/ Chưa được phân loại
/ TRỰC CHỦ NHẬT

TRỰC CHỦ NHẬT

25/02/2022 03:41 |

(LSVN) -

SÁNG

1. Các trường hợp người có tài sản đấu giá từ chối đánh giá hồ sơ đăng ký tham gia 

(LSVN) - Bộ Tư pháp vừa ban hành Thông tư 02/2022/TT-BTP ngày 08/02/2022 về việc hướng dẫn lựa chọn tổ chức đấu giá tài sản. Trong đó, quy định rõ về các trường hợp người có tài sản đấu giá từ chối đánh giá hồ sơ đăng ký tham gia lựa chọn của tổ chức đấu giá tài sản.

Cụ thể, căn cứ nguyên tắc đấu giá tài sản quy định tại khoản 2 Điều 6 Luật Đấu giá tài sản; nguyên tắc lựa chọn tổ chức đấu giá tài sản quy định tại khoản 2 Điều 2 Thông tư này, người có tài sản đấu giá từ chối đánh giá hồ sơ đăng ký tham gia lựa chọn của tổ chức đấu giá tài sản trong các trường hợp sau đây:

- Người sở hữu tài sản, người được chủ sở hữu tài sản ủy quyền bán đấu giá tài sản, người có quyền đưa tài sản ra bán đấu giá theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật, người ký hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản là vợ, chồng, bố đẻ, mẹ đẻ, bố nuôi, mẹ nuôi, bố chồng, mẹ chồng, bố vợ, mẹ vợ, con đẻ, con nuôi, con rể, con dâu, anh ruột, chị ruột, em ruột, anh rể, em rể, chị dâu, em dâu của người đứng đầu Trung tâm dịch vụ đấu giá tài sản, người đại diện theo pháp luật, Chủ tịch Hội đồng thành viên, thành viên Hội đồng thành viên, thành viên hợp danh của doanh nghiệp đấu giá tài sản.

- Người sở hữu tài sản, người được chủ sở hữu tài sản ủy quyền bán đấu giá tài sản, người có quyền đưa tài sản ra bán đấu giá theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật, người ký hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản là cá nhân, tổ chức có khả năng chi phối hoạt động của tổ chức đấu giá tài sản đó thông qua sở hữu, thâu tóm phần vốn góp hoặc thông qua việc ra quyết định của tổ chức đấu giá tài sản đó.

- Trường hợp khác theo quy định của pháp luật.

Thông tư này hướng dẫn lựa chọn tổ chức đấu giá tài sản theo quy định tại Điều 56 Luật Đấu giá tài sản. Thông tư áp dụng đối với người có tài sản đấu giá, tổ chức đấu giá tài sản và các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có liên quan đến việc đấu giá tài sản quy định tại khoản 1 Điều 4 Luật Đấu giá tài sản.

Thông tư không áp dụng đối với trường hợp lựa chọn tổ chức đấu giá tài sản thông qua đấu thầu theo quy định của pháp luật. Trường hợp lựa chọn tổ chức đấu giá tài sản thông qua đấu thầu thì thực hiện theo quy định tại Điều 56 Luật Đấu giá tài sản và pháp luật về đấu thầu.

Thông tư này có hiệu lực từ ngày 25/3/2022.

DUY ANH

Quy định về hủy kết quả lựa chọn tổ chức đấu giá tài sản

2. Bị phạt nguội ở tỉnh khác có thể nộp phạt tại nơi cư trú

(LSVN) - Đây là một trong những nội dung mới đáng chú ý tại Nghị định 135/2021/NĐ-CP ngày 31/12/2021 do Chính phủ ban hành về quy trình thu thập, sử dụng dữ liệu thu được từ phương tiện, thiết bị kỹ thuật do cá nhân, tổ chức cung cấp để phát hiện vi phạm hành chính.

Cụ thể, tại Điều 15 Nghị định 135/2021/NĐ-CP quy định rõ về xử lý kết quả thu thập được bằng phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ.

Theo đó, khi có kết quả thu thập được bằng phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ, người có thẩm quyền thụ lý giải quyết vụ việc xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật xử lý vi phạm hành chính và thực hiện theo các bước sau:

- Xác định thông tin về tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính;

- Gửi thông báo bằng văn bản yêu cầu tổ chức, cá nhân vi phạm đến trụ sở cơ quan, đơn vị của người có thẩm quyền để giải quyết vụ việc, trừ trường hợp người có thẩm quyền đã xác định được tổ chức, cá nhân vi phạm tại địa điểm, tuyến, địa bàn xảy ra hành vi vi phạm và lập biên bản vi phạm hành chính;

- Lập biên bản vi phạm hành chính trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày xác định được tổ chức, cá nhân vi phạm;

- Ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính và tổ chức thi hành quyết định xử phạt theo quy định của pháp luật.

Trường hợp tổ chức, cá nhân vi phạm trật tự, an toàn giao thông ở địa bàn cấp tỉnh này nhưng đóng trụ sở, cư trú ở địa bàn cấp tỉnh khác và tổ chức, cá nhân vi phạm không có điều kiện trực tiếp đến trụ sở cơ quan, đơn vị đã phát hiện vi phạm hành chính bằng phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ để giải quyết vụ việc vi phạm hoặc vi phạm trật tự, an toàn giao thông ở địa bàn cấp huyện này nhưng đóng trụ sở, cư trú ở địa bàn cấp huyện khác mà việc đi lại gặp khó khăn và tổ chức, cá nhân vi phạm không có điều kiện trực tiếp đến trụ sở cơ quan, đơn vị đã phát hiện vi phạm hành chính bằng phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ để giải quyết vụ việc vi phạm, thì người có thẩm quyền đang thụ lý giải quyết vụ việc chuyển kết quả thu thập được bằng phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ đến người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính thuộc cơ quan, đơn vị cấp dưới hoặc cùng cấp, nơi tổ chức, cá nhân đóng trụ sở, cư trú để tiếp tục thực hiện các bước xử lý theo quy định.

Trước đây, khi phát hiện bị phạt nguội dù cách xa nơi sinh sống hàng trăm km, người dân vẫn phải quay trở lại nơi vi phạm để lấy biên bản xử phạt vi phạm hành chính.

Văn bản thông báo có thể được gửi bằng phương thức điện tử đến tổ chức, cá nhân vi phạm trong trường hợp cơ quan, đơn vị của người có thẩm quyền xử phạt, cá nhân, tổ chức vi phạm đáp ứng điều kiện về cơ sở hạ tầng, kỹ thuật, thông tin, yêu cầu về giao dịch điện tử trong lĩnh vực quản lý nhà nước.

Nghị định có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2022.

HỒNG HẠNH

Nguyên tắc bố trí cho thuê nhà ở công vụ theo quy định mới nhất

3. Chế độ, chính sách đối với công nhân và viên chức quốc phòng thôi việc

(LSVN) - Tôi đang làm việc cho nhà máy Z và đang có dự định thôi việc từ tháng 6/2022. Vậy pháp luật hiện hành quy định việc thực hiện chế độ, chính sách đối với công nhân và viên chức quốc phòng thôi việc như thế nào?

Vừa qua, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính ký ban hành Nghị định số 19/2022/NĐ-CP quy định biện pháp thi hành chế độ, chính sách đối với quân nhân chuyên nghiệp, công nhân và viên chức quốc phòng chuyển ngành, công nhân và viên chức quốc phòng thôi việc theo quy định của Luật Quân nhân chuyên nghiệp, công nhân và viên chức quốc phòng.

Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15/4/2022. Trong đó, Nghị định quy định rõ về chế độ, chính sách đối với công nhân và viên chức quốc phòng thôi việc.

Cụ thể, chế độ, chính sách đối với công nhân và viên chức quốc phòng thôi việc được thực hiện như sau:

Thứ nhất, được hưởng chế độ bảo hiểm xã hội và các chế độ khác (nếu có) theo quy định của pháp luật hiện hành.

Thứ hai, được hưởng trợ cấp một lần, cứ mỗi năm công tác được trợ cấp bằng 01 tháng tiền lương của tháng liền kề trước khi thôi việc do cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp thuộc Bộ Quốc phòng quản lý công nhân và viên chức quốc phòng trước khi thôi việc chi trả.

Thứ ba, thực hiện chế độ, chính sách đối với công nhân và viên chức quốc phòng đã thôi việc về địa phương trong thời gian không quá 01 năm (12 tháng) kể từ ngày quyết định thôi việc có hiệu lực như sau:

- Nếu được tuyển dụng vào làm việc tại các cơ quan, tổ chức hưởng lương từ ngân sách nhà nước thì được thực hiện chế độ chuyển ngành theo quy định tại khoản 1 Điều 2 Nghị định này, đồng thời phải hoàn trả khoản trợ cấp một lần quy định tại khoản 2 Điều này và trợ cấp bảo hiểm xã hội một lần (đã nhận) theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội.

Thủ trưởng cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp nơi công nhân và viên chức quốc phòng công tác trước khi thôi việc chỉ đạo thu hồi quyết định thôi việc và các khoản trợ cấp nêu trên; ra quyết định hoặc báo cáo cấp có thẩm quyền ra quyết định chuyển ngành; nộp các khoản trợ cấp đã thu vào ngân sách nhà nước và tài khoản chuyên thu của Bảo hiểm xã hội Bộ Quốc phòng; hoàn thiện hồ sơ đề nghị Bảo hiểm xã hội Bộ Quốc phòng xác nhận, thực hiện bảo lưu thời gian đóng bảo hiểm xã hội trước đó theo quy định.

- Nếu được tuyển dụng vào làm việc tại các doanh nghiệp, đơn vị không hưởng lương từ ngân sách nhà nước mà có nguyện vọng được bảo lưu thời gian đóng bảo hiểm xã hội thì phải hoàn trả khoản trợ cấp bảo hiểm xã hội một lần (đã nhận) theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội.

