SÁNG
1. Quy định về xử lý tài sản khi giải thể đơn vị sự nghiệp công
(LSVN) - Bộ Tài chính vừa ban hành Thông tư 56/2022/TT-BTC hướng dẫn một số nội dung về cơ chế tự chủ tài chính đơn vị sự nghiệp công lập theo Nghị định 60/2021/NĐ-CP. Trong đó, Thông tư quy định cụ thể về xử lý tài sản khi giải thể đơn vị sự nghiệp công.
Ảnh minh họa.
Tại khoản 1 Điều 19 Thông tư 56/2022/TT-BTC, Thông tư quy định rõ về xử lý tài sản khi giải thể đơn vị sự nghiệp công. Theo đó, đơn vị sự nghiệp công thực hiện kiểm kê, phân loại đối với tài sản thuộc quyền quản lý, sử dụng của đơn vị; chịu trách nhiệm xử lý tài sản phát hiện thừa/thiếu qua kiểm kê theo quy định của pháp luật. Đối với tài sản không phải của đơn vị (tài sản nhận giữ hộ, tài sản mượn, tài sản thuê của tổ chức, cá nhân khác), đơn vị thực hiện xử lý theo quy định của pháp luật có liên quan;
Đơn vị sự nghiệp công có trách nhiệm lập phương án xử lý, báo cáo cơ quan quản lý cấp trên tổng hợp, đề xuất phương án xử lý, gửi cơ quan thực hiện nhiệm vụ quản lý tài sản công cùng cấp để có ý kiến về phương án xử lý tài sản. Căn cứ ý kiến của cơ quan quản lý tài sản công, đơn vị hoàn thiện phương án xử lý tài sản để lập Đề án giải thể (trong đó có phương án xử lý tài sản); trình cấp có thẩm quyền phê duyệt theo quy định tại Nghị định số 120/2020/NĐ-CP. Phương án xử lý tài sản phải phù hợp với hình thức xử lý tài sản theo quy định tại Luật Quản lý, sử dụng tài sản công, Nghị định số 151/2017/NĐ-CP.
Căn cứ Đề án giải thể đơn vị sự nghiệp công được cấp có thẩm quyền phê duyệt, đơn vị sự nghiệp công có trách nhiệm báo cáo cấp có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản công xem xét, quyết định việc xử lý tài sản, trên cơ sở đó tổ chức xử lý tài sản. Trình tự, thủ tục, thẩm quyền quyết định và tổ chức thực hiện xử lý tài sản thực hiện theo quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản công.
Trường hợp đơn vị sự nghiệp công đã chấm dứt hoạt động nhưng chưa hoàn thành việc xử lý tài sản thì bộ, cơ quan trung ương, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện quyết định giao cho cơ quan quản lý cấp trên thực hiện các công việc còn lại.
Số tiền thu được từ xử lý tài sản công của đơn vị sự nghiệp công khi giải thể được quản lý, sử dụng theo quy định tại Điều 55 Nghị định số 151/2017/NĐ-CP ; trường hợp đơn vị sự nghiệp công đã thực hiện quyết toán tài chính thì số tiền thu được từ xử lý tài sản (sau khi trừ đi các chi phí có liên quan) được nộp vào ngân sách nhà nước.
Trường hợp đơn vị sự nghiệp công đã chấm dứt hoạt động nhưng chưa hoàn thành việc xử lý tài sản mà bộ, cơ quan trung ương, Ủy ban nhân dân cấp tinh, cấp huyện quyết định giao cho cơ quan quản lý cấp trên thực hiện thì việc quản lý, sử dụng số tiền thu được từ xử lý tài sản thực hiện theo quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản công áp dụng tương ứng với loại hình của cơ quan quản lý cấp trên.
Đơn vị sự nghiệp công khi thực hiện giải thể mà đang sử dụng tài sản công vào mục đích kinh doanh, cho thuê, liên doanh, liên kết thì phải chấm dứt hợp đồng đã ký và lập phương án xử lý đối với các tài sản mang đi kinh doanh, cho thuê, liên doanh, liên kết khi chấm dứt hợp đồng để tổng hợp chung vào phương án xử lý tài sản trong Đề án tổ chức lại trước khi trinh cấp có thẩm quyền phê duyệt Đề án theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều này.
Thông tư 56/2022/TT-BTC có hiệu lực từ ngày 01/11/2022.
PHƯƠNG HOA
Yêu cầu thí sinh cam kết đặt nguyện vọng 1 hay ‘đặt cọc’ là vi phạm quy chế
2. Đề xuất giá mua xe ô tô công phục vụ công tác chung tối đa là 950 triệu đồng/xe
(LSVN) - Bộ Tài chính đang lấy ý kiến góp ý của nhân dân với dự thảo nghị định quy định tiêu chuẩn, định mức sử dụng xe ô tô công. Theo đó, dự thảo quy định rõ giá mua xe ô tô phục vụ công tác chung được dự thảo nghị định quy định tối đa là 950 triệu đồng/xe.
Ảnh minh họa.
Theo dự thảo, giá mua xe ô tô phục vụ công tác chung được dự thảo nghị định quy định tối đa là 950 triệu đồng/xe.
Trường hợp cần thiết phải mua xe từ 12 -16 chỗ ngồi thì mức giá tối đa là 1,3 tỉ đồng/xe.
Trường hợp thường xuyên phải đi công tác đến địa bàn miền núi, hải đảo, địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn theo quy định của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ thì được trang bị xe ô tô 7 hoặc 8 chỗ ngồi 2 cầu với mức giá tối đa 1,6 tỉ đồng/xe.
Bên cạnh đó, Bộ Tài chính cũng cho biết, các đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc bộ, cơ quan trung ương được giao quyền tự chủ lớn. Vì vậy, định mức xe được quy định tại dự thảo căn cứ vào số biên chế được giao.
Trong đó, các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc lĩnh vực y tế, giáo dục và đào tạo, dạy nghề thường có số biên chế lớn hơn các đơn vị sự nghiệp công lập của các lĩnh vực khác, do đó, số biên chế để xác định định mức sử dụng xe cao hơn so với các đơn vị sự nghiệp công lập khác.
Đối với các đơn vị sự nghiệp công lập cấp tỉnh, tiêu chí xác định số lượng xe ô tô phục vụ công tác chung tương tự như với các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc bộ, cơ quan trung ương và tổng cục.
HOA LÊ
Đề xuất nhóm chức danh có tiêu chuẩn sử dụng xe ô tô công
3. Từ ngày 01/10/2022, người sử dụng lao động sẽ không còn được giảm mức đóng bảo hiểm thất nghiệp
(LSVN) - Từ ngày 01/10/2022, người sử dụng lao động sẽ không còn được giảm mức đóng bảo hiểm thất nghiệp. Mức đóng bảo hiểm thất nghiệp sẽ quay về mức 1% quỹ tiền lương tháng của những người lao động thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp.
Ảnh minh họa.
Trước đó, ngày 24/9/2021, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 116/NQ-CP trong đó hỗ trợ người sử dụng lao động bị ảnh hưởng bởi đại dịch Covid-19 từ Quỹ bảo hiểm thất nghiệp.
Theo đó, người sử dụng lao động được giảm mức đóng từ 1% xuống bằng 0% quỹ tiền lương tháng của những người lao động thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp.
Trong đó, đối tượng được giảm 1% mức đóng bảo hiểm thất nghiệp (từ ngày 01/10/2021 đến ngày 30/9/2022) là người sử dụng lao động đang tham gia bảo hiểm thất nghiệp trước ngày 01/10/2021.
Người sử dụng lao động nêu trên không bao gồm các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và đơn vị sự nghiệp công lập do ngân sách nhà nước bảo đảm chi thường xuyên.
Như vậy, từ ngày 01/10/2022, người sử dụng lao động sẽ không còn được giảm mức đóng bảo hiểm thất nghiệp. Mức đóng bảo hiểm thất nghiệp sẽ quay về mức 1% quỹ tiền lương tháng của những người lao động thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp.
Việc giảm mức đóng bảo hiểm thất nghiệp cho người sử dụng lao động trong thời gian qua là để hỗ trợ doanh nghiệp vượt qua khó khăn do dịch bệnh Covid-19. Tuy nhiên, hiện tại hầu hết các hoạt động kinh tế đã diễn ra bình thường, mức đóng bảo hiểm thất nghiệp từ ngày 01/10/2022 quay lại như trước khi dịch bệnh Covid-19 xảy ra là hoàn toàn phù hợp với tình hình thực tế, đảm bảo nguồn quỹ bảo hiểm thất nghiệp đủ để chia sẻ rủi ro giữa những người tham gia.
TIẾN NGUYỄN
Một số vấn đề về quyền thu thập chứng cứ của người bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự
4. Giải quyết thủ tục hành chính cho cá nhân, tổ chức đúng thời hạn, công khai, minh bạch
(LSVN) - Bộ Tài chính vừa ban hành Quy chế thực hiện cơ chế một cửa trong giải quyết thủ tục hành chính của bộ. Theo đó, nguyên tắc thực hiện cơ chế một cửa đó là: Sự hài lòng của tổ chức, cá nhân là thước đo chất lượng, hiệu quả phục vụ của cơ quan, công chức, viên chức theo quy định.
Ảnh minh họa.
