ty TNHH Thiết kế và Xây dựng P.

3. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm đúng quy định của pháp luật.

NỘI DUNG ÁN LỆ:

“[2] Về yêu cầu phản tố, nhận định của Tòa án cấp phúc thẩm tại Bản án số 82/2020/KDTM-PT về việc yêu cầu phản tố không bị giới hạn bởi thời hiệu khởi kiện (tr. 15) là không đúng. Theo các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 và Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, yêu cầu phản tố là yêu cầu không nằm trong yêu cầu của nguyên đơn, có thể được giải quyết bằng một vụ án độc lập; việc giải quyết yêu cầu phản tố trong cùng vụ án là để kết quả giải quyết chính xác và nhanh hơn. Yêu cầu phản tố cũng chính là yêu cầu khởi kiện nên phải tuân thủ quy định về thời hiệu khởi kiện.

Do đó, trường hợp có yêu cầu phản tố và có đương sự trong vụ án đề nghị áp dụng thời hiệu khởi kiện thì Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm phải xác định xem yêu cầu phản tố có còn thời hiệu khởi kiện hay không mới đúng quy định pháp luật.”

HỒNG HẠNH

Án lệ số 43/2021/AL về hiệu lực của hợp đồng thế chấp trong trường hợp tài sản thế chấp là nhà đất do bên thế chấp nhận chuyển nhượng của người khác nhưng chưa thanh toán đủ tiền cho bên bán

1.2. Phạt nặng hành vi vi phạm quy định trả thưởng

(LSVN) - Phạt tiền từ 20-30 triệu đồng đối với hành vi không thực hiện đúng quy định về thời gian trả thưởng cho khách hàng trúng thưởng.

Ảnh minh họa.

Chính phủ vừa ban hành Nghị định 137/2021/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kinh doanh đặt cược và trò chơi có thưởng. Trong đó, quy định phạt nặng đối với hành vi vi phạm quy định trả thưởng.

Cụ thể, phạt tiền từ 20-30 triệu đồng đối với hành vi không thực hiện đúng quy định về thời gian trả thưởng cho khách hàng trúng thưởng.

Phạt tiền từ 180-200 triệu đồng đối với một trong các hành vi vi phạm:

- Cố ý thông tin kết quả trúng thưởng sai lệch, không đúng so với biên bản xác nhận của Hội đồng giám sát cuộc đua hoặc kết luận của trọng tài chính điều khiển trận đấu bóng đá quốc tế hoặc kết quả đã được Ban Tổ chức sự kiện công bố chính thức bắt đầu.

- Thực hiện phương thức trả thưởng trái với quy định của pháp luật.

- Xây dựng tỉ lệ trả thưởng kế hoạch thấp hơn mức tối thiểu là 65% trên doanh thu bán vé đối với từng loại hình sản phẩm đặt cược.

- Xác nhận tiền trúng thưởng không đúng đối tượng trúng thưởng hoặc không đúng với giá trị trúng thưởng thực tế.

Ngoài ra, về mức phạt đối với hành vi vi phạm quy định về nghĩa vụ của người chơi, phạt cảnh cáo đối với hành vi cố tình mua vé đặt cược để tham gia đặt cược khi thuộc đối tượng không được phép tham gia đặt cược theo quy định của pháp luật.

Phạt tiền từ 30-50 triệu đồng đối với hành vi sửa chữa, tẩy xóa vé đặt cược để lĩnh thưởng.

Phạt tiền từ 90-100 triệu đồng đối với một trong các hành vi: Giả mạo vé đặt cược để lĩnh thưởng; dàn xếp làm sai lệch kết quả sự kiện đặt cược; giả mạo kết quả trúng thưởng.