Thủ trưởng cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp nơi công nhân và viên chức quốc phòng công tác trước khi thôi việc chỉ đạo thu hồi khoản trợ cấp bảo hiểm xã hội một lần nộp vào tài khoản chuyên thu của Bảo hiểm xã hội Bộ Quốc phòng; hoàn thiện hồ sơ đề nghị Bảo hiểm xã hội Bộ Quốc phòng xác nhận, thực hiện bảo lưu thời gian đóng bảo hiểm xã hội trước đó theo quy định. Khi đủ điều kiện hưởng lương hưu, không được áp dụng cách tính mức bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội làm căn cứ để tính lương hưu theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 2 Nghị định này.

- Trường hợp cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp nơi công nhân và viên chức quốc phòng công tác trước khi thôi việc đã sáp nhập hoặc giải thể thì thực hiện theo quy định tại điểm c khoản 4 Điều 2 Nghị định này.

- Thời gian công nhân và viên chức quốc phòng thôi việc về địa phương không được tính là thời gian công tác tham gia bảo hiểm xã hội.

TIẾN HƯNG

Chế độ đối với Quân nhân chuyên nghiệp chuyển ngành, thôi việc

3.Nhà nước pháp quyền Cộng hòa liên bang Đức

(LSVN) - Nhà nước pháp quyền (NNPQ) là hình mẫu lý tưởng mà nhiều nước trên thế giới hướng tới, bởi đó là kết quả phát triển của nền văn minh nhân loại khi pháp luật được tôn vinh và thực thi hiệu quả…

Cách đây gần hai thế kỷ, khái niệm NNPQ đã ra đời ở Đức. Nhà tư tưởng, nhà triết học nổi tiếng người Đức thời kỳ Phục hưng Immanuel Kant (1724-1804), đã góp phần to lớn trong việc hoàn thiện và phát triển khái niệm này. Theo đó, chỉ có thông qua phân chia quyền lực thì các quyền của công dân mới được thực thi; trường hợp cơ quan nhà nước, cơ quan công quyền vi phạm quyền tự do của người dân thì phải đối mặt với chế tài (trừng phạt)…

Cơ chế bảo hiến đáng tin cậy của CHLB Đức - một trong những yếu tố quan trọng của NNPQ được Luật Cơ bản (LCB) 1949 quy định, đặc biệt với sự kiểm tra, giám sát, phán quyết của Tòa án Hiến pháp liên bang và tòa án hiến pháp 16 bang được duy trì và phát triển vững chắc.

Cấu trúc mô hình của Nhà nước pháp quyền CHLB Đức

Có thể nói, cấu trúc NNPQ của Đức được thể hiện trên một bức tranh “bảy sắc cầu vòng” phong phú, đa dạng của hệ thống chính trị được mệnh danh là “nhà nước của các đảng phái” với nhiều ý nghĩa từ cấp liên bang đến các bang trên cơ sở quy định trong 102 điều, từ Điều 20 đến Điều 104 LCB 1949.

Tầm quan trọng được ưu tiên hàng đầu về tổ chức nhà nước là 7 cơ quan hiến pháp (Quốc hội liên bang; Hội đồng liên bang; Ủy ban hỗn hợp; Hội nghị liên bang; Tổng thống liên bang; Chính phủ liên bang; Tòa án Hiến pháp liên bang) được thành lập có ý nghĩa to lớn, thiết yếu, cơ bản, với những đặc điểm sau:

Cộng hòa liên bang Đức là nhà nước dân chủ

Điểm qua về nền dân chủ, tự do trong lịch sử nước Đức: Nhà nước cộng hòa Weimar (1918-1933) đánh dấu sự nổi tiếng với nền dân chủ nghị viện (mặc dù do hạn chế về mặt lịch sử nên không hoàn toàn thành công), Hiến pháp Weimar 1919 và “Tòa án nhà nước” để giải quyết các “tranh chấp hiến pháp” của Vương quốc Đức. Trong Nghị viện cộng hòa thời đó đã có tới 6 đảng phái chính trị khác nhau. Những truyền thống quý báu được kế thừa và phát triển kể cả khi thành lập nước CHLB Đức vào năm 1949, vốn được khẳng định tại khoản 1 Điều 20 LCB cho đến ngày nay.

Nền dân chủ được thể hiện trong hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất là trong hệ thống và phương thức bầu cử, trong các cơ quan nhà nước, cơ quan công quyền và các tổ chức, hiệp hội, cơ quan khác, trường học…

Có thể lấy một trong nhiều ví dụ để minh họa: theo quy định của pháp luật về thi hành án của CHLB Đức thì tù nhân cũng có chế độ nghỉ phép hàng năm và có tài khoản để tích lũy khoản tiền trong thời gian lao động, cải tạo để khi ra tù tái hòa nhập tốt vào đời sống xã hội.

Cộng hòa liên bang Đức là nhà nước liên bang

Nhà nước liên bang được quy định tại khoản 1 Điều 20 LCB.

Từ năm 1949 đến 03/10/1990, CHLB Đức gồm 11 bang. Sau sự kiện lịch sử đáng nhớ - ngày 03/10/1990 nước Đức tái thống nhất một cách nhanh chóng trong hòa bình, dẫn tới lãnh thổ CHDC Đức trước đó nay hình thành 5 bang mới. Mỗi bang trở thành “một nhà nước địa phương” với cơ cấu, tổ chức gần như cấp liên bang, tuy mức độ, quy mô và thẩm quyền giới hạn: Quốc hội bang, chính phủ bang gồm nhiều bộ, hệ thống pháp luật trong các lĩnh vực về trật tự an toàn xã hội, giáo dục phổ thông, đại học, hành chính, tòa án hiến pháp bang…

Để bảo đảm ý nghĩa về mặt xã hội, sự công bằng, bình đẳng trên nguyên tắc “phân chia và kiểm soát tốt quyền lực” giữa cơ quan nhà nước cấp trung ương cũng như địa phương, các bang đều có đại diện tại Hội đồng liên bang, Ủy ban hỗn hợp, Tòa án tối cao liên bang…

Cộng hòa liên bang Đức là nhà nước xã hội

Khoản 1 Điều 20 LCB cũng khẳng định CHLB Đức là nhà nước xã hội, vì lẽ đó nhân phẩm con người được đặt lên hàng đầu và quy định tại khoản 1 Điều 1, tiếp theo là các quy định về quyền cơ bản của công dân.

Chúng ta nghe nói nhiều về thuật ngữ “quyền lực nhà nước”, thế nhưng trong NNPQ thì “tất cả quyền lực thuộc về nhân dân” (khoản 2 Điều 20 LCB) hay còn gọi là “nhà nước dân sự”, vì vậy nhân dân phải là “đối tượng điều chỉnh đầu tiên của pháp luật” (từ Điều 1 đến Điều 19 LCB) mà “hiến pháp của hiến pháp” lần lượt thể hiện: bảo vệ nhân phẩm, tự do cá nhân, tự do ngôn luận, bảo vệ hôn nhân và gia đình, bảo vệ quyền sở hữu…

Cộng hòa liên ban Đức bảo đảm an sinh, phúc lợi xã hội tốt nổi tiếng thế giới, trong đó nguyên tắc công bằng xã hội là tâm điểm, mục đích của NNPQ, không bị thay đổi và có hiệu lực vô thời hạn. Nhiệm vụ, trách nhiệm của nhà nước thật lớn lao trong nhiều lĩnh vực, trong đó không thể không kể đến việc bảo vệ bà mẹ và trẻ em (khoản 4 Điều 6 LCB); bình đẳng nam nữ trong việc làm và tiền lương; chế độ bảo hiểm xã hội, chăm sóc y tế ưu việt, tôn trọng, giúp đỡ người tàn tật, trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp xã hội, trợ cấp tiền nhà ở; các lĩnh vực bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và bảo vệ môi trường, thực hiện tốt mục tiêu cải thiện, nâng cao điều kiện sống của người dân.

Quốc hội liên bang

Quốc hội CHLB Đức khóa XX (2021-2025) vừa được kiện toàn sau cuộc bầu cử ngày 26/9/2021 có 736 nghị sĩ (số lượng lớn nhất từ trước đến nay, đứng thứ hai thế giới) do Đảng Xã hội dân chủ đứng đầu, liên minh với Đảng Xanh và Đảng Dân chủ tự do để có đa số tuyệt đối nhằm thành lập Chính phủ liên bang.

Vốn duy trì và phát triển truyền thống đa nguyên, cởi mở, Quốc hội liên bang hiện tại có 8 đảng phái chính trị: Đảng Liên minh dân chủ thiên chúa giáo (CDU) 152 ghế, Đảng Xã hội dân chủ (SPD) 206 ghế; Đảng Con đường khác cho nước Đức (AfD) 83 ghế; Đảng Dân chủ tự do (FDP) 92 ghế; Đảng Cánh tả (Die Linke) 39 ghế; Đảng Xanh (Gruenen) 118 ghế; Đảng Liên minh xã hội thiên chúa giáo Đức (CSU) 45 ghế và Đảng Dân tộc ít người gốc Đan Mạch (SSW) 1 ghế.

Cơ sở của bức tranh đa màu sắc trên đây là truyền thống dân chủ như đã nêu trên và quy định tại khoản 1 Điều 22 LCB khi Hiến pháp liên bang khẳng định việc thành lập một đảng phái chính trị là quyền tự do của mỗi người; tuy nhiên, điều lệ, nội dung hoạt động phải phù hợp với nguyên tắc dân chủ, phải công khai tài chính  tài sản của đảng; ngược lại, nếu vi hiến, đảng phái chính trị đó sẽ bị Tòa án Hiến pháp liên bang tuyên bố cấm hoạt động vĩnh viễn.