Đáng chú ý, Quy chế nêu rõ phải đảm bảo giải quyết thủ tục hành chính cho cá nhân, tổ chức đúng thời hạn, đúng quy định, công khai, minh bạch; việc yêu cầu bổ sung hồ sơ chỉ được thực hiện không quá 1 lần trong suốt quá trình giải quyết thủ tục hành chính; không phát sinh chi phí thực hiện thủ tục hành chính ngoài quy định pháp luật.
Bộ phận một cửa không can thiệp vào quy trình giải quyết thủ tục hành chính nội bộ của đơn vị giải quyết thủ tục hành chính và có trách nhiệm kiểm tra, đôn đốc, theo dõi quá trình giải quyết thủ tục hành chính, đảm bảo việc giải quyết thủ tục hành chính đúng quy định.
Công chức của đơn vị giải quyết thủ tục hành chính không được trực tiếp tiếp nhận hồ sơ thủ tục hành chính của cá nhân, tổ chức, yêu cầu bổ sung hồ sơ hoặc trả kết quả thủ tục hành chính.
Đối với các thủ tục hành chính được giải quyết qua cơ chế một cửa, trường hợp hồ sơ còn thiếu hoặc cần làm rõ các nội dung có liên quan đến giải quyết thủ tục hành chính thì thông qua Bộ phận một cửa yêu cầu cá nhân, tổ chức bổ sung hồ sơ theo quy định.
Các thủ tục hành chính được cung cấp dưới hình thức dịch vụ công trực tuyến được thực hiện trên Hệ thống dịch vụ công trực tuyến của Bộ Tài chính.
Cục Tin học và Thống kê tài chính có trách nhiệm cải thiện, nâng cấp hệ thống dịch vụ công trực tuyến của Bộ Tài chính để đảm bảo thống nhất về chức năng, tính năng kỹ thuật với Hệ thống một cửa điện tử theo hướng dẫn của Bộ Thông tin và Truyền thông theo lộ trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.
Theo Quy chế, trước ngày đến hạn chậm nhất 0,5 ngày, đơn vị giải quyết thủ tục hành chính có trách nhiệm chuyển kết quả giải quyết thủ tục hành chính đến Bộ phận Một cửa và đồng bộ thông tin lên Hệ thống một cửa điện tử.
Bộ phận Một cửa trả kết quả cho tổ chức, cá nhân và cập nhật kết quả vào Hệ thống một cửa điện tử.
Đặc biệt, khuyến khích việc giải quyết thủ tục hành chính xong trước hạn trả kết quả. Trường hợp có kết quả giải quyết thủ tục hành chính trước hạn, đơn vị giải quyết thủ tục hành chính cập nhật thông tin vào Hệ thống một cửa điện tử và báo Bộ phận Một cửa thông báo cho tổ chức, cá nhân đến nhận kết quả.
Trường hợp đến hạn trả kết quả mà tổ chức, cá nhân chưa đến nhận, Bộ phận Một cửa có trách nhiệm lưu giữ trong thời hạn 01 năm. Trường hợp tổ chức, cá nhân có yêu cầu sao y bản chính kết quả giải quyết thủ tục hành chính, Bộ phận Một cửa là đầu mối, phối hợp
PHƯƠNG NGUYỄN
Một số vấn đề về quyền thu thập chứng cứ của người bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự
5. Cán bộ, công chức phải kê khai những loại tài sản gì của mình và người thân?
(LSVN) - Theo quy định của pháp luật, cán bộ, công chức phải kê khai những loại tài sản gì của mình và người thân? Bạn đọc T.L. hỏi.
Ảnh minh họa.
Liên quan đến vấn đề này, theo Ban Nội chính Trung ương, Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 quy định cán bộ, công chức không chỉ kê khai tài sản của mình mà còn phải kê khai tài sản của người thân.
Cụ thể, tại Điều 33, Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 quy định nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập như sau: Người có nghĩa vụ kê khai phải kê khai tài sản, thu nhập và biến động về tài sản, thu nhập của mình, của vợ hoặc chồng, con chưa thành niên theo quy định của Luật này.
Người có nghĩa vụ kê khai phải kê khai trung thực về tài sản, thu nhập, giải trình trung thực về nguồn gốc của tài sản, thu nhập tăng thêm theo trình tự, thủ tục quy định tại Luật này và chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc kê khai tài sản, thu nhập.
Theo Điều 35 quy định, cán bộ, công chức phải kê khai những loại tài sản, thu nhập sau của vợ hoặc chồng, con chưa thành niên.
Tài sản, thu nhập phải kê khai bao gồm: Quyền sử dụng đất, nhà ở, công trình xây dựng và tài sản khác gắn liền với đất, nhà ở, công trình xây dựng; Kim khí quý, đá quý, tiền, giấy tờ có giá và động sản khác mà mỗi tài sản có giá trị từ 50.000.000 đồng trở lên; Tài sản, tài khoản ở nước ngoài; Tổng thu nhập giữa 02 lần kê khai.
Giống như việc kê khai tài sản của bản thân, cán bộ, công chức phải kê khai tài sản, thu nhập của vợ/chồng, con theo quy định tại Điều 36 của Luật Phòng, chống tham nhũng. Điều 36, Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 quy định 03 phương thức và thời điểm kê khai tài sản, thu nhập là kê khai lần đầu, kê khai bổ sung và kê khai hằng năm. Theo đó, mỗi hình thức kê khai lại áp dụng với đối tượng cán bộ, công chức nói riêng. Cụ thể:
- Kê khai lần đầu được thực hiện đối với những trường hợp sau đây: (a) Người đang giữ vị trí công tác quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều 34 của Luật này tại thời điểm Luật này có hiệu lực thi hành. Việc kê khai phải hoàn thành trước ngày 31/12/2019; (b) Người lần đầu giữ vị trí công tác quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều 34 của Luật này. Việc kê khai phải hoàn thành chậm nhất là 10 ngày kể từ ngày được tiếp nhận, tuyển dụng, bố trí vào vị trí công tác.
- Kê khai bổ sung được thực hiện khi người có nghĩa vụ kê khai có biến động về tài sản, thu nhập trong năm có giá trị từ 300.000.000 đồng trở lên. Việc kê khai phải hoàn thành trước ngày 31/12 của năm có biến động về tài sản, thu nhập, trừ trường hợp đã kê khai theo quy định tại Khoản 3, Điều 36.
- Kê khai hằng năm được thực hiện đối với những trường hợp sau đây: (a) Người giữ chức vụ từ Giám đốc sở và tương đương trở lên. Việc kê khai phải hoàn thành trước ngày 31/12; (b) Người không thuộc quy định tại điểm a khoản này làm công tác tổ chức cán bộ, quản lý tài chính công, tài sản công, đầu tư công hoặc trực tiếp tiếp xúc và giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân khác theo quy định của Chính phủ. Việc kê khai phải hoàn thành trước ngày 31/12.
Bên cạnh đó, việc kê khai phục vụ công tác cán bộ được thực hiện đối với những trường hợp sau đây:
- Người có nghĩa vụ kê khai quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều 34 của Luật Phòng, chống tham nhũng khi dự kiến bầu, phê chuẩn, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, cử giữ chức vụ khác. Việc kê khai phải hoàn thành chậm nhất là 10 ngày trước ngày dự kiến bầu, phê chuẩn, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, cử giữ chức vụ khác;
- Người có nghĩa vụ kê khai quy định tại khoản 4, Điều 34 của Luật này. Thời điểm kê khai được thực hiện theo quy định của pháp luật về bầu cử.
Điều 10, Nghị định số 130/2020/NĐ-CP, ngày 30/10/2020 của Chính phủ hướng dẫn cụ thể về người có nghĩa vụ kê khai 02 trường hợp theo quy định tại Điểm b, Khoản 3, Điều 36 của Luật Phòng, chống tham nhũng gồm:
- Các ngạch công chức và chức danh sau đây: Chấp hành viên; Điều tra viên; Kế toán viên; Kiểm lâm viên; Kiểm sát viên; Kiểm soát viên ngân hàng; Kiểm soát viên thị trường; Kiểm toán viên; Kiểm tra viên của Đảng; Kiểm tra viên hải quan; Kiểm tra viên thuế; Thanh tra viên; Thẩm phán.
- Những người giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý từ Phó Trưởng phòng và tương đương trở lên công tác trong một số lĩnh vực được xác định trong danh mục tại Phụ lục III được ban hành kèm theo Nghị định số 130/2020/NĐ-CP.
- Người đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp.
Có thể thấy, đây là các đối tượng có cơ hội tham nhũng, có nguy cơ tham nhũng cao hơn so với các nhóm khác nên phải kiểm soát thu nhập, tài sản hằng năm.
Để thực hiện kế hoạch xác minh, tại Khoản 3, Điều 15, Nghị định 130/2020 nêu rõ: Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày kế hoạch xác minh được ban hành. Cơ quan kiểm soát tài sản, thu nhập tổ chức lựa chọn ngẫu nhiên người được xác minh.
Việc lựa chọn được thực hiện công khai bằng hình thức bốc thăm hoặc sử dụng phần mềm máy tính. Cơ quan kiểm soát tài sản, thu nhập mời đại diện Ủy ban kiểm tra Đảng và Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp dự và chứng kiến việc lựa chọn ngẫu nhiên người được xác minh. Số lượng người được lựa chọn để xác minh ngẫu nhiên phải bảo đảm tối thiểu 10% số người có nghĩa vụ kê khai hàng năm tại mỗi cơ quan, tổ chức, đơn vị được xác minh, trong đó có ít nhất 01 người là người đứng đầu hoặc cấp phó của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị.