DUY ANH

Điều chỉnh Hướng dẫn tạm thời thí điểm đón khách quốc tế đến Việt Nam

1.3. Vụ Tịnh thất Bồng Lai: Bị khởi tố với nhiều tội danh ông Lê Tùng Vân đối diện với mức án cao nhất là gì?

(LSVN) - Trường hợp bị kết án về nhiều tội danh thì Tòa án sẽ tổng hợp hình phạt theo nguyên tắc nếu hình phạt cao nhất là tù chung thân thì hình phạt chung sẽ là tù chung thân. Nếu hình phạt cao nhất chỉ là tù có thời hạn thì tổng hợp hình phạt sẽ không quá 30 năm tù. Ngoài hình phạt tù chung thân hoặc tù có thời hạn thì những người phạm các tội danh này còn phải bồi thường thiệt hại, phải trả lại tiền đã chiếm đoạt của các nạn nhân trong hoạt động kêu gọi quyên góp từ thiện đã diễn ra trước đó.

Khởi tố người đứng đầu Tịnh thất Bồng Lai với 3 tội danh

Ngày 05/01, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Long An đã khởi tố 3 tội danh đối với ông Lê Tùng Vân (SN 1932, trú tại quận 6, TP. Hồ Chí Minh), người đứng đầu Tịnh thất Bồng Lai có địa chỉ tại ấp Lập Thành, xã Hòa Khánh Tây, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An.

Cụ thể, 3 tội danh mà ông Lê Tùng Vân bị khởi tố gồm: tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản", tội "Lợi dụng quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của tổ chức, cá nhân" và tội "Loạn luân".

Trước đó, sau nhiều lùm xùm liên quan đến Tịnh thất Bồng Lai, tháng 11/2021, Công an huyện Đức Hòa, tỉnh Long An đã vào cuộc điều tra tại cơ sở thờ tự, nuôi dưỡng trẻ em bất hợp pháp này.

Từ kết quả điều tra, Công an huyện Đức Hòa đã củng cố chứng cứ và ngày 04/01/2022, Công an huyện Đức Hòa phối hợp với các đơn vị chức năng thuộc Công an tỉnh Long An, Viện Kiểm sát tống đạt quyết định khởi tố và khám xét khu vực Tịnh thất Bồng Lai, đưa một số người liên quan về trụ sở lấy lời khai.

Theo đại diện Công an tỉnh Long An, các tội danh trên đang được củng cố hồ sơ xử lý. Bước đầu xác định kết quả giám định ADN của ông Vân trùng với ADN của một số trẻ được nuôi dưỡng trong tịnh thất, nơi có mẹ của các bé ở cùng. Đây là chứng cứ về hành vi loạn luân và Cơ quan Cảnh sát điều tra đã thực hiện lệnh bắt tạm giam ông Vân.

Ngoài ra, những người liên quan trong Tịnh thất Bồng Lai cũng đang được củng cố hồ sơ xử lý.

Ảnh minh họa.

Hình phạt cao nhất là tù chung thân

Chia sẻ với Tạp chí Luật sư Việt Nam về một số vấn đề pháp lý liên quan trong vụ việc này, Luật sư Đặng Văn Cường, Trưởng văn phòng Luật sư Chính pháp cho biết, pháp luật Việt Nam ghi nhận, bảo đảm và bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo của mọi công dân. Tuy nhiên pháp luật cũng nghiêm cấm hành vi lợi dụng tôn giáo để trục lợi. Cụ thể tại khoản 5, Điều 5 Luật Tín ngưỡng tôn giáo năm 2016 nghiêm cấm hành vi: "Lợi dụng hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo để trục lợi.".

Người lợi dụng tôn giáo để trục lợi có thể bị xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Đối với hành vi mạo danh cơ sở tôn giáo tín ngưỡng để đưa ra thông tin gian dối, chiếm đoạt tài sản của người khác từ 2.000.000 đồng trở lên thì đây là hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Hành vi này sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 174 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 với mức chế tài cao nhất của tội danh này có thể đợi 20 năm tù hoặc tù chung thân. 