Ở CHLB Đức, nguyên tắc cơ cấu, tổ chức các cơ quan nhà nước, cơ quan công quyền ở trung ương và địa phương luôn gắn với phương châm quyền lực không được tập trung vào một cá nhân, cơ quan, tổ chức “quá mức cho phép”. Đây là kết quả của bài học quý báu được đúc kết sau khi nước Đức trải qua hai cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất và thứ hai. Ví dụ: Chủ tịch Quốc hội liên bang thuộc Đảng Xã hội dân chủ, nhưng 1 trong 2 người đại diện thuộc Đảng Liên minh dân chủ thiên chúa giáo; 3 phó chủ tịch quốc hội thuộc 3 đảng phái chính trị khác nhau: Đảng Xanh, Đảng Cánh tả và Đảng Dân chủ tự do.

Một tiêu chí đặt ra trong khi thực hiện nhiệm vụ lập pháp là Quốc hội liên bang phải luôn gắn nội dung các văn bản quy phạm pháp luật được ban hành vào trật tự pháp luật thống nhất, phù hợp vời hiến pháp; kỹ thuật lập pháp phải bảo đảm tính khúc chiết, nội dung phải minh bạch, rõ ràng; các quy định phải “nhìn xa, trông rộng”, thực tế, dễ áp dụng, tránh sửa đổi, bổ sung nhiều.

Trong quá trình hoạt động, Quốc hội liên bang thực hiện “chức năng kép” không kém phần quan trọng là kiểm tra, giám sát hoạt động của Chính phủ liên bang, kể cả việc sử dụng Ủy ban điều tra của Quốc hội (Điều 44 LCB) - một công cụ hữu hiệu trong trường hợp thành viên Chính phủ liên bang vi phạm pháp luật. Tương ứng, quốc hội 16 bang trên toàn nước Đức kiểm soát quyền lực chính phủ của các bang.

Để giúp Quốc hội thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, năm 2021 Quốc hội liên bang Đức biên chế đến 4.500 cán bộ đảm nhận công việc thư ký, kỹ thuật, phục vụ cùng với 1.700 cộng tác viên khoa học; như vậy, số lượng này gần gấp 10 lần số nghị sĩ quốc hội!

Tại CHLB Đức, vốn từ lâu đã thành thông lệ: đảng đối lập trong Quốc hội liên bang thực hiện công bố kết quả kiểm tra, giám sát Chính phủ liên bang trước công luận. Phương thức này thể hiện tính chất dân chủ, công khai và minh bạch.

Hội đồng liên bang

Hội đồng liên bang có 69 thành viên, là “quốc hội của chính phủ các bang” đại diện cho vhính phủ 16 bang trên toàn nước Đức; có quyền tham gia vào quy trình lập pháp liên bang và các công việc của Liên minh châu Âu. Số lượng thành viên mỗi bang tỷ lệ thuận với dân số của bang, dựa trên nguyên tắc “phân chia và kiểm soát tốt quyền lực” để tất cả các bang đều có đại diện.

Ủy ban hỗn hợp

Ủy ban hỗn hợp giữa Quốc hội liên bang và Hội đồng liên bang gồm 48 thành viên (tỷ lệ 2/3 và 1/3) theo quy định tại Điều 53 LCB. Ủy ban hỗn hợp có vai trò và ý nghĩa to lớn, đặc biệt trong trường hợp khẩn cấp cả nước có chiến tranh và Quốc hội liên bang không thể nhóm họp kịp thời. Việc thành lập và thủ tục của Ủy ban hỗn hợp được quy định trong Quy chế làm việc do Quốc hội liên bang ban hành, tuy nhiên cần được sự đồng thuận của Hội đồng liên bang.

Chính phủ liên bang

Ngày 08/12/2021, Chính phủ CHLB Đức gồm Thủ tướng Chính phủ và 16 bộ được thành lập, trong đó có 7 nữ bộ trưởng, được cơ cấu từ liên minh 3 đảng phái chính trị: Đảng Dân chủ xã hội (trong đó có Thủ tướng Chính phủ), Đảng Xanh (trong đó có Phó Thủ tướng) và Đảng Dân chủ tự do. Qua đó cho thấy năng lực, vai trò của phụ nữ trong chính phủ mới tiếp tục được kế thừa và phát huy, sự bình đẳng giới được thể hiện rõ nét. Thủ tướng Chính phủ là người thuộc Đảng Xã hội dân chủ, nhưng Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao lại là thành viên thuộc Đảng Xanh…

Một số nguyên tắc cơ bản của Nhà nước pháp quyền CHLB Đức

Ở CHLB Đức, các nguyên tắc cơ bản được quy định trong LCB là “bất di bất dịch”, có hiệu lực vĩnh viễn, không bị thay đổi, cho dù có sửa đổi Hiến pháp hoặc các đạo luật có liên quan.

Nguyên tắc phân chia quyền lực

Với CHLB Đức, phân chia quyền lực theo nghĩa rộng ở nhà nước liên bang và nghĩa hẹp ở nhà nước các bang là nguyên tắc được đề cao. Vấn đề là ở chỗ, phân chia như thế nào để phù hợp, sử dụng và kiểm soát tốt quyền lực, tránh vượt quyền, lạm quyền, tham nhũng, nửa vời, qua đó tập trung sức mạnh quyền lực nhà nước để xây dựng, phát triển đất nước, xã hội văn minh, giàu đẹp.

Nhà nước pháp quyền phải là thiết chế được phân chia quyền lực theo quy định tại khoản 2 Điều 20 LCB: lập pháp, hành pháp, tư pháp; trong đó gắn lập pháp vào trật tự pháp luật phù hợp với Hiến pháp, gắn hành pháp và tư pháp vào các đạo luật và các quy định pháp luật khác (khoản 3 Điều 20 LCB).

Ngoài ra, CHLB Đức là Nhà nước liên bang nên sự phân chia quyền lực cũng trải đều từ trung ương (cấp liên bang) đến 16 bang với những yếu tố tự nhiên, xã hội, môi trường… không giống nhau. Tòa án Hiến pháp liên bang giải quyết các vụ tranh chấp hiến pháp để bảo vệ sự phân cấp, phân chia quyền lực giữa liên bang và các bang đã được LCB (Điều 30) bảo đảm.

Điều 20 và Điều 28 LCB 1949 quy định một số nguyên tắc cơ bản của NNPQ CHLB Đức. Hiến pháp của 16 bang nước Đức cũng quy định các nguyên tắc hiến định tương ứng. Cho dù có sửa đổi, bổ sung LCB và hiến pháp các bang thì những nguyên tắc cơ bản đó cũng không bị xóa bỏ, không được thay đổi (khoản 3 Điều 79 LCB).

Có thể nói, việc phân chia quyền lực nêu trên là phương thức hữu hiệu nhất để kiểm soát tốt quyền lực lẫn nhau giữa ba “trụ cột” trong một NNPQ và cũng là phương thức tối ưu nhất để bộ máy nhà nước hoạt động có hiệu quả, đưa ra những quyết định đúng đắn về phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học kỹ thuật… cho đất nước.

CHLB Đức duy trì “chiến lược nhìn xa, trông rộng”: ngay trong các cơ quan hiến pháp ở cấp cao nhất liên bang thì việc phân chia quyền lực là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong cơ cấu, tổ chức. Phân chia quyền lực tạo điều kiện cho cân bằng và kiểm soát tốt quyền lực; xin nêu ví dụ: trong Quốc hội liên bang, tuy Đảng Xã hội dân chủ có số lượng nghị sĩ đông nhất nhưng không vì thế mà đảng này độc quyền lãnh đạo.

Bộ máy nhà nước cũng cần được tinh giản: Phó Tổng thống liên bang do thủ hiến 16 bang thay đổi luân phiên hàng năm (nhiệm kỳ 1 năm) sau khi được bầu làm Chủ tịch Hội đồng liên bang; Phó Thủ tướng Chính phủ liên bang cũng vậy, chỉ có một mà thôi.

Bình đẳng trước pháp luật

Nguyên tắc xuyên suốt của NNPQ liên bang, dân chủ và xã hội CHLB Đức là các cơ quan quyền lực nhà nước phải bảo vệ quyền cơ bản của công dân. Chính phủ liên bang cũng như chính phủ các bang cũng là những chủ thể pháp luật; trong trường hợp vi phạm, bị khởi kiện trước tòa án cũng chỉ là “đương sự”. Người dân được đối xử bình đẳng trước pháp luật; được trao các cơ hội ngang bằng trong đời sống xã hội là quy định mang nhiều ý nghĩa (Điều 33 LCB).

Trong trường hợp quyền cơ bản của người dân bị cơ quan nhà nước, cơ quan công quyền vi phạm, người đó có thể khiếu nại lên Tòa án Hiến pháp liên bang hoặc tòa án hiến pháp bang để được bảo vệ theo khoản 1 Điều 1 và khoản 4 Điều 19 LCB.

Trong nền kinh tế thị trường xã hội cần được tự do kinh doanh, tự do cạnh tranh lành mạnh, tự do thương mại, bảo đảm sở hữu tư nhân, bình đẳng giữa các hãng, doanh nghiệp sản xuất, tiêu thụ, không có sự can thiệp của nhà nước; tuy nhiên, nhà nước phải hoàn thiện khung pháp luật để tạo điều kiện tốt cho kinh tế phát triển.

Xây dựng trật tự pháp luật thống nhất, hợp hiến và có hiệu quả

Trong NNPQ, khi pháp luật giữ vị trí độc tôn, thì việc xây dựng một hệ thống pháp luật thống nhất trên cơ sở tôn trọng và phù hợp hiến pháp (LCB) và trật tự pháp luật nói chung, đầy đủ, đồng bộ cả về luật nội dung và luật thủ tục là yếu tố quan trọng, hơn nữa hệ thống pháp luật phải được bảo đảm thực thi có hiệu quả. Ở trung ương - Bộ Tư pháp liên bang, ở địa phương - Bộ Tư pháp các bang được giao trọng trách thực hiện nhiệm vụ này. Trong cùng một vấn đề cần giải quyết thì ưu tiên áp dụng luật liên bang (Điều 31 LCB).