PV
Yêu cầu thí sinh cam kết đặt nguyện vọng 1 hay ‘đặt cọc’ là vi phạm quy chế
6. Na Uy tạm đình chỉ thỏa thuận đơn giản hóa thị thực đối với Nga
(LSVN) - Cơ quan di trú Na Uy ngày 22/9 thông báo nước này đã đình chỉ thỏa thuận với Nga về cơ chế đơn giản hóa thị thực. Quyết định này của Chính phủ Na Uy được ban hành theo tinh thần khuyến nghị của Liên minh châu Âu (EU).
Một số nước châu Âu siết chặt quy định cấp thị thực cho công dân Nga. Ảnh minh họa: Shutterstock.
Trước đó, một số nước châu Âu khác cũng đã siết chặt quy định cấp thị thực cho công dân Nga. Ngày 16/9, Thụy Sĩ đã quyết định "đình chỉ hoàn toàn" thỏa thuận hồi năm 2009 về nới lỏng quy định cấp thị thực cho công dân Nga. Các quốc gia EU giáp Nga như Phần Lan, Ba Lan, Estonia, Latvia và Litva cũng đã siết chặt kiểm soát biên giới và kêu gọi cấm thị thực hoàn toàn đối với công dân Nga.
Các nước đưa ra quyết định trên sau khi ngày 09/9, Hội đồng châu Âu đã thông qua quyết định đình chỉ hoàn toàn thỏa thuận tạo điều kiện cấp thị thực giữa EU và Nga, được ký kết hồi năm 2007. Theo đó, các quy tắc chung liên quan mã thị thực sẽ được áp dụng cho công dân Nga. Điều này sẽ dẫn đến việc tăng lệ phí xin thị thực từ 35 euro (35 USD) lên 80 euro, bắt buộc xuất trình tài liệu bổ sung, kéo dài thời gian giải quyết đơn xin thị thực, cũng như áp dụng các quy tắc hạn chế hơn đối với việc cấp thị thực nhập cảnh nhiều lần.
Đây được cho là một trong những biện pháp trừng phạt của phương Tây nhằm vào Nga liên quan đến vấn đề Ukraine, tuy nhiên vẫn có nước không đồng ý với quan điểm này. Ngoại trưởng Hungary Peter Szijjarto ngày 23/9 cho rằng nước này coi việc theo đuổi một gói trừng phạt mới chống lại Nga là "vô nghĩa". Theo ông Szijjarto, lập trường của Hungary là rất rõ ràng, nước này không nhận thấy có lý do hợp lý nào để theo đuổi một gói trừng phạt mới, đặc biệt là về năng lượng, đối với Nga. Ông cũng khẳng định các biện pháp trừng phạt chống Nga đang đi ngược lại lợi ích của toàn châu Âu khi nền kinh tế khu vực này đang tiến tới suy thoái.
HOA LÊ/TTXVN
Tòa án Mỹ cho phép Bộ Tư pháp tiếp tục điều tra cựu Tổng thống Donald Trump
7. Dự thảo Luật Nhà ở (sửa đổi): Đề xuất bổ sung Điều mới về chuyển đổi công năng nhà ở
(LSVN) - Đây là một trong những đề xuất đáng chú ý của Bộ Xây dựng tại dự thảo Luật Nhà ở (sửa đổi) đang lấy ý kiến của nhân dân.
Ảnh minh họa.
Theo đó, tại Điều 136 dự thảo, Bộ Xây dựng đề xuất bổ sung Điều mới về chuyển đổi công năng nhà ở. Cụ thể, việc chuyển đổi công năng nhà ở quy định tại Điều này chỉ áp dụng đối với nhà ở đã hoàn thành đầu tư xây dựng và không còn nhu cầu sử dụng theo mục tiêu đã được phê duyệt ban đầu; trường hợp nhà ở đang xây dựng thì thực hiện thay đổi mục tiêu đầu tư theo quy định của pháp luật về đầu tư.
Trường hợp chuyển đổi từ nhà ở tái định cư sang nhà ở xã hội để bán hoặc cho thuê thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định cho phép chuyển đổi.
Trường hợp chuyển đổi từ nhà ở tái định cư sang nhà ở thương mại để bán hoặc cho thuê thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh tổ chức bán đấu giá theo quy định của pháp luật về đấu giá, trong giá bán bao gồm cả tiền sử dụng đất; trường hợp đấu giá hai lần không thành thì thực hiện bán theo giá tương đương với nhà ở thương mại cùng loại tại khu vực có nhà ở.
Đối với nhà ở công vụ hoặc nhà ở xã hội thuộc sở hữu nhà nước nếu không còn nhu cầu bố trí để cho thuê hoặc phải di dời đến địa điểm khác theo quy hoạch mà không thuộc diện phải phá dỡ thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh lập đề án gửi Bộ Xây dựng thẩm định để báo cáo Thủ tướng Chính phủ quyết định việc chuyển đổi công năng sử dụng và thực hiện quản lý cho thuê hoặc bán theo quy định tại Luật này.
Đối với nhà ở cũ thuộc sở hữu nhà nước đang cho thuê nhưng người thuê trả lại và địa phương có nhu cầu chuyển đổi công năng thành nhà ở công vụ để cho thuê thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh căn cứ vào quy định về loại nhà, tiêu chuẩn nhà ở công vụ quy định tại Luật này để xem xét, quyết định.
Đối với nhà ở thuộc sở hữu nhà nước đang cho thuê mà thuộc diện thu hồi theo quy định tại khoản 1 Điều 140 của Luật này và địa phương không còn nhu cầu bố trí cho thuê thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh lập Đề án bán nhà ở gửi lấy ý kiến thống nhất của Bộ Xây dựng trước khi bán. Việc bán nhà ở này thực hiện theo quy định về bán nhà ở xã hội thuộc sở hữu nhà nước.
Các trường hợp bán nhà ở quy định tại khoản 2 Điều này nhưng được xây dựng bằng nguồn vốn ngân sách trung ương và nhà ở quy định tại khoản 3, khoản 5 Điều này thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phải lập Đề án chuyển đổi công năng, lấy ý kiến thống nhất của Bộ Xây dựng trước khi thực hiện.
VĂN QUANG
Bộ Xây dựng đề xuất 2 phương án quy định về thời hạn sở hữu nhà chung cư
8. Đề nghị kéo dài thực hiện Nghị quyết 30 của Quốc hội về phòng, chống dịch
(LSVN) - Trên cơ sở kết quả tổng kết Nghị quyết số 30/2021/QH15 mà Chính phủ đã thảo luận, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính giao Bộ Y tế chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan hoàn thiện dự thảo trình Quốc hội cho phép tiếp tục thực hiện những giải pháp, cơ chế chính sách và giải quyết những khó khăn, vướng mắc từ thực tiễn phòng chống dịch.
Ảnh minh họa.
Đây là một trong những nội dung đáng chú ý tại phiên họp chuyên đề về xây dựng pháp luật tháng 9 năm 2022 của Chính phủ.
Tại phiên họp, Chính phủ nghe dự thảo, tờ trình và cho ý kiến đối với Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021 - 2030; đề nghị xây dựng Luật Công chứng, Luật Khoáng sản sửa đổi, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Dược; đề xuất kéo dài thực hiện Nghị quyết số 30/2021/QH15 của Quốc hội về công tác phòng, chống dịch Covid-19.
Trong đó, đối với việc tổng kết thực hiện Nghị quyết số 30/2021/QH15 ngày 28/7/2021 kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa XV, Thủ tướng Chính phủ cho rằng, Nghị quyết này đã tạo cơ sở pháp lý, tăng tính chủ động cho Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các địa phương trong công tác phòng, chống dịch Covid-19; góp phần giúp công tác phòng, chống dịch Covid-19 hiệu quả. Bên cạnh đó, trong quá trình thực hiện, tình hình có những diễn biến mới.
Do đó cần sơ kết, tổng kết, đánh giá, chính xác kết quả, hiệu quả của Nghị quyết; đề xuất tiếp tục kéo dài thực hiện các chính sách, đặc biệt bổ sung, điều chỉnh chính sách kịp thời đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn cuộc sống; trên tinh thần đặt sức khỏe, tính mạng của người dân lên trên hết, trước hết.
Thủ tướng nhấn mạnh, trên cơ sở kết quả tổng kết Nghị quyết số 30/2021/QH15 mà Chính phủ đã thảo luận, giao Bộ Y tế chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan hoàn thiện dự thảo trình Quốc hội cho phép tiếp tục thực hiện những giải pháp, cơ chế chính sách và giải quyết những khó khăn, vướng mắc từ thực tiễn phòng chống dịch.
VĂN QUANG
Chính phủ thống nhất cần thiết xây dựng, ban hành Luật Công chứng
9. Rà soát toàn diện, tiếp tục hoàn thiện nhiều vấn đề lớn của Dự án Luật Đất đai (sửa đổi)
(LSVN) - Phát biểu giải trình một số vấn đề tại Phiên họp chuyên đề pháp luật tháng 9/2022 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội vừa qua, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà cho biết cơ quan soạn thảo sẽ tiếp thu tối đa, nghiên cứu kỹ lưỡng các ý kiến, từ đó hoàn thiện Dự án Luật chặt chẽ hơn nữa, toàn diện hơn nữa, đảm bảo chất lượng cao.
Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà.
Trong thời gian qua, Quốc hội đã có sự đồng hành, phối hợp cùng Chính phủ trong việc xây dựng nội dung, hồ sơ dự án Luật quan trọng này. Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường nhấn mạnh, đây là Dự án Luật hết sức quan trọng, nội dung rộng lớn, liên quan đến chính trị, văn hóa, kinh tế, quốc phòng – an ninh, lịch sử, nên nội dung tương đối phức tạp. Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường mong Ủy ban Kinh tế, Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội, các đại biểu Quốc hội tiếp tục đồng hành, góp ý, phối hợp chặt chẽ với cơ quan soạn thảo để Dự án Luật đạt được mục tiêu kiến tạo không gian phát triển, sử dụng hiệu quả nguồn lực đất đai, tháo gỡ những vướng mắc trong hiện tại.
Đối với các trường hợp nhà nước thu hồi đất, Bộ trưởng cho biết, Dự án Luật đã quy định trường hợp thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh, thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng. Tuy nhiên rất khó để đưa điều kiện, tiêu chí toàn diện về vấn đề này, tiếp thu các ý kiến tại phiên họp.
Cơ quan soạn thảo sẽ tiếp tục tiếp thu để nghiên cứu, làm rõ nội hàm việc thu hồi đất đảm bảo lợi ích quốc gia, dân tộc. Đồng thời, cũng nghiên cứu mở rộng quỹ đất theo hướng tuyến đường để mở rộng các đường giao thông, lấy nguồn lực đất đai để tiếp tục phát triển hạ tầng giao thông, phục vụ mục đích phát triển kinh tế- xã hội.
Liên quan đến hợp đồng thuê đất trả tiền hàng năm, Bộ trưởng Trần Hồng Hà cho biết, việc bổ sung quy định này nhằm góp phần khuyến khích việc thực hiện hình thức cho thuê đất thu tiền thuê đất hằng năm, đồng thời, thể chế hóa yêu cầu của Nghị quyết số 18-NQ/TW về “đẩy mạnh thương mại hóa quyền sử dụng đất”. Tuy nhiên, “quyền thuê trong hợp đồng thuê đất trả tiền hằng năm” là một khái niệm mới, Cơ quan soan thảo sẽ tiếp tục làm rõ và đánh giá tác động của quy định này; đảm bảo hài hòa lợi ích của nhà nước và các doanh nghiệp.
Ngoài ra, đối với vấn đề về áp dụng pháp luật, Bộ trưởng cho biết, Luật Đất đai nằm ở trung tâm việc phát triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng, có nhiều nội dung giao thoa với các bộ luật khác. Tính ổn định của Luật Đất đai quyết định tính ổn định của tình hình chính trị, xã hội, chất lượng thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng. Kế thừa các nghiên cứu từ các luật khác, tại Điều 4 trong Dự án Luật này quy định đúng theo Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, đồng thời đảm bảo phù hợp với tình hình thực tiễn, góp phần điều chỉnh, xử lý các mối quan hệ trong hệ thống pháp luật.
Các quy định trong Điều 4 này cũng hướng đến làm rõ, điều chỉnh mối quan hệ giữa Luật Đất đai 2023 với các Luật khác, chứ không phải Luật Đất đai 2013, nên sẽ không chỉ giải quyết các vấn đề chồng chéo trước đây, mà còn hướng đến giảm thiểu các mâu thuẫn, chồng chéo của Luật sắp ban hành.
HÀ ANH
Chính phủ thống nhất cần thiết xây dựng, ban hành Luật Công chứng
CHIỀU
1. Đề xuất các mức phí bảo hiểm cho thời hạn 1 năm từ 55.000 đồng
(LSVN) - Đây là đề xuất của Bộ Tài chính tại dự thảo Nghị định quy định về bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc, bảo hiểm bắt buộc trong hoạt động đầu tư xây dựng.
Ảnh minh họa.
Theo dự thảo, phí bảo hiểm cho thời hạn 1 năm (đã bao gồm thuế giá trị gia tăng) như sau:
- Đối với xe mô tô 2 bánh: Từ 50 cc trở xuống, mức phí là 55.000 đồng; trên 50 cc là 60.000 đồng.
- Đối với xe ô tô không kinh doanh vận tải: Loại xe dưới 6 chỗ ngồi, phí là 437.000 đồng; loại xe từ 6 đến 11 chỗ ngồi, mức phí là 794.000 đồng.
- Xe ô tô kinh doanh vận tải: Dưới 6 chỗ ngồi theo đăng ký, mức phí là 756.000 đồng; 6 chỗ ngồi theo đăng ký, mức phí là 929.000 đồng.
- Xe ô tô chở hàng (xe tải): Dưới 3 tấn, mức phí 853.000 đồng; từ 3 đến 8 tấn, mức phí 1.660.000 đồng…
Dự thảo Nghị định quy định về bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới như sau:
- Số tiền bảo hiểm tối thiểu (Mức trách nhiệm bảo hiểm) đối với thiệt hại về sức khỏe, tính mạng do xe cơ giới gây ra là 150 triệu đồng cho một người trong một vụ tai nạn.
- Số tiền bảo hiểm tối thiểu (Mức trách nhiệm bảo hiểm) đối với thiệt hại về tài sản: Do xe mô tô hai bánh; xe mô tô ba bánh; xe gắn máy (kể cả xe máy điện) và các loại xe có kết cấu tương tự theo quy định của Luật Giao thông đường bộ gây ra là 50 triệu đồng trong một vụ tai nạn.
- Số tiền bảo hiểm tối thiểu (Mức trách nhiệm bảo hiểm) đối với thiệt hại về tài sản: Do xe ô tô; máy kéo; rơ moóc hoặc sơ mi rơ moóc được kéo bởi xe ô tô, máy kéo; xe máy chuyên dùng theo quy định của Luật Giao thông đường bộ gây ra là 100 triệu đồng trong một vụ tai nạn.
HƯNG NGUYỄN
Yêu cầu thí sinh cam kết đặt nguyện vọng 1 hay ‘đặt cọc’ là vi phạm quy chế
2. Hướng dẫn xếp lương viên chức biên tập viên, phóng viên, biên dịch viên từ 10/10/2022
(LSVN) - Từ ngày 10/10/2022, Thông tư số 13/2022/TT-BTTTT chính thức có hiệu lực sẽ áp dụng cách xếp lương của viên chức biên tập viên, phóng viên, biên dịch viên, đạo diễn truyền hình thuộc chuyên ngành thông tin và truyền thông.
Ảnh minh họa.
Thông tư quy định rõ về nguyên tắc xếp lương. Theo đó, việc bổ nhiệm và xếp lương vào chức danh nghề nghiệp viên chức biên tập viên, phóng viên, biên dịch viên, đạo diễn truyền hình thuộc chuyên ngành thông tin và truyền thông quy định tại Thông tư này phải căn cứ vào vị trí việc làm, chức trách, nhiệm vụ chuyên môn nghiệp vụ đang đảm nhận của viên chức.
Khi bổ nhiệm từ chức danh nghề nghiệp viên chức hiện giữ sang chức danh nghề nghiệp biên tập viên, phóng viên, biên dịch viên, đạo diễn truyền hình thuộc chuyên ngành thông tin và truyền thông tương ứng không được kết hợp nâng bậc lương hoặc thăng hạng chức danh nghề nghiệp viên chức.
Điều 17 Thông tư 13 quy định các chức danh nghề nghiệp viên chức biên tập viên, phóng viên, biên dịch viên, đạo diễn truyền hình thuộc chuyên ngành Thông tin và Truyền thông quy định tại Thông tư này được áp dụng Bảng lương chuyên môn, nghiệp vụ đối với cán bộ, viên chức trong các đơn vị sự nghiệp của Nhà nước (Bảng 3) ban hành kèm theo Nghị định số 204/2004/NĐ-CP ngày 14 tháng 12 năm 2004 của Chính phủ về chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang (sau đây viết tắt là Nghị định số 204/2004/NĐ-CP), như sau:
- Chức danh nghề nghiệp biên tập viên hạng I, phóng viên hạng I, biên dịch viên hạng I, đạo diễn truyền hình hạng I được áp dụng hệ số lương của viên chức loại A3, nhóm 1 (A3.1) từ hệ số lương 6,20 đến hệ số lương 8,00;
- Chức danh nghề nghiệp biên tập viên hạng II, phóng viên hạng II, biên dịch viên hạng II, đạo diễn truyền hình hạng II được áp dụng hệ số lương của viên chức loại A2, nhóm 1 (A2.1) từ hệ số lương 4,40 đến hệ số lương 6,78;
- Chức danh nghề nghiệp biên tập viên hạng III, phóng viên hạng III, biên dịch viên hạng III, đạo diễn truyền hình hạng III được áp dụng hệ số lương của viên chức loại A1 từ hệ số lương 2,34 đến hệ số lương 4,98.