Theo Luật sư Cường, những tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự có thể áp dụng là: Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm; Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội; Có tổ chức; Có tính chất chuyên nghiệp; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức; Dùng thủ đoạn xảo quyệt; Phạm tội nhiều lần. 

Ngoài ra, trong quá trình điều tra nếu bị can thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tự nguyện bồi thường khắc phục hậu quả hoặc thuộc trường hợp là "Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên;" thì cũng sẽ được xem xét giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự.

Đối với những hành vi xúc phạm danh dự nhân phẩm, uy tín của các tổ chức cá nhân, đưa những thông tin, luận điệu xuyên tạc sai sự thật làm ảnh hưởng đến lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, của cá nhân, cơ quan điều tra cũng khởi tố những ông Lê Tùng Vân theo Điều 331 Bộ luật Hình sự về tội "Lợi dụng quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của tổ chức, cá nhân" là có cơ sở. Với tội danh này thì người phạm tội sẽ phải đối mặt với khung hình phạt có thể lên đến 07 năm tù.

Ngoài ra, trên cơ sở xác định có hành vi quan hệ loạn luân (quan hệ tình dục giữa cha với con, anh chị em với nhau) nên cơ quan điều tra đã khởi tố ông Vân về tội "Loạn luân" để xử lý theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Theo đó, người nào giao cấu với người mà biết rõ người đó cùng dòng máu về trực hệ, là anh chị em cùng cha mẹ, anh chị em cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

Như vậy, trường hợp bị kết án về nhiều tội danh thì Tòa án sẽ tổng hợp hình phạt theo nguyên tắc nếu hình phạt cao nhất là tù chung thân thì hình phạt chung sẽ là tù chung thân. Nếu hình phạt cao nhất chỉ là tù có thời hạn thì tổng hợp hình phạt sẽ không quá 30 năm tù.

Ngoài hình phạt tù chung thân hoặc tù có thời hạn thì những người phạm các tội danh này còn phải bồi thường thiệt hại, phải trả lại tiền đã chiếm đoạt của các nạn nhân trong hoạt động kêu gọi quyên góp từ thiện đã diễn ra trước đó.

Làm rõ trách nhiệm quản lý tôn giáo ở địa phương

Những nhà hảo tâm, các mạnh thường quân nhẹ dạ cả tin đã góp tiền cho những đối tượng này sẽ được xác định là người bị hại, có quyền yêu cầu những người đã lợi dụng tôn giáo, giả mạo trẻ mồ côi để trục lợi phải trả lại toàn bộ số tiền, tài sản đã nhận được của họ.

"Cơ quan tố tụng cũng sẽ làm rõ trách nhiệm quản lý địa bàn, quản lý tôn giáo ở địa phương, làm rõ nguyên nhân tại sao hoạt động tôn giáo trái phép này diễn ra nhiều năm không bị ngăn chặn, xử lý. Những cán bộ sai phạm trong công tác quản lý, tùy vào tính chất mức độ sẽ bị lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự", Luật sư Cường nói.

Vụ việc này là một bài học trong công tác quản lý hoạt động tôn giáo, trong việc thực hiện các hoạt động cứu trợ xã hội, kêu gọi từ thiện. Đồng thời là bài học cho những người dân nhẹ dạ cả tin khi tham gia các hoạt động thiện nguyện. Hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản thông qua hoạt động từ thiện là hành vi vi phạm nghiêm trọng đạo đức xã hội, làm suy giảm niềm tin của con người vào lòng tốt và sự tử tế, gây bức xúc trong dư luận. Bởi vậy chế tài xử lý đối với các đối tượng này sẽ rất nghiêm khắc để răn đe, phòng ngừa chung cho xã hội.