Tính độc lập của tư pháp

Tính độc lập tuyệt đối của các cơ quan tư pháp là mắt xích quan trọng trong guồng máy hoạt động nhịp nhàng của nhà nước pháp quyền CHLB Đức, đặc biệt là tòa án phải đặt nhiệm vụ bảo vệ người dân trước các hành vi vi phạm của cơ quan nhà nước, cơ quan công quyền lên hàng đầu. LCB, các luật tổ chức tòa án là cơ sở pháp lý cho việc thực hiện nhiệm vụ giải quyết những vi phạm do cơ quan nhà nước gây ra (khoản 4 Điều 19 LCB). Thẩm phán có quyền giải thích luật, độc lập xét xử, chỉ tuân theo pháp luật (Điều 97 LCB), cơ chế tổ chức hoạt động tự do, độc lập và tự quản của các đoàn Luật sư. 

Cái hay của quy trình đào tạo thống nhất thẩm phán, Luật sư, công tố viên, công chứng viên từ 8 đến 9 năm của CHLB Đức đã tạo nên một đội ngũ cử nhân luật “đa năng”, có thể đảm nhận được công việc trong nhiều lĩnh vực khác nhau.

Hoạt động Chính phủ liên bang gắn liền với pháp luật  

Định hướng, hoạch định chính sách đúng là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa học kỹ thuật của đất nước, là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của Chính phủ. Trước Quốc hội liên bang, các nghị sĩ phải được thông tin đầy đủ về các quyết định đó để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ kiểm soát Chính phủ (khoản 1 Điều 43 LCB).

Một số thành quả của Nhà nước pháp quyền CHLB Đức

Về kinh tế

Với mô hình kinh tế thị trường xã hội đã trải qua nhiều thập kỷ, CHLB Đức là một cường quốc kinh tế vững mạnh, luôn được nhìn nhận là “đầu tàu” kể từ khi thành lập Liên minh châu Âu (01/11/1993), hiện xếp thứ tư thế giới, nhiều năm là nước xuất khẩu hàng hóa thuộc loại lớn nhất và thứ ba thế giới, được cộng đồng quốc tế thừa nhận.

Chất lượng hàng hóa, sản phẩm xuất xứ từ CHLB Đức là chủ đề mà người tiêu dùng trên toàn thế giới quan tâm. Theo kết quả thăm dò mới nhất của Viện nghiên cứu đánh giá quan điểm YouGov thuộc Trường Đại học tổng hợp Cambrige (Anh) của người tiêu dùng tại 23 quốc gia trên thế giới thì chất lượng sản phẩm, hàng hóa “Made in Germany” vẫn là số 1 thế giới, trên cả Ý, Anh, Pháp, Nhật Bản, Hàn Quốc.

Về chính trị, ngoại giao

Mô hình NNPQ liên bang dân chủ và xã hội theo quy định tại khoản 1 Điều 20 LCB 1949 được xây dựng, phát triển toàn diện và hiệu quả, khẳng định sự đúng đắn, phù hợp.

Là 1 trong 7 nước thành viên sáng lập Liên minh châu Âu (EU) và Khu vực đồng Euro (Eurozone), thành viên của Liên hợp quốc (UNO), Khối Bắc đại tây dương (NATO), Nhóm các nước công nghiệp phát triển hàng đầu thế giới (G7), Ngân hàng thế giới (WB), Qũy tiền tệ quốc tế (IMF). CHLB Đức là nhà tài trợ lớn; “gánh” 20% tài chính cho Liên minh châu Âu, đứng thứ 3 thế giới về đóng góp cho Liên hợp quốc.

CHLB Đức được nhiều nước thừa nhận có tầm ảnh hưởng lớn trong việc giải quyết các vấn đề quốc tế gay cấn; có hệ thống chính trị được đánh giá là vững mạnh, trong sạch; chính vì vậy, tham ô, tham nhũng, lạm dụng quyền lực ít có cơ hội phát sinh.

Về khoa học kỹ thuật, công nghệ

Cộng hòa liên bang Đức là xứ sở của phát minh và các kỹ thuật nổi tiếng “Land of Ideas”, đứng đầu thế giới trong một số lĩnh vực công nghiệp và công nghệ; là nơi phát minh ô tô và là quê hương của ô tô hiện đại, sang trọng. Như chúng ta thường thấy, hầu hết các nguyên thủ quốc gia trên thế giới đều ưa chuộng sử dụng xe Mercedes hoặc BMW chống đạn. Hàng năm, hàng triệu fan “say tốc độ” trên khắp thế giới sẽ đến Đức để thử nghiệm “tay lái lụa” vì đây là nơi duy nhất không hạn chế tốc độ trên đường cao tốc.

Về giáo dục, đào tạo

Hệ thống giáo dục phổ thông, đại học của CHLB Đức có uy tín trên thế giới.

Theo US - New and World Report năm 2021, Trường Đại học tổng hợp Humboldt Berlin là trường được thành lập khá sớm (1810), là hình mẫu cho các nước châu Âu và phương Tây, có hiệu quả nghiên cứu học thuật và danh tiếng xếp thứ 4 ở Đức, nơi đào tạo ra nhiều thiên tài và nhà tư tưởng vĩ đại của Đức và thế giới như Albert Eínstein, Karl Marx, Johann Gotlieb Fichte, Robert Koch… Theo thời gian, các nhà khoa học trưởng thành từ Trường này đã giành được 55 giải thưởng Nobel về các lĩnh vực vật lý, hóa học và y học.

Là nước có chế độ học tập miễn phí từ cấp phổ thông cơ sở đến đại học, CHLB Đức thu hút hàng triệu học sinh, sinh viên, nghiên cứu sinh từ nhiều nước trên thế giới đến học tập, nghiên cứu.

Theo Tổ chức thống kê Mikrozensur của CHLB Đức, năm 2019 nước Đức có 862.000 người (chiếm 1,2% dân số cả nước) có học vị tiến sĩ trong các lĩnh vực khoa học, trong đó bao gồm cả đội ngũ giáo sư hùng hậu, phần lớn giảng dạy trong 426 trường đại học tổng hợp, đại học và đại học chuyên ngành, hàng ngàn viện nghiên cứu cũng như làm việc tại Tòa án Hiến pháp liên bang và Tòa án Hiến pháp của 16 bang trên cả nước với cương vị thẩm phán.

Về truyền thông, báo chí

Cộng hòa liên bang Đức, với vị thế đứng thứ 5 thế giới (báo và báo điện tử có lượng lưu hành lớn nhất thế giới) có 340 nhật báo, 17 tuần báo và 1.600 tạp chí các loại nên hầu hết các cơ quan đều có trung tâm báo chí công khai (đất nước của tự do báo chí) nên dư luận công chúng mạnh mẽ, góp phần xây dựng tinh thần trong đời sống xã hội.

Về thể thao, du lịch

Cộng hòa liên bang Đức là cường quốc thể thao, 4 lần vô địch thế giới, 3 lần vô địch châu Âu về bóng đá nam; 2 lần vô địch thế giới, 8 lần vô địch châu Âu về bóng đá nữ, có hơn 24 triệu thành viên, trong đó 3 triệu cầu thủ bóng đá (170.000 đội bóng) chơi trong 24.000 câu lạc bộ.

Đất nước này với những “lâu đài cổ tích” tuyệt đẹp (Neuschwanstein, Sanssouci, Hohenschwangau, Moritzburg…), nhiều danh lam thắng cảnh nổi tiếng, được xếp hạng thứ 9 thế giới về du lịch là điểm cuốn hút gần 38 triệu du khách mỗi năm.

Hàng năm, “Lễ hội bia tháng Mười” nổi tiếng tại thành phố Muenchen cuốn hút 8 đến 10 triệu du khách trong nước và quốc tế. Đức là nước sản xuất hơn 5.000 loại bia và nhiều năm đứng đầu thế giới về xuất khẩu thức uống yêu thích này.

NGUYỄN QUANG DU

Tòa án Hiến pháp của Cộng hòa liên bang Đức

Chiều

1. Quy định về xác nhận thông tin hộ tịch của cá nhân

(LSVN) – Bộ Tư pháp vừa ban hành Thông tư 01/2022/TT-BTP ngày 04/01/2022 về việc quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Nghị định 87/2020/NĐ-CP ngày 28/7/2020 của Chính phủ quy định về Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử, đăng ký hộ tịch trực tuyến. Trong đó quy định rõ về xác nhận thông tin hộ tịch của cá nhân.

Cụ thể, theo Điều 8 Thông tư quy định về xác nhận thông tin hộ tịch của cá nhân, cơ quan đăng ký, quản lý hộ tịch có thẩm quyền theo quy định tại khoản 2 Điều 13 Nghị định số 87/2020/NĐ-CP căn cứ Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử, Sổ hộ tịch, hồ sơ đăng ký hộ tịch cấp văn bản xác nhận thông tin hộ tịch cho cá nhân có yêu cầu trong các trường hợp sau:

- Xác nhận thông tin về một việc hộ tịch của cá nhân đã đăng ký, nhưng nội dung đăng ký đã có sự thay đổi do được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép thay đổi, cải chính hộ tịch, bổ sung thông tin hộ tịch, xác định lại dân tộc, ghi vào Sổ hộ tịch việc hộ tịch của công dân Việt Nam đã được giải quyết tại cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài, ghi vào Sổ hộ tịch việc thay đổi hộ tịch của cá nhân theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Ví dụ: Xác nhận thông tin về việc kết hôn mà cơ quan đăng ký hộ tịch có thẩm quyền đã cho phép thực hiện việc thay đổi họ, chữ đệm, tên, cải chính năm sinh của người vợ hoặc người chồng hoặc hai vợ chồng đã ly hôn; Xác nhận thông tin khai sinh của một cá nhân đã được xác định lại dân tộc hoặc được thôi quốc tịch Việt Nam.