Việc xếp lương đối với viên chức từ chức danh nghề nghiệp hiện giữ sang chức danh nghề nghiệp viên chức biên tập viên, phóng viên, biên dịch viên, đạo diễn truyền hình thuộc chuyên ngành Thông tin và Truyền thông được thực hiện theo hướng dẫn tại khoản 2 Mục II Thông tư số 02/2007/TT-BNV ngày 25/5/2007 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ hướng dẫn xếp lương khi nâng ngạch, chuyển ngạch, chuyển loại công chức, viên chức (sau đây gọi tắt là Thông tư số 02/2007/TT-BNV).
THU HƯƠNG
Đề xuất giao dịch bất động sản bắt buộc phải qua sàn: Liệu có hợp lý?
3. Hướng dẫn người dân các lợi ích khi sử dụng dịch vụ tư pháp công trực tuyến
(LSVN) - Tòa án nhân dân Tối cao yêu cầu Chánh án các Tòa án nhân dân thực hiện thí điểm hướng dẫn cho người dân, doanh nghiệp về các lợi ích, tiện ích khi sử dụng dịch vụ tư pháp công trực tuyến thu, nộp tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án trên Cổng dịch vụ công Quốc gia.
Ảnh minh họa.
Từ 01/10, Tòa án nhân dân Tối cao triển khai thí điểm dịch vụ tư pháp công trực tuyến thu, nộp tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án trên Cổng dịch vụ công Quốc gia.
Cụ thể, thời điểm thực hiện thí điểm tại Hà Nội sẽ từ ngày 01/10/2022 đến hết 31/10/2022 tại các Tòa án nhân dân các quận, huyện: Long Biên, Đống Đa, Hoàn Kiếm, Gia Lâm, Hai Bà Trưng.
Theo quy định, Chánh án các Tòa án nhân dân được chọn triển khai thí điểm chịu trách nhiệm chủ trì, phối hợp với Vụ Tổng hợp Tòa án nhân dân Tối cao tổ chức triển khai dịch vụ tư pháp công trực tuyến thu, nộp tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án trên Cổng dịch vụ công Quốc gia tại đơn vị.
Bên cạnh đó, chỉ đạo các cán bộ, công chức thực hiện nghiêm túc việc triển khai thí điểm dịch vụ tư pháp công trực tuyến thu, nộp tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án trên Cổng dịch vụ công Quốc gia.
Đồng thời, tuyên truyền, hướng dẫn cho người dân, doanh nghiệp về các lợi ích, tiện ích khi sử dụng dịch vụ tư pháp công trực tuyến thu, nộp tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án trên Cổng dịch vụ công Quốc gia.
VĂN QUANG
Một số vấn đề về quyền thu thập chứng cứ của người bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự
4. Bộ Tài chính lưu ý nhà đầu tư 5 vấn đề khi mua trái phiếu doanh nghiệp
(LSVN) - Trước thực trạng thị trường trái phiếu doanh nghiệp phát triển nhanh và phát sinh nhiều rủi ro, Bộ Tài chính đã thường xuyên khuyến nghị các nhà đầu tư tham gia thị trường trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ cần thận trọng, tìm hiểu quy định pháp luật và năng lực, hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phát hành, nắm rõ những rủi ro đối với trái phiếu doanh nghiệp trước khi quyết định đầu tư.
Ảnh minh họa.
Trong đó, theo Bộ Tài chính, đối với các nhà đầu tư cá nhân, khi cân nhắc tham gia mua trái phiếu doanh nghiệp, cần lưu ý các nội dung sau:
Một là, trái phiếu doanh nghiệp không phải là tiền gửi ngân hàng. Trái phiếu doanh nghiệp được doanh nghiệp phát hành theo nguyên tắc tự vay, tự trả, tự chịu trách nhiệm về khả năng trả nợ. Do đó, nhà đầu tư mua trái phiếu doanh nghiệp là có rủi ro, khi doanh nghiệp không đảm bảo được nghĩa vụ trả nợ gốc, lãi trái phiếu.
Hai là, khi được giới thiệu mua trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ, nhà đầu tư phải lưu ý các quy định của pháp luật chỉ cho phép nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp được mua trái phiếu doanh nghiệp phát hành riêng lẻ. Nếu nhà đầu tư không phải nhà đầu tư chuyên nghiệp thì không được mua loại trái phiếu này.
Ba là, các tổ chức tín dụng, công ty chứng khoán phân phối chào mời mua trái phiếu doanh nghiệp không có nghĩa là các tổ chức này đảm bảo an toàn cho việc mua trái phiếu. Các tổ chức này chỉ là doanh nghiệp cung cấp dịch vụ, hưởng phí dịch vụ từ doanh nghiệp phát hành mà không chịu trách nhiệm về khả năng trả nợ của doanh nghiệp phát hành.
Bốn là, bảo lãnh phát hành trái phiếu không phải là bảo lãnh thanh toán trái phiếu. Bảo lãnh phát hành chỉ là việc tổ chức bảo lãnh có cam kết với doanh nghiệp phát hành để phân phối số trái phiếu cần phát hành, vì thế không có bất kỳ nghĩa vụ nào với nhà đầu tư. Đối với bảo lãnh thanh toán, nhà đầu tư cũng cần tìm hiểu kỹ phạm vi bảo lãnh (bảo lãnh thanh toán gốc, lãi hay chỉ một phần gốc, lãi và nhà đầu tư sẽ phải chịu rủi ro đối với phần còn lại).
Năm là, tài sản đảm bảo của trái phiếu doanh nghiệp hay các khoản vay tín dụng có nhiều loại như nhà đất, cổ phần, cổ phiếu, các chương trình, dự án đầu tư...
Trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ hiện nay phần lớn tài sản đảm bảo là bất động sản và các chương trình, dự án, chứng khoán hoặc kết hợp các loại tài sản (bất động sản, chứng khoán).
Thông tin về tài sản đảm bảo được các doanh nghiệp phát hành nêu tại bản công bố thông tin, nhà đầu tư cần tìm hiểu kỹ về điều kiện của tài sản đảm bảo, chất lượng, giá trị của tài sản đảm bảo và các kết quả về bảo đảm của doanh nghiệp phát hành.
Nhà đầu tư cần lưu ý rằng, đối với các tài sản đảm bảo là các dự án, tài sản hình thành trong tương lai hoặc cổ phiếu, khi thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản có nhiều biến động, giá trị tài sản đảm bảo có thể bị sụt giảm và không đủ để thanh toán gốc, lãi trái phiếu.
Mọi hành vi "lách" các quy định của pháp luật để trở thành nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp không chỉ khiến nhà đầu tư chịu nhiều rủi ro, tổn thất khi mua trái phiếu (có thể mất toàn bộ tiền đầu tư) mà còn là hành vi vi phạm pháp luật. Cơ quan quản lý nhà nước sẽ thực hiện thanh kiểm tra để xử lý nghiêm minh những hành vi lách quy định này của pháp luật.
PV
Cảnh giác việc ký kết các 'Hợp đồng đầu tư trái phiếu' với các tổ chức trung gian
5. 10 nội dung đổi mới đáng chú ý tại Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi)
(LSVN) - Đây là một trong những nội dung tại Tờ trình về Dự án Luật Đất đai (sửa đổi) Chính phủ vừa trình Quốc hội. Theo Tờ trình, Dự thảo luật đã thể chế các định hướng trong Văn kiện Đại hội Đảng khóa XIII, các Nghị quyết của Đảng, của Quốc hội. Đặc biệt đã thể chế hóa 3 mục tiêu tổng quát, 6 mục tiêu cụ thể, 6 nhóm giải pháp và 8 nhóm chính sách lớn tại Nghị quyết số 18-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương và giải quyết các vấn đề đặt ra từ thực tiễn, phù hợp với xu thế phát triển.
Ảnh minh họa.
Trong đó, Dự thảo Luật có 10 nội dung đổi mới. Cụ thể, đổi mới và nâng cao chất lượng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. Các quy hoạch quốc gia cũng như quy hoạch sử dụng đất và các quy hoạch ngành, lĩnh vực phải đảm bảo phù hợp, thống nhất, đồng bộ, gắn kết chặt chẽ thúc đẩy lẫn nhau để phát triển.
Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất được lập ở cấp quốc gia, cấp tỉnh, cấp huyện, đáp ứng yêu cầu thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nhanh, bền vững; đảm bảo quốc phòng, an ninh; bảo vệ môi trường, thích ứng với BĐKH.
Nội dung quy hoạch sử dụng đất phải kết hợp giữa chỉ tiêu các loại đất gắn với không gian, phân vùng sử dụng đất, hệ sinh thái tự nhiên, thể hiện được thông tin đến từng thửa đất.
Hoàn thiện các quy định về giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất. Thực hiện việc giao đất, cho thuê đất chủ yếu thông qua đấu giá quyền sử dụng đất, đấu thầu dự án có sử dụng đất. Quy định chặt chẽ các trường hợp giao đất, cho thuê đất một lần, phù hợp với tính chất, mục đích sử dụng đất, đảm bảo nguồn thu ổn định.
Quy định điều kiện giao đất, cho thuê đất đối với tổ chức tôn giáo phù hợp quỹ đất hiện có của địa phương; tổ chức tôn giáo có sử dụng đất vào mục đích khác phải trả tiền thuê đất cho Nhà nước theo quy định của pháp luật.