DUY ANH

Khởi tố người đứng đầu Tịnh thất Bồng Lai với 3 tội danh

2.2. Trường hợp nào được tạm giữ người theo thủ tục hành chính từ 01/01/2022?

(LSVN) - Chính phủ vừa ban hành Nghị định 142/2021/NĐ-CP quy định hình thức xử phạt trục xuất, biện pháp tạm giữ người, áp giải người vi phạm theo thủ tục hành chính và quản lý người nước ngoài vi phạm pháp luật Việt Nam trong thời gian làm thủ tục xuất cảnh. Vậy, theo quy định mới này, trường hợp nào được tạm giữ người theo thủ tục hành chính từ 01/01/2022? Bạn đọc Q.T. hỏi.

Ảnh minh họa.

Tại Điều 16 Nghị định 142/2021/NĐ-CP quy định về tạm giữ người theo thủ tục hành chính. Theo đó, việc tạm giữ người theo thủ tục hành chính chỉ được áp dụng trong các trường hợp sau:

- Cần ngăn chặn, đình chỉ ngay hành vi gây rối trật tự công cộng, gây thương tích cho người khác.

- Cần ngăn chặn, đình chỉ ngay hành vi buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới.

- Để thi hành quyết định đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc.

- Người có hành vi bạo lực gia đình vi phạm quyết định cấm tiếp xúc theo quy định của pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình.

- Để xác định tình trạng nghiện ma túy đối với người sử dụng trái phép chất ma túy.

Trong các trường hợp quy định tại Điều 16 của Nghị định này, những người có thẩm quyền quyết định việc tạm giữ người theo thủ tục hành chính được thực hiện theo quy định tại Điều 123 Luật Xử lý vi phạm hành chính.

Thời hạn tạm giữ người theo thủ tục hành chính được thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 122 Luật Xử lý vi phạm hành chính. Thời hạn tạm giữ người theo thủ tục hành chính phải được ghi cụ thể trong quyết định tạm giữ người theo thủ tục hành chính của người có thẩm quyền ra quyết định tạm giữ người theo thủ tục hành chính.

Thời hạn tạm giữ người theo thủ tục hành chính đối với trường hợp bị tạm giữ ở khu vực biên giới hoặc vùng rừng núi xa xôi, hẻo lánh, hải đảo thì thời hạn tạm giữ được tính từ thời điểm người vi phạm được áp giải đến nơi tạm giữ người theo thủ tục hành chính.

Nghị định này có hiệu lực từ ngày 01/01/2022.

PHƯƠNG HOA

Một số điểm mới nổi bật trong Nghị định số 67/2021/NĐ-CP của Chính phủ

2.3. Muốn họp phải có cái... bàn!

(LSVN) - Cái “bàn” ở đây không phải là danh từ chỉ đồ vật bằng gỗ, vốn dùng để đặt giấy, sổ…, mà là động từ chỉ việc bàn bạc, thảo luận, đóng góp ý kiến. 

Ảnh minh họa.

Đọc tới đây, chắc không ít người sẽ thắc mắc, bởi đã họp, ắt phải có cái “bàn”. Thực tế không hẳn như vậy. Có những cuộc họp, hội nghị thậm chí hội thảo, tọa đàm… lại không có cái để cùng bàn. Nói đúng ra thì, có hội mà không có thảo, có tọa mà thiếu đàm.

Sao lại vậy? Bởi, người tới dự thì đông vui như trảy hội, cười nói rôm rả, tay bắt mặt mừng biết bao chuyện bên lề, chuyện hành lang; ấy thế nhưng, đến phần chính khi cuộc họp diễn ra, các đại biểu lại đứng lên “trần thuật”, đọc báo cáo “một mình”. Hết anh A lại tới chị B, hết chị B lại anh C và cuối cùng là kết luận của chủ tọa. Ai dự họp cũng được báo cáo về ngành mình, địa phương mình, lĩnh vực mình, được nghe vỗ tay rầm rầm, nhưng rồi, điều đọng lại suy cho cùng, vẫn chỉ là “hội”, là “tọa”. Cuộc nào chủ tọa nghiêm túc “giới hạn” thời gian báo cáo thì đại biểu được dung lượng tầm 5 phút; kỳ nào chủ tọa “quên” thì có những báo cáo “tràng giang đại hải” khiến người dự “ngáp ngắn ngáp dài”.