Nếu thông tin hộ tịch của cá nhân không có sự thay đổi thì cơ quan đăng ký, quản lý hộ tịch không cấp văn bản xác nhận thông tin hộ tịch, hướng dẫn người yêu cầu làm thủ tục cấp bản sao Giấy khai sinh hoặc bản sao trích lục hộ tịch tương ứng, trừ trường hợp cơ quan, tổ chức có thẩm quyền đề nghị cấp văn bản xác nhận để giải quyết vụ việc liên quan đến cá nhân.

- Xác nhận các thông tin hộ tịch khác nhau của cá nhân.

Ví dụ: Xác nhận toàn bộ các thông tin hộ tịch của một cá nhân, bao gồm: các thông tin về việc đăng ký khai sinh; đăng ký kết hôn; thay đổi, cải chính hộ tịch, xác định lại dân tộc; nhận cha, mẹ, con; giám hộ; khai tử...

Xác nhận thông tin về một số việc hộ tịch đã được đăng ký như: thông tin về đăng ký khai sinh; đăng ký nhận cha, mẹ, con; xác định cha, mẹ, con; nhận nuôi con nuôi; thông tin về việc kết hôn, ghi vào Sổ hộ tịch việc kết hôn...

- Xác nhận thông tin của một cá nhân trong các giấy tờ hộ tịch không thống nhất, chưa thực hiện cải chính hộ tịch, không thuộc trường hợp quy định tại Khoản 1 Điều 4 và chưa được lập bản ghi dữ liệu hộ tịch điện tử cá nhân theo quy định tại Điều 11 của Thông tư này.

Ví dụ: Cá nhân có Giấy khai sinh ghi là Trần Văn Q, sinh năm 1963; Giấy chứng nhận kết hôn ghi là Trần Mạnh Q, sinh năm 1963.

- Người yêu cầu phải gửi kèm theo bản chụp hoặc bản sao điện tử các giấy tờ, tài liệu có liên quan để chứng minh thông tin hộ tịch. Trường hợp cần xác minh, cơ quan đăng ký, quản lý hộ tịch nhận được yêu cầu có văn bản đề nghị cơ quan công an, các cơ quan khác có liên quan xác minh theo quy định tại Khoản 3 Điều 13 Nghị định số 87/2020/NĐ-CP. Trường hợp kết quả xác minh không có thông tin hoặc thông tin không thống nhất với giấy tờ người yêu cầu cung cấp thì từ chối cấp văn bản xác nhận thông tin hộ tịch.

- Văn bản xác nhận thông tin hộ tịch theo yêu cầu của cá nhân phải nêu rõ, đầy đủ nội dung, thời điểm đăng ký ban đầu; nội dung, căn cứ và thời gian thực hiện các việc thay đổi, điều chỉnh thông tin hộ tịch tính đến thời điểm cấp văn bản xác nhận.

Cơ quan đăng ký, quản lý hộ tịch căn cứ Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử, Sổ hộ tịch, hồ sơ đăng ký hộ tịch, chức năng của cơ quan, tổ chức có yêu cầu, cấp văn bản xác nhận thông tin hộ tịch cho cơ quan, tổ chức trong các trường hợp sau:

- Xác nhận thông tin về một việc hộ tịch hoặc một số việc hộ tịch của cá nhân đã được đăng ký.

Ví dụ: Xác nhận thông tin về việc đăng ký khai sinh của ông Nguyễn Văn A; Xác nhận các thông tin: đăng ký khai sinh, ghi vào sổ việc thay đổi hộ tịch theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền (Bản án/Quyết định ly hôn, xác định mối quan hệ cha, mẹ, con, Quyết định cho thôi quốc tịch Việt Nam...); Xác nhận toàn bộ thông tin hộ tịch của cá nhân (bao gồm tất cả thông tin về các việc hộ tịch của cá nhân từ khai sinh, kết hôn, đến đăng ký khai tử ... đã đăng ký, lưu vết trong Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử).

- Xác nhận thông tin hộ tịch của nhiều cá nhân khác nhau.

Ví dụ: Xác nhận thông tin đăng ký khai sinh của tất cả các con của một cặp vợ chồng; Xác nhận thông tin đăng ký khai sinh của các trường hợp sinh năm 2020, cư trú tại phường A.

- Căn cứ nội dung yêu cầu, chức năng của cơ quan, tổ chức đề nghị xác nhận thông tin hộ tịch, văn bản xác nhận thông tin hộ tịch có thể nêu rõ, đầy đủ nội dung, thời điểm đăng ký ban đầu; nội dung, căn cứ và thời gian thực hiện các việc thay đổi, điều chỉnh thông tin cho đến thời điểm cấp văn bản xác nhận hoặc chỉ xác nhận thông tin về việc đăng ký hộ tịch (số, thời gian, cơ quan đăng ký việc hộ tịch) hoặc xác nhận số liệu thống kê việc hộ tịch đã được đăng ký.

Ví dụ: Trường hợp đề nghị xác nhận thông tin hộ tịch của một cá nhân phục vụ hoạt động điều tra, xác minh, tố tụng của cơ quan điều tra, cơ quan đăng ký, quản lý hộ tịch căn cứ chức năng và đề nghị của cơ quan yêu cầu có thể cấp văn bản xác nhận toàn bộ các thông tin hộ tịch của cá nhân đã được đăng ký, trong đó nêu rõ, đầy đủ nội dung, thời điểm, cơ quan đăng ký ban đầu và các lần thay đổi, điều chỉnh đến thời điểm xác nhận; Trường hợp xác nhận thông tin về việc đăng ký kết hôn của ông Nguyễn Văn A phục vụ việc kiểm tra, giải quyết việc ly hôn hoặc việc tranh chấp dân sự khác của cơ quan tố tụng thì văn bản xác nhận thông tin hộ tịch chỉ xác nhận việc ông Nguyễn Văn A đã đăng ký kết hôn, thông tin về số Giấy chứng nhận kết hôn, thời gian, cơ quan đăng ký; Trường hợp xác nhận thông tin phục vụ việc kiểm tra, đánh giá tỷ lệ học sinh được đến trường theo yêu cầu của nhà trường, cơ quan quản lý giáo dục thì tuỳ theo đề nghị, văn bản xác nhận thông tin hộ tịch có thể cung cấp số liệu thống kê về số trẻ em theo địa bàn cư trú, năm sinh hoặc cung cấp danh sách trẻ em kèm theo thông tin về việc đăng ký khai sinh (số Giấy khai sinh, thời gian, cơ quan đăng ký khai sinh).

Việc xác nhận thông tin hộ tịch theo yêu cầu của tổ chức, cá nhân phải bảo đảm đúng quy định pháp luật về bảo vệ đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình, danh dự, uy tín của cá nhân.

Văn bản xác nhận thông tin hộ tịch của cá nhân theo quy định tại điểm a, b, c Khoản 1 Điều này có giá trị như giấy tờ hộ tịch, được sử dụng để chứng minh thông tin hộ tịch khi cá nhân thực hiện thủ tục hành chính hoặc tham gia các giao dịch dân sự khác theo quy định pháp luật.

Thông tư này có hiệu lực từ ngày 18/02/2022.

NGUYỄN PHƯƠNG

Các bước nhận hỗ trợ chế độ từ BHXH khi bị F0

2. Hồ sơ đăng ký tập sự hành nghề Luật sư gồm những gì?

(LSVN) - Thông tư 10/2021/TT-BTP do Bộ Tư pháp vừa ban hành ngày 10/12/2021 quy định về hướng dẫn tập sự hành nghề Luật sư. Trong đó nêu rõ về đăng ký tập sự hành nghề Luật sư.

Cụ thể, người đáp ứng đủ điều kiện quy định tại khoản 1 Điều 3 của Thông tư này đăng ký tập sự tại Đoàn Luật sư nơi có trụ sở của tổ chức hành nghề Luật sư nhận tập sự.

Khoản 1 Điều 3 của Thông tư này quy định như sau:

"1. Người đáp ứng các điều kiện sau đây thì được đăng ký tập sự hành nghề Luật sư:

a) Công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt;

b) Có Bằng cử nhân luật hoặc Bằng thạc sỹ luật;

c) Có Giấy chứng nhận tốt nghiệp đào tạo nghề Luật sư tại Việt Nam hoặc Quyết định công nhận đào tạo nghề Luật sư ở nước ngoài hoặc giấy tờ chứng minh được miễn đào tạo nghề Luật sư nhưng thuộc trường hợp phải tập sự hành nghề Luật sư theo quy định tại khoản 2 Điều 16 của Luật Luật sư".

Hồ sơ đăng ký tập sự gồm có:

- Giấy đề nghị đăng ký tập sự hành nghề Luật sư theo mẫu ban hành kèm theo Thông tư này;

- Giấy xác nhận về việc nhận tập sự hành nghề Luật sư của tổ chức hành nghề Luật sư nhận tập sự;

- Bản sao Bằng cử nhân luật hoặc bản sao Bằng thạc sỹ luật;

- Bản sao Giấy chứng nhận tốt nghiệp đào tạo nghề Luật sư tại Việt Nam hoặc bản sao Quyết định công nhận đào tạo nghề Luật sư ở nước ngoài hoặc bản sao giấy tờ chứng minh được giảm thời gian tập sự hành nghề Luật sư theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 16 của Luật Luật sư.

Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Ban chủ nhiệm Đoàn Luật sư ghi tên người tập sự vào danh sách người tập sự của Đoàn Luật sư và cấp Giấy chứng nhận người tập sự hành nghề Luật sư cho người tập sự theo mẫu ban hành kèm theo Thông tư này; trong trường hợp từ chối phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do. Người bị từ chối có quyền khiếu nại theo quy định của Thông tư này.

Trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày cấp Giấy chứng nhận người tập sự hành nghề Luật sư, Ban chủ nhiệm Đoàn Luật sư gửi văn bản thông báo cho tổ chức hành nghề Luật sư nhận tập sự.

PHƯƠNG HOA

Thời gian tập sự hành nghề Luật sư theo quy định mới

3. 

1. Kinh nghiệm của một số quốc gia về tổ chức phiên tòa trực tuyến

(LSVN) - Trên thế giới, Tòa án trực tuyến vẫn đang là vấn đề mới, nhận được sự quan tâm của các chuyên gia cũng như các nhà nghiên cứu, bởi lẽ, những thách thức khi tổ chức phiên tòa trực tuyến là không nhỏ. Trong nội dung bài viết, tác giả cung cấp thông tin cũng như kinh nghiệm của các quốc gia Áo, Đức và Ý về tổ chức phiên tòa trực tuyến.

Phương cách tương tác giữa Thẩm phán, các bên đương sự và Luật sư trong phiên tòa trực tuyến cũng cần phải thay đổi trong bối cảnh mới khác với phòng xử án truyền thống khi việc thiết kế và bố trí tạo ra sự khác biệt giữa phiên tòa trực tiếp với phiên tòa trực tuyến. Phiên tòa trực tiếp tạo ra tính nghiêm minh, không khí nghiêm túc, trong khi đó, thực tiễn tại phiên tòa trực tuyến có phần nào khác biệt.

Thực tế, pháp luật một số quốc gia đã quy định về xét xử trực tuyến từ những năm 1990 hoặc đầu những năm 2000 để hiện đại hóa trình tự và thủ tục tố tụng dân sự hoặc để tổ chức phiên tòa hình sự một cách an toàn hơn. Vào năm 2009, trong khuôn khổ một chương trình có tên gọi “Xét xử trực tuyến/điện tử châu Âu”, các nước thuộc Hội đồng châu Âu đã xây dựng một chương trình xét xử trực tuyến/qua video.

1. Áo

Năm 2004, tại Áo đã áp dụng quy định cho phép nghe các bên, chuyên gia và người làm chứng trong tố tụng dân sự; bị cáo và người làm chứng trong tố tụng hình sự trình bày qua video. Trong lĩnh vực tố tụng dân sự, việc tổ chức phiên tòa trực tuyến/qua video đã được quy định tại Điều 589(3) của Bộ luật tố tụng dân sự, Luật quản lý Tòa án và Đạo luật phòng chống Covid. Mặc dù Hiến pháp của Áo[1] đã quy định các bên trong tranh chấp phải có mặt tại phiên tòa, các phiên tòa dân sự và hình sự phải được mở công khai, tuy nhiên hệ thống pháp luật của Áo cho phép  một số ngoại lệ cho phép các bên có thể tham gia phiên tòa trực tuyến. Đồng thời, việc sử dụng phương tiện thông tin điện tử để tương tác giữa Tòa án và các bên với tư cách là một bộ phận của trình tự tố tụng được coi là một đặc điểm quan trọng của hệ thống tư pháp của Áo.

Điều 171 và Điều 277 của Bộ luật tố tụng dân sự của Áo cũng quy định việc sử dụng nền tảng họp/xét xử trực tuyến như sau: “Nếu kỹ thuật cho phép, Tòa án có thể thu nhận chứng cứ thông qua phương tiện kỹ thuật để chuyển hóa chữ và hình ảnh, trừ trường hợp việc thu nhận chứng cứ trực tiếp tại tòa án là thích hợp hoặc cần thiết hơn vì lý do đặc biệt có xem xét đến nguyên tắc kinh tế mang tính thủ tục…”. Trong Bộ luật tố tụng hình sự[2], cũng có một điều khoản liên quan đến việc xét xử trực tuyến theo đó để tạo điều kiện cho việc xét xử trực tuyến, tất cả Tòa án, cơ quan công tố và nhà tù được trang bị nền tảng/hệ thống họp trực tuyến[3]. Tuy nhiên trong thực tiễn, việc sử dụng công nghệ trong các vụ xử dân sự và hình sự trong thực tiễn cũng bị hạn chế trong một số tình huống ngoại lệ.

Ngày 16/3/2020, Đạo luật chống Covid có hiệu lực đã tạo ra cơ sở pháp lý cho việc thực thi các biện pháp nhằm ngăn chặn việc lây lan của dịch bệnh Covid -19. Cân nhắc xu hướng sử dụng các phương tiện điện tử và các nền tảng họp trực tuyến trong các phiên xét xử trực tiếp, Đạo luật phòng chống Covid - 19 chủ yếu mở rộng việc sử dụng các công cụ hiện có để thúc đẩy chức năng quản lý hệ thống Tòa án từ xa. Nói một cách cụ thể hơn, các bên có thể thỏa thuận lựa chọn phương án xét xử trực tuyến mà không cần phải đến Tòa [4]. Sự chấp thuận của các bên là bắt buộc, việc xét xử trực tuyến mà không có sự chấp thuận của các bên được coi là vi phạm quyền xét xử công bằng. Tại Áo, luật yêu cầu sự chấp thuận của các bên và bị can trong tố tụng dân sự và hình sự.

Theo Đạo luật này, bên cạnh một số biện pháp khác đã điều chỉnh trình tự và thủ tục của Tòa án trong các vụ án dân sự để ứng phó với dịch bệnh đảm bảo quyền được xét xử kịp thời của các bên đương sự. Luật ứng phó đại dịch Covid[5] cho phép, trong một khoảng thời gian giới hạn, các phiên xét xử được tổ chức trực tuyến với sự đồng ý của các bên trong tố tụng dân sự. Luật cũng cho phép tổ chức các phiên xét xử trực tuyến trong các vụ án hình sự, đặc biệt là liên quan đến việc giam giữ các nghi phạm hoặc bị can. Tuy nhiên, các phiên tòa xét xử có bồi thẩm đoàn chỉ có thể được tổ chức trực tuyến trong những trường hợp đặc biệt. Trong tố tụng hành chính, luật chỉ quy định rằng các bên “có thể” được xét xử trực tuyến. Tuy nhiên, trong quyết định ngày 08/10/2020, Tòa án Hiến pháp nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xét xử trực tuyến - để bảo vệ quyền của họ đối với một phiên tòa công bằng.

Nền tảng công nghệ chính được Tòa án ở Áo sử dụng là Zoom (các quốc gia như: Bang Michigan của Hoa Kỳ, Tây Ban Nha (tòa án Madrid), Vương quốc Anh, Ba Lan, Thụy Sĩ (tòa án thương mại Zurich), Singapore, Tòa án tối cao của Victoria, New Zealand cũng sử dụng nền tảng công nghệ này). Việc sử dụng công nghệ mới phụ thuộc vào sự hợp tác của các Thẩm phán và tình hình tại từng Tòa án. Quy mô của các phòng xử án - trong các phòng lớn, vẫn có thể thực hiện các phiên xét xử trực trực tuyến với các thiết bị kỹ thuật có sẵn. Các Tòa án nơi các Thẩm phán đã làm việc với các hồ sơ điện tử thường có thiết bị kỹ thuật tốt hơn. Tuy nhiên, ở một số quốc gia châu Âu, Zoom và các hệ thống thuộc sở hữu tư nhân khác bị coi là không đáng tin cậy vì lý do bảo vệ dữ liệu, mặc dù chúng ổn định và thân thiện với người dùng.

2. Đức

Đầu những năm 2000, việc xét xử qua video đã được đưa ra áp dụng tại Đức. Các phiên xét xử video tại các Tòa án đã được giới thiệu vào năm 1998 để bảo vệ nhân chứng trong các phiên tòa hình sự. Điều 128a của Bộ luật Tố tụng dân sự đã tạo ra cơ sở pháp lý, các quy định tương tự đã được quy định trong các Luật Tố tụng Hành chính và Gia đình. Tuy nhiên, trong thủ tục tố tụng hình sự, chỉ có nhân chứng mới có thể tham gia trực tuyến từ xa, một cách tiếp cận khá khác so với các quy định ở các nước châu Âu khác. Mặc dù đã có cơ sở pháp lý, nhưng các cuộc xét xử trực tuyến không được sử dụng nhiều trước đại dịch Covid ở Đức, tuy nhiên, quốc gia này có một số kinh nghiệm về các phiên xét xử trực tuyến tại các Tòa án thuế khi các bên và Tòa án sử dụng nền tảng “Máy chủ Truyền thông Video của Cisco (VCS)”.

Ở Đức không yêu cầu sự chấp thuận về mặt pháp lý (tương tự như ở Ireland, San Marino và Tây Ban Nha), Tòa án có thể quyết định tổ chức một phiên xét xử từ xa theo đơn của một bên hoặc thậm chí chính thức. Tuy nhiên, trên thực tế, một cuộc xét xử trực tuyến không được tiến hành trái với mong muốn của các bên. Trong tố tụng hình sự, các phiên xét xử trực tuyến được giới hạn trong việc nghe các nhân chứng trình bày. Ngoài ra, thường có những quy tắc đặc biệt trong tố tụng hình sự và mong muốn của các bên được cân nhắc.