Quy định cụ thể hơn về thẩm quyền, mục đích, phạm vi thu hồi đất, điều kiện, tiêu chí cụ thể việc Nhà nước thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng. Hoàn thiện quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, thu hồi đất vì mục đích quốc phòng an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng.
Việc bồi thường, hỗ trợ tái định cư phải đi trước một bước, bảo đảm công khai, minh bạch, hài hòa lợi ích của Nhà nước, người có đất bị thu hồi và nhà đầu tư; quy định cụ thể vể bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, đào tạo việc làm để người dân có đất bị thu hồi phải có chỗ ở, đảm bảo cuộc sống bằng hoặc tốt hơn.
Quy định cụ thể việc khai thác hiệu quả quỹ đất phụ cận để phát huy nguồn lực đất đai cho phát triển kinh tế - xã hội và các cơ chế góp quyền sử dụng đất, điều chỉnh lại đất đai, chỉnh trang đô thị và khu dân cư nông thôn.
Hoàn thiện cơ chế xác định giá đất theo nguyên tắc thị trường, các cơ chế kiểm tra, giám sát của Trung ương và HĐND cấp tỉnh trong việc xây dựng bảng giá đất. Bổ sung, hoàn thiện các quy định đảm bảo công khai, mịnh bạch như: công khai giá đất, bắt buộc phải giao dịch qua các sàn giao dịch đối với các dự án khu dân cư, khu đô thị, nhà ở thương mại.
Hoàn thiện cơ chế, chính sách tài chính về đất đai bảo đảm hài hòa lợi ích của Nhà nước, người sử dụng đất và nhà đầu tư; có cơ chế điều tiết hợp lý, hiệu quả các nguồn thu từ tiền sử dụng đất, tiền thuê đất giữa Trung ương và địa phương; điều tiết chênh lệch địa tô, bảo đảm công khai, minh bạch.
Quy định mức thuế cao hơn đối với người sử dụng nhiều diện tích đất, nhiều nhà ở, đầu cơ đất, chậm sử dụng đất, bỏ đất hoang. Thể chế chính sách ưu đãi thông qua việc miễn, giảm tiền sử dụng đất, tiền thuê đất phù hợp với lĩnh vực, địa bàn ưu đãi đầu tư và các đối tượng chính sách.
Hoàn thiện các quy định pháp luật có liên quan đến thị trường bất động sản, trong đó có thị trường quyền sử dụng đất. Đẩy mạnh thương mại hóa quyền sử dụng đất. Xây dựng hệ thống thông tin thị trường bất động sản gắn với thông tin đất đai; có chính sách khuyến khích phát triển thị trường quyền sử dụng đất, nhất là thị trường cho thuê đất nông nghiệp.
Hoàn thiện các chế định về điều tiết của Nhà nước để đảm bảo thị trường bất động sản phát triển lành mạnh, an toàn, bền vững. Thực hiện đăng ký bắt buộc về quyền sử dụng đất và mọi biến động đất đai, đồng thời có chế tài cụ thể, đồng bộ ngăn chặn các trường hợp giao dịch không đăng ký tại cơ quan Nhà nước.
Hoàn thiện cơ chế, chính sách về quản lý, sử dụng đất nông nghiệp theo hướng mở rộng đối tượng, hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp, quy dịnh để người sử dụng đất nông nghiệp được chuyển đổi mục đích sản xuất cây trồng, vật nuôi, nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp theo quy hoạch.
Tăng cường quản lý chất lượng đất, khắc phục tình trạng thoái hóa, suy giảm chất lượng đất. Quy định về ngân hàng cho thuê đất nông nghiệp. Có các quy định để quản lý, sử dụng hiệu quả đất đai có nguồn gốc từ nông, lâm trường và giải quyết đất ở, đất sản xuất cho đồng bào dân tộc.
Quy định về quản lý và sử dụng đất kết hợp đa mục đích, đất ở kết hợp với thương mại, dịch vụ; đất nông nghiệp kết hợp với thương mai, dịch vụ; đất quốc phòng, an ninh kết hợp với kinh tế; đất dự án du lịch có yếu tố tâm linh; đất xây dựng công trình trên không, công trình ngầm, đất hình thành từ hoạt động lấn biển.
Đẩy mạnh cải cách hành chính, chuyển đổi số trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất; bảo đảm quản lý, vận hành, kết nối và chia sẻ thông tin tập trung, thống nhất từ Trung ương đến địa phương. Đồng thời tiếp tục đẩy mạnh phân cấp, phân quyền đi đôi với giám sát, kiểm soát quyền lực.
Đổi mới, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm; giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo liên quan đến đất đai.
PHƯƠNG HOA
Đề xuất giao dịch bất động sản bắt buộc phải qua sàn: Liệu có hợp lý?
6. Chính phủ yêu cầu Bộ Y tế khẩn trương ban hành các danh mục dịch vụ y tế
(LSVN) - Ngày 20/9/2022, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam vừa ký Chỉ thị số 16/CT-TTg về nâng cao công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân; chủ động thích ứng linh hoạt, góp phần phục hồi nhanh, phát triển bền vững. Trong đó, Chính phủ yêu cầu Bộ Y tế khẩn trương ban hành các danh mục dịch vụ y tế.
Ảnh minh họa.
Chỉ thị nêu rõ, Chính phủ yêu cầu Bộ Y tế khẩn trương ban hành các danh mục dịch vụ y tế, đặc biệt là danh mục dịch vụ y tế dự phòng.
Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương rà soát, kiện toàn đội ngũ, nâng cao năng lực ngành Y tế, đặc biệt là hệ thống y tế cơ sở, y tế dự phòng trên địa bàn. Đẩy nhanh tiến độ hoàn thiện thủ tục đầu tư và triển khai các dự án đầu tư hệ thống y tế cơ sở, y tế dự phòng sử dụng nguồn vốn từ Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm nguồn nhân lực để vận hành, khai thác sử dụng đúng mục đích, hiệu quả, tránh lãng phí;
Đồng thời, bố trí kinh phí từ ngân sách nhà nước mua vaccine, sinh phẩm y tế bắt buộc và các nhiệm vụ thường xuyên khác thuộc Chương trình mục tiêu Y tế - Dân số giai đoạn 2016 -2020 chuyển thành nhiệm vụ chi thường xuyên của ngành Y tế theo các chế độ, chính sách được cấp có thẩm quyền ban hành và thực hiện theo quy định về phân cấp ngân sách nhà nước. Đẩy nhanh tiến độ bố trí đất, triển khai công tác giải phóng mặt bằng xây dựng một số cơ sở y tế mới trong kế hoạch đầu tư công trung hạn 2021-2025.
Tiếp tục nâng cao chất lượng dịch vụ; bảo đảm vận hành hiệu quả hệ thống khám bệnh, chữa bệnh. Thực hiện, chăm sóc toàn diện người bệnh và nâng cao sự hài lòng của người bệnh ở các tuyến. Phát triển các kỹ thuật y khoa chuyên sâu; phát huy lợi thế y học cổ truyền, kết hợp chặt chẽ y học cổ truyền với y học hiện đại trong phòng bệnh, khám, chữa bệnh, phục hồi chức năng, nâng cao sức khoẻ.
Bộ Y tế sớm hoàn thiện, ban hành danh mục kỹ thuật trong khám bệnh, chữa bệnh, xây dựng định mức kinh tế kỹ thuật làm cơ sở xây dựng giá dịch vụ y tế; Tiếp tục triển khai các chương trình tăng cường đào tạo, luân phiên cán bộ y tế, chuyển giao kỹ thuật cho tuyến dưới; có giải pháp, chương trình nâng cao năng lực khám chữa bệnh cho tuyến cơ sở, nhất là trạm y tế, phát triển mô hình bác sĩ gia đình; Triển khai việc chuyển giao một số bệnh viện trực thuộc Bộ Y tế cho địa phương quản lý.
Các bộ, ngành, địa phương quan tâm chỉ đạo đổi mới lề lối làm việc, kỷ cương, kỷ luật hành chính; đẩy mạnh cải cách hành chính (tạo điều kiện tháo gỡ khó khăn, vướng mắc của người dân và doanh nghiệp); nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, đặc biệt liên quan tới lĩnh vực dược, trang thiết bị y tế. Ngoài ra, đẩy nhanh và bảo đảm thực chất chuyển đổi số trong lĩnh vực y tế (khám, chữa bệnh từ xa, thực hiện các thủ tục trên môi trường mạng, kết nối cơ sở cung ứng thuốc, hồ sơ sức khỏe, làm sạch dữ liệu tiêm chủng...).
Bộ Y tế khẩn trương triển khai, xác định các trọng điểm để tập trung chỉ đạo thực hiện có hiệu quả chuyển đổi số trong 2-3 năm tới. Bộ Công an (Cơ quan chủ trì Đề án 06 của Chính phủ) và các bộ, ngành tích cực phối hợp, hỗ trợ Bộ Y tế triển khai thực hiện.
PHƯƠNG HOA
Khẩn trương rà soát, hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật về y tế
7. VKSND Tối cao thông báo rút kinh nghiệm về kiểm sát việc giải quyết vụ án kinh doanh thương mại
(LSVN) - Qua công tác kiểm sát việc giải quyết theo thủ tục giám đốc thẩm một số vụ án kinh doanh, thương mại “Tranh chấp hợp đồng xây dựng", VKSND Tối cao nhận thấy trong quá trình giải quyết vụ án của Tòa án cấp phúc thẩm đã có những vi phạm trong việc nhận định, đánh giá chứng cứ và việc xác định bản chất của vụ án, cần thông báo để rút kinh nghiệm chung.