Vậy mới nói, muốn họp phải có cái “bàn”. Bàn ở đây là tập thể “mổ xẻ”, tranh luận, tương tác, trao đổi, thay vì độc thoại; các đại biểu cùng nhau đánh giá, nhìn nhận vấn đề; cùng chiêm nghiệm những mô hình hay, cách làm tốt để đem về cho ngành mình, địa phương mình, lĩnh vực mình học tập. Bàn ở đây không phải là cùng nghe hàng loạt báo cáo thành tích đơn lẻ giống  hệt nhau với những con số khô khan, hay những cụm từ hoa mỹ mà là cùng bàn bạc, cùng thảo luận, cùng “đàm” theo đúng nghĩa của nó.

Chọn nội dung cốt lõi, chọn góc độ tiếp cận, chọn vấn đề trọng tâm để gợi mở cho người dự họp được… bàn. Mà phải bàn thật, bàn sâu, bàn cho ra “chất”, để sau mỗi cuộc họp, mỗi hội nghị, tọa đàm, hội thảo, ai ra về cũng cảm thấy phấn khởi vì đã “thu lượm” được gì đó, chứ không chỉ là việc có tên trong cuốn kỷ yếu dày cồm cộp được cất ngăn tủ.

Có được “bàn” như thế, các cuộc họp mới bớt đi việc nghẽn mạng wifi khi hàng loạt điện thoại thông minh hoạt động hết công suất; bớt đi việc từng tốp, từng tốp đứng hành lang nhỏ to, nói chuyện cho hết giờ; giảm đi cả những cái đầu “gật gù” “díp mắt” liên tục trong hội trường điều hòa mát lạnh.

Hẳn nhiên, việc giảm những cuộc họp không có cái bàn cũng sẽ là một cách tiết kiệm kinh phí không nhỏ cho ngân sách chung.

Nhắc vậy, để nhớ: Muốn họp, phải có và nên có ...cái bàn!./.

SONG MINH/TG

Một số điểm mới nổi bật trong Nghị định số 67/2021/NĐ-CP của Chính phủ

2.4. Lái tàu thuyền có nồng độ cồn bị phạt tới 35 triệu đồng

(LSVN) - Thuyền viên, người lái phương tiện đang trong ca trực mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn bị phạt tới 35 triệu đồng.

Ảnh minh họa.

Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 139/2021/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường thủy nội địa. Trong đó, Nghị định quy định thuyền viên, người lái phương tiện đang trong ca trực mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn bị phạt tới 35 triệu đồng.

Bên cạnh đó, Nghị định quy định rõ mức phạt đối với các vi phạm về trách nhiệm của chủ phương tiện, người thuê phương tiện. Theo đó, chủ phương tiện nhận, sử dụng phương tiện không đảm bảo điều kiện hoạt động hoặc không đủ định biên theo quy định; nhận, sử dụng thuyền viên làm việc trên phương tiện không có giấy chứng nhận khả năng chuyên môn, chứng chỉ chuyên môn theo quy định bị phạt từ 5-10 triệu đồng.

Mức phạt từ 20-35 triệu đồng áp dụng đối với hành vi vi phạm: Cho thuê phương tiện không đủ điều kiện hoạt động theo quy định; cho người khác thuê lại phương tiện, thuyền viên trên phương tiện thuê (trừ trường hợp được chủ phương tiện đồng ý bằng văn bản); sử dụng phương tiện thuê làm tài sản thế chấp.