Nền tảng công nghệ chính được Tòa án ở Đức sử dụng là CISCO Webex.  Tại Diễn đàn Thường trực Quốc tế về các Tòa án Thương mại đã đưa ra một bản ghi nhớ vào tháng 5/2020 để hỗ trợ các Tòa án trong việc lựa chọn và sử dụng các nền tảng kỹ thuật. Trong việc chọn một nền tảng cho các cuộc xét xử video, bảo mật dữ liệu có tầm quan trọng đặc biệt. Do đó, ở Đức các hệ thống này được sử dụng trên các máy chủ riêng của Tòa án (tại cơ sở). Các Tòa án đã tuân thủ cách hiểu truyền thống về “phiên xét xử công khai” liên quan đến phiên xét xử trực tuyến. Các Thẩm phán chỉ có thể tiến hành các phiên xét xử trực tuyến từ phòng xử án của họ, phòng xử án phải được công khai. Về mặt kỹ thuật, có thể dễ dàng phát trực tiếp các phiên xét xử và do đó cho phép một số lượng lớn công dân quan tâm đến xem. Việc sử dụng các ứng dụng được quản lý tại Đức hoặc Liên minh Châu Âu là khuyến khích, vì các ứng dụng này trực tiếp tuân theo các quy định bảo vệ dữ liệu của Liên minh Châu Âu.

3. Ý

Ở Ý, sự nguy hiểm của các phiên tòa xét xử Mafia những năm 1990 đã ảnh hưởng đáng kể đến việc phát triển và sử dụng các phiên xử trực tuyến qua video tại các Tòa án. Các quy định pháp luật khác nhau cho phép xét xử trực tuyến qua video đã được sử dụng trong cơ quan tư pháp Ý trong hơn 20 năm. Bộ Tư pháp Ý cung cấp các hệ thống nghe nhìn an toàn phục vụ cho hoạt động của Tòa án.

Kể từ năm 1992, Điều 147 Bộ luật Tố tụng hình sự Ý quy định “cộng tác viên”, các đặc vụ chìm và những người khác có thể phải đối mặt với nguy cơ gây áp lực hoặc nguy hiểm cho sự an toàn của họ và gia đình, do vậy họ có thể làm chứng thông qua công nghệ trực tuyến. Trong trường hợp này, Thẩm phán sau khi cân nhắc mọi mặt có thể quyết định xét xử video mà không cần sự đồng ý của họ. Tại nơi nhân chứng có mặt, một cán bộ sẽ được bố trí để đảm bảo tính thường xuyên của việc kiểm tra chéo.

Tòa án Hiến pháp được kêu gọi để ra phán quyết về tính hợp pháp của phương pháp thẩm tra chéo (từ xa) này, cho rằng quy định của luật phù hợp với Hiến pháp và các nguyên tắc của thủ tục tố tụng[6]. Cuộc chiến chống tội phạm có tổ chức trong các phiên tòa xét xử Mafia những năm 1990 không chỉ cho thấy sự cần thiết phải bảo vệ nhân chứng mà còn cho thấy lợi thế của việc không chuyển tội phạm nguy hiểm từ nhà tù an toàn đến phòng xử án. Từ năm 1998, Luật tố tụng hình sự của Ý đã quy định rằng trong các phiên tòa xét xử tội phạm có tổ chức hoặc khủng bố, các bị cáo bị giam trong tù được tham gia bằng hội nghị truyền hình[7]. Hội nghị truyền hình được thực hiện bằng cách kích hoạt đường truyền truyền hình giữa nơi giam giữ bị can và phòng xử án. Hơn nữa, một bị can bị giam giữ ở nước ngoài không thể được chuyển đến Ý cũng có thể tham dự phiên xét xử hình sự thông qua hội nghị truyền hình [8].

Cơ sở pháp lý cho các cuộc xét xử trực tuyến đã được đưa ra trước đại dịch, luật đã được sửa đổi để thích ứng trong thời gian đại dịch Covid-19. Các quy tắc tố tụng được áp dụng sau trường hợp khẩn cấp về y tế trong đại dịch Covid-19 đã mở rộng khả năng sử dụng xét xử trực tuyến trong các phiên tòa hình sự. Đặc biệt, Luật 27/2020 quy định rằng từ ngày 09/3/2020 đến ngày 30/6/2020 (thời hạn sau đó kéo dài đến ngày 31/7/2020), các phiên xét xử hình sự không có sự tham gia của nhân chứng mà không phải là cảnh sát tư pháp thì có thể được tổ chức thông qua các kết nối từ xa được do Bộ Tư pháp quyết định.

Nếu không có sự đồng ý của người bị buộc tội, những quy định này không áp dụng đối với các phiên xét xử chung thẩm và đối với những phiên tòa mà nhân chứng, các bên, nhà tư vấn và chuyên gia cần được thẩm tra lời khai. Trong đợt đại dịch thứ hai, các quy định tương tự đã được thông qua vào cuối tháng 10/2020 có hiệu lực cho đến ngày 31/1/2021. Nếu cần thiết, các quy tắc này có thể được gia hạn thêm. Tại Tòa Giám đốc thẩm Tối cao hầu hết các phiên tòa xét xử, dân sự và hình sự, đều được tổ chức trực tuyến. Các vụ án dân sự vẫn được xét xử trực tiếp, nhưng các phiên xét xử công khai về hình sự thường được tổ chức trực tuyến trên cơ sở kháng cáo được nộp và kết tội bằng văn bản của công tố viên, trừ khi Bộ trưởng Tư pháp hoặc người bào chữa yêu cầu một phiên xét xử trực tiếp.

Kết luận

Cho đến nay, những trải nghiệm tích cực đã được báo cáo từ các quốc gia khác nhau, hều hết đều đồng ý rằng các cuộc xét xử trực tuyến đã tăng lên đáng kể vì đại dịch. Các Thẩm phán đồng tình rằng sự sẵn có của thiết bị kỹ thuật phù hợp và kết nối internet tốt là yếu tố quan trọng quyết định sự thành công của các phiên xét xử trực tuyến. Tuy nhiên, ngoài các vấn đề kỹ thuật, các mối đe dọa tiềm ẩn đối với chất lượng của phiên xét xử và các rủi ro có thể xảy ra đối với quyền xét xử công bằng, đặc biệt là quyền bào chữa cũng được đề cập. Một phiên xét xử nên cung cấp một không gian được kiểm soát bởi Thẩm phán để bằng chứng có thể được thu thập và đánh giá một cách thích hợp. Trong các phiên xét xử trực tuyến, các Thẩm phán có ít quyền kiểm soát hơn đối với giao tiếp phi ngôn ngữ giữa các bên và nhân chứng. Các Thẩm phán coi các phiên xét xử từ xa là cần thiết trong thời kỳ đại dịch nhưng không thích hợp hơn các phiên xét xử trực tiếp.

Trong một cuộc khảo sát các đại biểu tham dự Hội nghị tư pháp trực tuyến do Bộ trưởng trưởng Tư pháp Cộng hòa liên bang Đức tổ chức ngày 08/12/2020, 70% đại biểu cho rằng trong vòng 3 năm tới việc xét xử trực tuyến qua video sẽ phổ biến toàn châu Âu [9]. Bên cạnh đó, những năm gần đây, một số quốc gia đã hướng tới phương cách “Xét xử trực tuyến/qua video” không chỉ đơn giản là nộp đơn kiện/hồ sơ vụ án qua phương tiện điện tử mà còn sửa đổi luật của mình để áp dụng cách xét xử trực tuyến. Tuy nhiên, ngay từ khi đưa ra áp dụng quy định này, các chuyên gia, nhà nghiên cứu và giới Luật sư…đã nêu vấn đề như quyền xét xử bình đẳng và quyền tiếp cận công nghệ.

Ở một số quốc gia, các phiên xét xử trực tuyến được coi là một công cụ quan trọng cho ngành tư pháp không chỉ trong đại dịch mà còn trong tương lai. Trong chặng đường phía trước, cần có nhiều nghiên cứu và thảo luận để phát triển các quy tắc và hỗ trợ kỹ thuật nhằm phát triển các phiên xét xử video thành một nơi - mặc dù không phải là một nơi thực tế - nơi công lý có thể được thực hiện.

[1] Điều 90 của Hiến pháp Áo

[2] Điều 165 Luật tố tụng hình sự của Áo

[3] https://edition.cnn.com/2021/02/09us/cat/filter-lawyer-zoom-court

[4] Điều 21 khoản 3 của Đạo luật phòng chống Covid

[5] Điều 21 Luật ứng phó đại dịch Covid 19

[6] Bản án No 342 22/7/1999

[7] Điều 146 của Bộ luật tố tụng hình sự có sửa đổi bổ sung 11/1998 và điều 134 của Bộ luật tố tụng hình sự ban hành tháng 4/2011

[8] Điều 205 về thực hiện quy định của Bộ luật tố tụng hình sự

[9] https:www.iacajournal.org/article

Luật gia THANH TÙNG

Tạp chí Tòa án nhân dân

Cần xử lý nghiêm những vi phạm trong đấu giá đất

 

SÁNG

1. Một số bất cập trong quá trình thực hiện cung cấp lý lịch tư pháp 

(LSVN) - 

Ảnh minh họa.

Theo khoản 1 Điều 2 Luật Lý lịch tư pháp năm 2009 thì lý lịch tư pháp được hiểu là: “Lý lịch về án tích của người bị kết án bằng bản án, quyết định hình sự của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, tình trạng thi hành án và về việc cấm cá nhân đảm nhiệm chức vụ, thành lập, quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã trong trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã bị Tòa án tuyên bố phá sản”.

Đây là nội dung quan trọng thuộc trách nhiệm của nhiều cơ quan, nhiều cấp, nhiều ngành trong hoạt động quản lý Nhà nước về lý lịch tư pháp của công dân, với sự phối hợp chặt chẽ, cập nhật thông tin thường xuyên, liên tục về kết quả hoạt động của Tòa án, Viện Kiểm sát, Cơ quan Thi hành án dân sự, Cơ quan Thi hành án hình sự,... và các cơ quan có liên quan về thông tin cá nhân người bị kết án cho Cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp (Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia, Sở Tư pháp) xây dựng dữ liệu lý lịch tư pháp cho công dân.