Ảnh minh họa.
Cụ thể:
Vụ thứ nhất: Giữa nguyễn đơn Công ty TNHH Liên hợp xây dựng A (Công ty A) với bị đơn là Tổng công ty xây dựng công trình giao thông B (Tổng Công ty B) và Công ty TNHH Một thành viên xây dựng công trình giao thông M (Công ty M).
Nội dung vụ án: Công ty M là đơn vị có chủ sở hữu là Tổng Công ty B. Quá trình hoạt động, Công ty M đã ký kết và thực hiện 04 hợp đồng thầu phụ với Công ty A về việc thi công xây dựng một số công trình giao thông cụ thể: Dự án nâng cấp cải tạo QL 1A-HPR2 ĐH-QN (Hợp đồng kinh tế số 60/HĐKT ngày 04/10/2002); Dự án R4, B4 (Hợp đồng nguyên tắc không số ngày 15/11/2000); Dự án cao tốc Thành phố H-TL (Hợp đồng kinh tế số 05a/HĐ-XD/2007 ngày 15/02/2007); Dự án đường cao tốc CG-NB, gói thầu số 4 ngày 06/3/2006. Công ty A đã thi công đúng tiến độ, nghiệm thu công trình và đối chiếu công nợ với Công ty M. Tuy nhiên, đến nay Công ty M và Tổng Công ty B vẫn chưa thanh toán dứt điểm công nợ cho Công ty A. Do đó, Công ty A khởi kiện yêu cầu Tổng công ty B và Công ty M phải liên đới trả cho Công ty A số nợ sau khi đối trừ còn lại số tiền nợ gốc là 10.936.408.249 đồng (Mười tỉ chín trăm ba sáu triệu bốn trăm không tám nghìn hai trăm bốn chín đồng) và 452.312.737 đồng (Bốn trăm năm hai triệu ba trăm mười hai nghìn bảy trăm ba bảy đồng) tiền bảo hành công trình.
Tổng Công ty B thừa nhận Công ty M là đơn vị thành viên thuộc Tổng Công ty B, là đơn vị có tư cách pháp nhân riêng biệt. Hoạt động và chịu trách nhiệm trước pháp luật với các hoạt động của mình. Tổng Công ty B không ký kết, không bảo lãnh thanh toán cho các hợp đồng mà Công ty A đã ký kết với Công ty M nên không có nghĩa vụ trả nợ. Tổng Công ty B chỉ có trách nhiệm đôn đốc, nhắc nhở Công ty M phải đối chiếu thanh toán công nợ với các khách hàng, trong đó có Công ty A. Tổng Công ty B cho rằng cả 04 hợp đồng trên Tổng Công ty B đã hoàn thành nghĩa vụ thanh quyết toán cho Công ty M.
Công ty M xác nhận việc còn nợ lại tạm đối chiếu là 10.936.408.249 đồng. Công ty M sẽ trả nợ cho Công ty A khi các thủ tục nghiệm thu thanh toán với Công ty M trong đó gồm các khoản Công ty M và Tổng Công ty B thu theo thủ tục quy định. Đối với số tiền lãi Công ty M không đồng ý vì theo các điều khoản trong hợp đồng giữa Công ty M và Công ty A ký kết không đề cập đến lãi suất. Vì vậy, Công ty M không chấp nhận bảng tính lãi suất mà Công ty A đã tính và gửi Tòa án.
Quá trình giải quyết vụ án
- Bản án sơ thẩm số 15/2013/KDTM-ST ngày 25/9/2013 của TAND quận X tuyên xử (tóm tắt): Chấp nhận một phần đơn khởi kiện của Công ty A.
Buộc Tổng công ty B và Công ty M phải có nghĩa vụ liên đới trả cho Công ty A số tiền nợ phát sinh từ việc ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế giữa Công ty A và Công ty M;... Tổng công ty B phải thanh toán trả cho Công ty A số tiền nợ gốc là 5.468.204.124 đồng, tiền lãi chậm trả là 1.600.889.162 đồng. Tổng cộng là 7.249.093.286 đồng...
Không đồng ý với Bản án sơ thẩm Công ty A, Công ty M kháng cáo, Tổng công ty B kháng cáo nội dung không chịu trách nhiệm liên đới thanh toán trả Công ty A và yêu cầu Công ty M phải chịu trách nhiệm toàn bộ.
- Bản án phúc thẩm số 20/2014/KDTM- PT ngày 05/3/2014 của TAND thành phố H tuyên xử (tóm tắt): (1) Chấp nhận một phần kháng cáo của Công ty A; (2) Không chấp nhận kháng cáo của Tổng công ty B; (3) Xác định Tổng công ty B và Công ty M còn nợ Công ty A 15.887.292.822 đồng trong đó (gốc 10.936.08.249 đồng, lãi 4.498.566.843 đồng, tiền bảo hành 452.317.737 đồng; (4) Tổng công ty B và Công ty M cùng có trách nhiệm trả Công ty A số tiền nêu trên...
Không đồng ý với bản án phúc thẩm Tổng công ty B có đơn đề nghị TAND cấp cao xem xét bản án phúc thẩm theo trình tự giám đốc thẩm.
Ngày 20/01/2017, Chánh án TAND cấp cao tại Hà Nội ban hành Quyết định kháng nghị số 04/2017/KDTM-KN nội dung đề nghị hủy Bản án số 20/2014/KDTM-PT ngày 05/3/2014 và hủy Bản án sơ thẩm số 15/2013/KDTM-ST ngày 25/9/2013; giao hồ sơ vụ án cho TAND quận X xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm.
Quyết định Giám đốc thẩm số 29/2017/KDTM- GĐT ngày 29/9/2017 của TAND cấp cao tại Hà Nội quyết định (tóm tắt): (1) Sửa Bản án số 20/2014/KDTM- PT ngày 05/3/2014... chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty A; xác định Công ty M còn nợ Công ty A số tiền 15.887.292.822 đồng... (2) Công ty A có trách nhiệm trả cho Tổng Công ty B số tiền 7.676.873.397 đồng mà cơ quan Thi hành án đã khấu trừ qua tài khoản của Tổng Công ty B trả cho Công ty A theo quyết định của bản án phúc thẩm số 20/2014/KDTM- PT ngày 05/3/2014 của TAND thành phố H. Quyết định Giám đốc thẩm số 29/2017/KDTM-GĐT ngày 29/9/2017 của TAND cấp cao tại Hà Nội có hiệu lực pháp luật. Công ty A có đơn đề nghị Viện trưởng VKSND Tối cao xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm. Ngày 06/9/2021, Viện trưởng VKSND Tối cao ban hành Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 11/QĐKNGĐT-VKS-KDTM.
- Quyết định giám đốc thẩm số 21/2021/KDTM-GĐT ngày 10/12/2021 của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao đã chấp nhận Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 11/QĐKNGĐT-VKS-KDTM ngày 06/9/2021 của Viện trưởng VKSND Tối cao, hủy Quyết định giám đốc thẩm 29/2017/KDTM-GĐT ngày 29/9/2017 của Uỷ ban Thẩm phán TAND cấp cao tại Hà Nội, giữ nguyên Bản án phúc thẩm số 20/2014/KDTM- PT ngày 05/3/2014 của TAND thành phố H.
Vụ thứ 2: Giữa nguyên đơn Công ty Cổ phần R với bị đơn là Công ty Xây dựng quốc tế U và Công ty trách nhiệm hữu hạn T; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Công ty trách nhiệm hữu hạn C quản lý công trình và bảo trì.
Nội dung vụ án: Công ty Xây dựng quốc tế (Công ty U) là nhà thầu chính và Công ty Cổ phần R (Công ty R) là nhà thầu phụ ký Hợp đồng thầu phụ số HVTS0207REE.01 ngày 02/05/2007 về việc Công ty R cung cấp gói thầu 3B “dịch vụ cơ điện” cho Dự án Golden Westlake tại số 151 T. K, quận H, thành phố H (thầu phụ) do Công ty TNHH T là chủ đầu tư (Công ty T). Công ty TNHH C là đơn vị giám sát thi công (Công ty C) với tổng giá trị Hợp đồng là 5.146.969,30 USD (năm triệu một trăm bốn sáu nghìn chín trăm sáu chín Đô la Mỹ và 30 xu) và thời gian thi công kết thúc vào tháng 5/2008.
Quá trình thực hiện Hợp đồng có những phát sinh tăng và được các bên thống nhất với số tiền là 545.702,03 USD (năm trăm bốn lăm nghìn bảy trăm không hai Đô la Mỹ và 03 xu). Tổng giá trị hợp đồng sau khi phát sinh tăng là 5.692.671,33 USD (năm triệu sáu trăm chín hai nghìn sáu trăm bảy mươi một Đô la Mỹ và 33 xu), còn 02 khoản phát sinh giảm các bên chưa thống nhất được dẫn đến tranh chấp gồm 100.640 USD (một trăm nghìn sáu trăm bốn mươi Đô la Mỹ) do Công ty R vi phạm quy định về an toàn; phạt 5% hợp đồng tương đương 257.348,47 USD (hai trăm năm bảy nghìn ba trăm bốn tám Đô la Mỹ và 47 xu) do chậm tiến độ.