Nghị định số 139/2021/NĐ-CP cũng áp dụng mức phạt tiền từ 1-2 triệu đồng đối với hành vi: Không có biển hiệu theo quy định, áp dụng đối với phương tiện chở khách du lịch; không có Giấy chứng nhận đăng ký phương tiện theo quy định; sử dụng giấy chứng nhận đăng ký phương tiện bị tẩy, xóa, sửa chữa hoặc không do cơ quan có thẩm quyền cấp theo định; không đăng ký lại phương tiện theo quy định hoặc không khai báo để xóa tên phương tiện hoặc khai báo không đúng sự thật để đăng ký phương tiện theo quy định.

Phạt tiền tới 1 triệu đồng đối với hành vi không trang bị hoặc trang bị không đủ áo phao hoặc dụng cụ nổi cứu sinh cá nhân theo quy định, mức phạt tính trên mỗi áo phao, dụng cụ nổi cứu sinh cá nhân.

Đối với hành vi: Không có phương án bảo đảm an toàn, vệ sinh lao động theo quy định; không có đủ điều kiện an toàn về phòng cháy, chữa cháy hoặc không có phương án chữa cháy theo quy định bị phạt từ 5-7 triệu đồng.

DUY ANH

Phạt đến 20 triệu đồng đối với quảng cáo mỹ phẩm có nội dung không phù hợp

2.5. Cấp chứng chỉ đo đạc, bản đồ qua dịch vụ công trực tuyến

(LSVN) - Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 136/2021/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 27/2019/NĐ-CP ngày 13/3/2019 quy định chi tiết một số điều của Luật Đo đạc và bản đồ. Trong đó, Nghị định bổ sung quy định đăng ký cấp chứng chỉ hành nghề đo đạc và bản đồ qua hệ thống dịch vụ công trực tuyến.

Ảnh minh họa.

Theo quy định, đăng ký cấp chứng chỉ hành nghề đo đạc và bản đồ qua hệ thống dịch vụ công trực tuyến là việc cá nhân thực hiện việc đăng ký cấp chứng chỉ hành nghề đo đạc và bản đồ thông qua cổng thông tin điện tử của cơ quan có thẩm quyền cấp chứng chỉ. Cá nhân sử dụng tài khoản đăng ký cấp chứng chỉ hành nghề đo đạc và bản đồ để đăng ký cấp chứng chỉ hành nghề qua hệ thống dịch vụ công trực tuyến.

Tài khoản đăng ký cấp chứng chỉ hành nghề đo đạc và bản đồ được tạo bởi hệ thống thông tin của cơ quan có thẩm quyền cấp chứng chỉ hành nghề đo đạc và bản đồ cấp cho cá nhân để thực hiện đăng ký cấp chứng chỉ hành nghề đo đạc và bản đồ qua hệ thống dịch vụ công trực tuyến, hoặc định danh điện tử khi kết nối, tích hợp với Nền tảng trao đổi định danh điện tử trên Cổng Dịch vụ công quốc gia.

Cá nhân nộp hồ sơ đề nghị cấp chứng chỉ hành nghề đo đạc và bản đồ qua hệ thống dịch vụ công trực tuyến. Hồ sơ đề nghị chứng chỉ hành nghề đo đạc và bản đồ được xác thực bằng tài khoản đăng ký cấp chứng chỉ hành nghề đo đạc và bản đồ. Việc xác thực các văn bản điện tử trong hồ sơ có thể sử dụng chữ ký số để ký trực tiếp trên văn bản điện tử hoặc ký trực tiếp trên văn bản giấy và quét văn bản giấy.

Cơ quan có thẩm quyền cấp chứng chỉ hành nghề đo đạc và bản đồ cho cá nhân thể hiện dưới dạng văn bản điện tử trong trường hợp hồ sơ đủ điều kiện. Tổ chức, cá nhân khi sử dụng chứng chỉ hành nghề đo đạc và bản đồ thể hiện dưới dạng văn bản điện tử thông qua hệ thống dịch vụ công trực tuyến bằng tài khoản đăng ký cấp chứng chỉ hành nghề đo đạc và bản đồ. Việc yêu cầu sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hồ sơ để cấp chứng chỉ hành nghề đo đạc và bản đồ thông qua hệ thống dịch vụ công trực tuyến.