Thời gian qua, công tác cung cấp thông tin lý lịch tư pháp về án tích được theo dõi, cập nhật có hệ thống kết quả giải quyết các vụ án hình sự và thi hành án hình sự theo đúng quy định của pháp luật. Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi thì Luật Lý lịch tư pháp còn những điểm bất cập, cần kiến nghị sửa đổi, bổ sung như sau:

Thứ nhất, theo Luật Lý lịch tư pháp năm 2009 thì thông tin lý lịch tư pháp về án tích được xác lập từ 18 nguồn, quy định rõ tại Điều 15. Tuy nhiên, qua thực tiễn và đối chiếu với các quy định của pháp luật có liên quan, đặc biệt là Bộ luật Hình sự năm 2015, Luật Thi hành án hình sự năm 2019 (Luật THAHS) có nhiều nội dung quy định mới mang ý nghĩa quan trọng đối với việc xác lập thông tin án tích đối với người bị kết án, như: Điều 66 Bộ luật Hình sự 2015 quy định về chế định tha tù trước thời hạn có điều kiện đối với người bị kết án; khoản 4 Điều 23, khoản 5 Điều 25, khoản 7 Điều 37, khoản 5 Điều 59 Luật THAHS năm 2019 quy định Tòa án đã ra quyết định thi hành án quyết định đình chỉ thi hành án đối với người bị kết án chết trong thời gian đang thi hành án, hoãn chấp hành án, tạm đình chỉ thi hành án, tha tù trước thời hạn có điều kiện; Điều 64, 65 Luật THAHS năm 2019 quy định rút ngắn thời gian thử thách đối với người được tha tù trước thời hạn có điều kiện.

Và có những nội dung Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 sửa đổi, bãi bỏ thẩm quyền của Tòa án trong việc “cấp giấy chứng nhận xóa án tích” đối với người bị kết án đương nhiên được xóa án tích và quy định việc xác định người bị kết án “đã được xóa án tích” thuộc thẩm quyền của Cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp, nhưng Luật Lý lịch tư pháp năm 2009 không quy định bổ sung kịp thời.

Vì vậy, để đảm bảo xây dựng cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp cho công dân thuận lợi, đầy đủ, chính xác, đồng bộ với các Luật có liên quan. Nên chăng, nguồn thông tin lý lịch tư pháp quy định tại Điều 15 Luật Lý lịch tư pháp năm 2009 sửa đổi, bổ sung theo hướng:

+ Bỏ quy định tại khoản 15 (Giấy chứng nhận đương nhiên được xóa án tích).

+ Bổ sung Điều 15 những nội dung: Quyết định tha tù trước thời hạn có điều kiện; Quyết định đình chỉ thi hành án; Quyết định rút ngắn thời gian thử thách đối với người được tha tù trước thời hạn có điều kiện.

Thứ hai, điểm a khoản 1 Điều 33 Luật Lý lịch tư pháp 2009 quy định:

“1. Trường hợp người bị kết án đương nhiên được xóa án tích thì Sở Tư pháp thực hiện việc cập nhật thông tin như sau:

a) Khi nhận được giấy chứng nhận xóa án tích của Tòa án thì ghi “đã được xóa án tích” vào lý lịch tư pháp của người đó”.

Nội dung quy định trên, hiện không còn phù hợp, bởi lẽ:

Trước đây, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 quy định người bị kết án thuộc trường hợp đương nhiên được xóa án tích theo quy định của Bộ luật hình sự, thuộc thẩm quyền của Tòa án đã xét xử sơ thẩm. Theo đó, Tòa án cấp giấy chứng nhận xóa án tích cho người bị kết án khi có đủ điều kiện theo quy định của Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên, đến nay Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã bỏ quy định trên, mà thay vào đó là thẩm quyền của Cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp. Cụ thể, tại Điều 369 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định:

“1. Trong thời hạn 05 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu của người được đương nhiên xóa án tích và xét thấy có đủ điều kiện quy định tại Điều 70 của Bộ luật Hình sự thì cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp cấp phiếu lý lịch tư pháp là họ không có án tích.

2. Những trường hợp quy định tại Điều 71 và Điều 72 của Bộ luật Hình sự thì việc xóa án tích do Tòa án quyết định...”.

Việc pháp luật quy định thay đổi thẩm quyền như đã nêu ở trên, nhưng chưa có văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thực hiện cụ thể đã dẫn đến thực trạng người bị Tòa án kết án không hiểu, không nắm được trình tự, thủ tục, quy định pháp luật và gửi đơn yêu cầu xóa án tích đến Tòa án đã xét xử sơ thẩm, Tòa án lại hướng dẫn họ đến Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố nơi họ cư trú để yêu cầu cấp phiếu lý lịch tư pháp xác nhận họ không có án tích. Điều đó đã gây ra khó khăn, mất thời gian, chi phí của người dân trong việc đi lại, hoàn thiện thủ tục giấy tờ.

Vì vậy, thời gian tới đề nghị các cơ quan có thẩm quyền cần sửa đổi bổ sung Luật Lý lịch tư pháp năm 2009 theo hướng: “Bỏ quy định tại điểm a khoản 1 Điều 33 và thay vào đó là trình tự, thủ tục xác minh thông tin án tích đối với người bị kết án thuộc trường hợp đương nhiên được xóa án tích” làm sơ sở cấp phiếu lý lịch tư pháp xác nhận người bị kết án “đã được xóa án tích”. 

Thứ ba, theo quy định Điều 69 Bộ luật Hình sự:

“1. Người bị kết án được xóa án tích theo quy định tại các điều từ Điều 70 đến Điều 73 của Bộ luật này. Người được xóa án tích coi như chưa bị kết án.

2. Người bị kết án do lỗi vô ý về tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và người được miễn hình phạt không bị coi là có án tích”.

Theo quy định trên thì người phạm tội ít nghiêm trọng do lỗi vô ý (Ví dụ: Tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”) thì bị coi là không có án tích, trong trường hợp này khi người bị kết án chấp hành xong hình phạt họ cần giấy chứng nhận xóa thì Sở Tư pháp có cấp cho họ không?

Đây cũng là một thực tiễn cần có hướng dẫn thống nhất trong áp dụng.

QUÁCH HỮU NGHỊ

TÒA ÁN QUÂN SỰ QUÂN KHU 9

Hoàn thiện hệ thống, đảm bảo cấp 'hộ chiếu vaccine' sớm nhất

2. Pháp luật quy định như thế nào về kỷ luật bằng hình thức buộc thôi việc?

(LSVN) - Anh tôi là cán bộ huyện, vừa qua có nhận được quyết định thi hành kỷ luật bằng hình thức buộc thôi việc do đã có vi phạm, khuyết điểm rất nghiêm trọng trong công tác. Vậy pháp luật quy định như thế nào về kỷ luật bằng hình thức buộc thôi việc?

Thạc sĩ. Luật sư Nguyễn Đức Hùng – Phó Giám đốc Công ty Luật TNHH TGS cho biết theo quy định tại khoản 1 Điều 79 Luật Cán bộ, công chức năm 2008 được sửa đổi, bổ sung bởi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức năm 2019 và khoản 3 Điều 7 Nghị định số 112/2020/NĐ-CP ngày 18/09/2020 của Chính phủ về xử lý kỷ luật cán bộ, công chức, viên chức thì các hình thức kỷ luật áp dụng đối với công chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý, bao gồm: Khiển trách, cảnh cáo, giáng chức; cách chức và buộc thôi việc, trong đó buộc thôi việc là hình thức kỷ luật nặng nhất. 

Việc áp dụng hình thức xử lý kỷ luật buộc thôi việc đối với công chức sẽ phải tuân thủ các quy định chung về xử lý kỷ luật công chức được quy định tại Nghị định số 112/2020/NĐ-CP của Chính phủ, cụ thể gồm:

- Nguyên tắc xử lý kỷ luật (Điều 2);

- Thời hiệu, thời hạn xử lý kỷ luật (Điều 5);

- Thẩm quyền xử lý kỷ luật đối với công chức (Điều 24);

- Trình tự, thủ tục xử lý kỷ luật đối với công chức (Điều 25).

Đồng thời, phải thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 13 Nghị định số 112/2020/NĐ-CP của Chính phủ, bao gồm:

- Đã bị xử lý kỷ luật bằng hình thức cách chức đối với công chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý hoặc hạ bậc lương đối với công chức không giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý mà tái phạm;

- Có hành vi vi phạm lần đầu, gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 8 Nghị định số 112/2020/NĐ-CP của Chính phủ;

- Sử dụng văn bằng, chứng chỉ, giấy chứng nhận, xác nhận giả hoặc không hợp pháp để được tuyển dụng vào cơ quan, tổ chức, đơn vị;

- Nghiện ma túy; đối với trường hợp này phải có kết luận của cơ sở y tế hoặc thông báo của cơ quan có thẩm quyền;

Ngoài ra, hình thức kỷ luật buộc thôi việc còn được áp dụng đối với công chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý có hành vi vi phạm lần đầu, gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 9 Nghị định số 112/2020/NĐ-CP ngày 18/09/2020 của Chính phủ (Cán bộ, công chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý không thực hiện đúng, đầy đủ chức trách, nhiệm vụ quản lý, điều hành theo sự phân công; hoặc người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị để xảy ra hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong phạm vi phụ trách mà không có biện pháp ngăn chặn).

Mặt khác, tại khoản 2 Điều 30 Nghị định số 112/2020/NĐ-CP của Chính phủ cũng quy định: “Trường hợp công chức có hành vi vi phạm bị Tòa án kết án phạt tù mà không được hưởng án treo hoặc bị Tòa án kết án về hành vi tham nhũng, trong thời hạn 15 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định, bản án có hiệu lực pháp luật của Tòa án, cấp có thẩm quyền xử lý kỷ luật ra quyết định kỷ luật buộc thôi việc.”.

HỒNG HẠNH

Cần xử lý nghiêm những vi phạm trong đấu giá đất

3.

Admin