Một tài khoản đăng ký cấp chứng chỉ hành nghề đo đạc và bản đồ chỉ được cấp cho một cá nhân. Cá nhân được cấp tài khoản chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính chính xác, hợp pháp của các thông tin đăng ký để được cấp tài khoản đăng ký cấp chứng chỉ hành nghề đo đạc và bản đồ và việc sử dụng tài khoản cấp chứng chỉ hành nghề đo đạc và bản đồ.

Việc bảo vệ thông tin cá nhân thực hiện theo quy định của Luật An toàn thông tin mạng và quy định khác của pháp luật có liên quan.

Ngoài ra, Nghị định số 27/2019/NĐ-CP cũng sửa đổi, bổ sung Điều 31 về điều kiện cấp giấy phép hoạt động đo đạc và bản đồ.

Theo quy định mới, tổ chức được cấp giấy phép hoạt động đo đạc và bản đồ khi có đủ các điều kiện quy định tại Điều 52 của Luật Đo đạc và bản đồ, có số lượng nhân viên kỹ thuật được đào tạo về đo đạc bản đồ quy định tại Phục lục IB ban hành kèm theo Nghị định số 136/2021/NĐ-CP, trong đó có ít nhất 1 nhân viên kỹ thuật có thời gian hoạt động thực tế tối thiểu 5 năm phù hợp với nội dụng đề nghị cấp phép.

TIẾN HƯNG

Điều chỉnh Hướng dẫn tạm thời thí điểm đón khách quốc tế đến Việt Nam

2.6. Tăng 10 lần mức phạt khi xúc phạm danh dự, nhân phẩm người khác từ 01/01/2022

(LSVN) – Từ ngày 01/01/2022 mức phạt đối với hành vi xúc phạm, lăng mạn, bôi nhọ danh dự, nhân phẩm của người khác đã chính thức tăng gấp 10 lần mức phạt cũ.

Ảnh minh họa.

Cụ thể, tại Nghị định 144/2021/NĐ-CP ngày 31/12/2021 của Chính phủ quy định về về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy, chữa cháy; cứu nạn, cứu hộ; phòng, chống bạo lực gia đình.

Theo đó, người có hành vi khiêu khích, trêu ghẹo, xúc phạm, lăng mạ, bôi nhọ danh dự, nhân phẩm của người khác có thể bị phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng.

Trước đây, theo Nghị định 167/2013/NĐ-CP, người thực hiện một trong các hành vi trên chỉ bị phạt tiền từ 100.000 đồng đến 300.000 đồng.

Nghị định 144/2021/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 01/01/2022. Nghị định này thay thế Nghị định số 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình.

Như vậy, từ 01/01/2022 mức phạt đối với hành vi xúc phạm, lăng mạn, bôi nhọ danh dự, nhân phẩm của người khác đã chính thức tăng gấp 10 lần mức phạt cũ.

Ngoài ra, Nghị định Nghị định 144/2021/NĐ-CP cũng tăng mạnh mức phạt đối với một số hành vi vi phạm như phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng đối với một trong các hành vi: Sử dụng rượu, bia, các chất kích thích gây mất trật tự công cộng; Tổ chức, tham gia tụ tập nhiều người ở nơi công cộng gây mất trật tự công cộng,... Trước đây quy định chỉ phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng.

Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 8.000.000 đồng nếu sàm sỡ, quấy rối tình dục, trước đây phạt tiền từ 100.000 đồng đến 300.000 đồng,...

Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng đồng nếu gây tiếng động lớn, làm ồn ào tại khu dân cư, nơi công cộng từ 22 giờ ngày hôm trước đến 06 giờ sáng ngày hôm sau. Trước đây là phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 100.000 đồng đến 300.000 đồng đối với cá nhân, phạt tiền từ 200.000 đồng đến 600.000 đồng với tổ chức...

MAI HUỆ

Trường hợp nào người vi phạm được bảo quản phương tiện giao thông vi phạm?

1.4. Sửa quy định về kiểm toán độc lập đối với tổ chức tín dụng

(LSVN) - Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Thông tư số 24/2021/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2011/TT-NHNN ngày 15/12/2011 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quy định về kiểm toán độc lập đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.

Thông tư 24/2021/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung Điều 1 về phạm vi điều chỉnh như sau: Thông tư này quy định về kiểm toán độc lập đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.

Việc kiểm toán độc lập tổ chức tín dụng được kiểm soát đặc biệt theo quy định tại Điều 147 và Điều 151a Luật Các tổ chức tín dụng (đã được sửa đổi, bổ sung) và việc kiểm toán độc lập tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài để phục vụ yêu cầu thanh tra, giám sát ngân hàng theo quy định của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của thanh tra, giám sát ngành ngân hàng thực hiện theo quy định của pháp luật có liên quan và phải tuân thủ các Điều 11, 12, 13, 14 Thông tư này.

Thông tư 24/2021/TT-NHNN cũng sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 8 về nội dung kiểm toán độc lập như sau: Kiểm toán độc lập hoạt động của hệ thống kiểm soát nội bộ của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tối thiểu các nội dung sau đây:

- Kiểm toán hệ thống kiểm soát nội bộ của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài (trong đó bao gồm các cơ chế, chính sách, quy trình, quy định nội bộ) tuân thủ quy định của pháp luật hiện hành, quy định của Ngân hàng Nhà nước về hệ thống kiểm soát nội bộ của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.

Đối với những nội dung của hệ thống kiểm soát nội bộ đã được kiểm toán tuân thủ mà không có sự thay đổi thì không phải kiểm toán lại nội dung đó;

- Kiểm toán hoạt động hệ thống kiểm soát nội bộ đối với việc lập và trình bày báo cáo tài chính;

- Ngoài nội dung kiểm toán quy định tại điểm a và điểm b khoản này, ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải thực hiện kiểm toán hoạt động hệ thống kiểm soát nội bộ đối với nội dung đánh giá nội bộ về mức đủ vốn của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài theo quy định của Ngân hàng Nhà nước về hệ thống kiểm soát nội bộ.

Kiểm toán hoạt động đối với hệ thống kiểm soát nội bộ của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài quy định tại điểm b và điểm c khoản 2 Điều này nhằm bảo đảm các yêu cầu sau đây:

- Hiệu quả và an toàn trong hoạt động; bảo vệ, quản lý, sử dụng an toàn, hiệu quả tài sản và các nguồn lực;

- Hệ thống thông tin tài chính và thông tin quản lý trung thực, hợp lý, đầy đủ và kịp thời.

Ngoài ra, Thông tư 24/2021/TT-NHNN cũng sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 10 về kết quả kiểm toán độc lập. Cụ thể, báo cáo kiểm toán đối với báo cáo tài chính của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải tuân thủ các quy định của pháp luật về kiểm toán độc lập, chuẩn mực kế toán, chuẩn mực kiểm toán Việt Nam và các quy định khác của pháp luật có liên quan.

Báo cáo kiểm toán đối với hoạt động của hệ thống kiểm soát nội bộ của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tối thiểu phải đánh giá được tình hình tuân thủ quy định của pháp luật hiện hành và hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước trong việc xây dựng, tổ chức thực hiện hệ thống kiểm soát nội bộ và đánh giá được tính kinh tế, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống này trong việc phòng ngừa, phát hiện, xử lý kịp thời các rủi ro và các mục tiêu khác của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với nội dung quy định tại điểm b, điểm c khoản 2 Điều 8 Thông tư này.

VĂN QUANG

Kiểm toán Nhà nước kiến nghị giảm tổng vốn đầu tư các dự án hơn 16.300 tỉ đồng

Admin