Ngày 17/02/2012, Công ty R đã khởi kiện đề nghị TAND thành phố H giải quyết buộc Công ty U phải thanh toán toàn bộ số tiền còn nợ của Hợp đồng số HVTS0207REE.01 ngày 13/02/2007 là 17.782.155.340 đồng (mười bảy tỉ bảy trăm tám hai triệu một trăm năm năm nghìn ba trăm bốn mươi đồng) bao gồm nợ gốc là 549.978,54 USD tương đương 11.549.549.340 đồng (mười một tỉ năm trăm bốn chín triệu ba trăm bốn chín nghìn ba trăm bốn mươi đồng) và tiền lãi phát sinh tạm tính đến ngày 15/02/2012 là 6.232.606.000đ đồng (sáu tỉ hai trăm ba hai triệu sáu trăm không sáu nghìn đồng). Trường hợp Công ty U không thanh toán số tiền nêu trên thì buộc Công ty T phải thanh toán toàn bộ khoản nợ của Hợp đồng nêu trên.
Quá trình giải quyết vụ án
- Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 49/2018/KDTM - ST ngày 05/11/2018 của TAND thành phố H tuyên: (1) Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty Cổ phần R về việc yêu cầu Công ty U và Công ty T liên đới thanh toán số tiền còn nợ của Thỏa thuận hợp đồng thầu phụ ký giữa hai bên ngày 02/05/2007. (2) Buộc Công ty U và Công ty T liên đới hoàn trả cho Công ty R số tiền cụ thể: Tiền gốc là 317.988,47 USD tương đương 7.436.160.000 đồng (Bảy tỉ bốn trăm ba mươi sáu triệu một trăm sáu mươi nghìn đồng); số tiền lãi là 8.391.734.000 đồng (Tám tỉ ba trăm chín mươi mốt triệu bảy trăm ba mươi tư nghìn đồng). Toàn bộ số tiền nêu trên do Công ty T phải thanh toán cho Công ty Cổ phần R.
Ngày 15/11/2018, Công ty T có đơn kháng cáo toàn bộ Bản án nêu trên.
- Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm số 05/2020/QĐ-PT ngày 23/10/2020 của TAND cấp cao tại Hà Nội quyết định: “Đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án kinh doanh, thương mại thụ lý số 23/2019/TLPT- KDTM ngày 14/06/2019 về “Tranh chấp hợp đồng xây dựng" giữa Công ty Cổ phần R với U và T... Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 49/2018/KDTM- ST ngày 05/11/2018 của TAND thành phố H có hiệu lực pháp luật kể từ ngày ra quyết định này”.
Ngày 03/02/2021, Công ty T có đơn đề nghị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. Ngày 04/01/2021, Viện trưởng VKSND cấp cao tại Hà Nội có Thông báo số 16/TB-VKS-KDTM đề nghị xem xét lại đối với Quyết định nêu trên. Ngày 05/10/2021, Viện trưởng VKSND Tối cao ban hành Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 14/QĐKNGĐT-VKS-KDTM.
- Quyết định giám đốc thẩm số 03/2022/KDTM-GĐT ngày 22/3/2022 của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao đã chấp nhận Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 14/QĐKNGĐT-VKS-KDTM ngày 05/10/2021 của Viện trưởng VKSND Tối cao, hủy Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm số 05/2020/QĐ-PT ngày 23/10/2020 của TAND cấp cao tại Hà Nội, hủy Bản án số 49/2018/ KDTM-ST ngày 05/11/2018 của TAND thành phố H. Giao hồ sơ vụ án về TAND thành phố H xét xử lại theo quy định.
Một số vấn đề cần rút kinh nghiệm
Vụ thứ nhất, Công ty M là Công ty TNHH một thành viên, có tư cách pháp nhân độc lập nhưng là đơn vị thành viên của Tổng công ty B (Công ty mẹ - Công ty con). Tổng Công ty B là chủ sở hữu và nắm giữ 100% vốn điều lệ của Công ty M, Công ty M chỉ là thành viên dưới quyền thực hiện sự chỉ đạo của Tổng công ty B. Do đó, theo quy định tại khoản 1 Điều 73; khoản 4 Điều 74 Luật Doanh nghiệp năm 2014; điểm o khoản 2 Điều 49 Điều lệ tổ chức và hoạt động của Tổng công ty B năm 2013 thì Tổng Công ty B phải chịu trách nhiệm liên đới đến cùng về các khoản nợ của Công ty M đối với Công ty A.
Quyết định giám đốc thẩm số 21/2021/KDTM-GĐT ngày 10/12/2021 của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao đã chấp nhận Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 11/QĐKNGĐT-VKS-KDTM ngày 06/9/2021 của Viện trưởng VKSND Tối cao, hủy Quyết định giám đốc thẩm 29/2017/KDTM-GĐT ngày 29/9/2017 của Uỷ ban Thẩm phán TAND cấp cao tại Hà Nội, giữ nguyên Bản án phúc thẩm số 20/2014/KDTM- PT ngày 05/3/2014 của TAND thành phố H là phù hợp, đảm bảo được quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự.
Vụ thứ hai, trong vụ án này, Công ty T là chủ đầu tư căn cứ vào kết quả trúng thầu đã chỉ định Công ty U là nhà thầu chính ký hợp đồng thầu phụ với Công ty R (trong đó có thỏa thuận về tổng giá trị gói thầu ban đầu, thời gian thi công kết thúc và cam kết thanh toán).
Theo Điều 3 của Thỏa thuận Hợp đồng thầu phụ được ký kết ngày 02/5/2007 giữa Công ty T, Công ty U và Công ty R thì Công ty T là Chủ đầu tư chỉ trực tiếp thanh toán tiền cho Nhà thầu phụ R (khi có xác nhận của Nhà thầu chính). Như vậy, theo thỏa thuận trên thì Công ty T chỉ thay mặt Công ty U thanh toán tiền thẳng cho Công ty R chứ Công ty T không có nghĩa vụ thanh toán hay liên đới thanh toán các khoản tiền mà Công ty U còn nợ Công ty R. Mặt khác, theo Thông báo chung ngày 12/12/2009 giữa Công ty T và Công ty U xác định Công ty T được quyền tự ý định đoạt để thanh toán trực tiếp một phần hoặc toàn bộ khoản tiền đến hạn cho Công ty R, không buộc Công ty T phải có nghĩa vụ thanh toán cho Công ty R nếu Công ty U không thanh toán. Bản án sơ thẩm tuyên Công ty T phải có trách nhiệm liên đới thanh toán trực tiếp cho Công ty R vì lẽ công bằng là không đúng vì: Lẽ công bằng được xác định trên cơ sở lẽ phải được mọi người trong xã hội thừa nhận, phù hợp với nguyên tắc nhân đạo, không thiên vị và sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ của các đương sự trong vụ việc dân sự đó và áp dụng trong trường hợp chưa có điều luật để áp dụng.
Quyết định giám đốc thẩm số 03/2022/KDTM-GĐT ngày 22/3/2022 của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao đã chấp nhận Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 14/QĐKNGĐT-VKS-KDTM ngày 05/10/2021 của Viện trưởng VKSND Tối cao, hủy Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm số 05/2020/QĐ-PT ngày 23/10/2020 của TAND cấp cao tại Hà Nội, hủy Bản án số 49/2018/ KDTM-ST ngày 05/11/2018 của TAND thành phố H. Giao hồ sơ vụ án về Tòa án nhân dân thành phố H xét xử lại theo quy định.
Từ hai vụ án cụ thể trên, khi thực hiện công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án tương tự, VKSND các cấp cần lưu ý phân biệt trường hợp nào liên quan đến quan hệ giữa Công ty mẹ và Công ty con; quan hệ giữa Chủ đầu tư với nhà thầu chính, nhà thầu phụ; liên quan đến việc xác định trách liên đới thanh toán thông qua việc ký kết hợp đồng kinh tế. Từ đó, phân biệt rõ từng trường hợp cụ thể xem ai là người có trách nhiệm thanh toán, ai là người phải chịu trách nhiệm liên đới thanh toán và ai là người không phải chịu trách nhiệm liên đới thanh toán.
PV
Hà Nội ban hành quy định mới về quản lý dự án đầu tư kinh doanh có sử dụng đất
8. EU mời 44 nước tham dự hội nghị thượng đỉnh
(LSVN) - Liên minh châu Âu (EU) đã mời các lãnh đạo nhà nước và chính phủ của 44 nước tham dự hội nghị thượng đỉnh của khối này, dự kiến diễn ra vào ngày 06/10 tới tại thủ đô Praha, CH Séc. Hội nghị này sẽ đánh dấu việc thành lập Cộng đồng Chính trị châu Âu.
Cờ EU bên ngoài trụ sở Ủy ban châu Âu tại Brussels, Bỉ. Ảnh: THX/TTXVN.
Truyền thông Áo dẫn lời một quan chức EU cho biết ngoài 27 quốc gia thành viên, liên minh này đã gửi lời mời tới các quốc gia đang xin gia nhập, trong đó có Montenegro, Bắc Macedonia, Ukraine và Moldova; các quốc gia Tây Balkan khác, cũng như Thổ Nhĩ Kỳ và Anh. Bên cạnh đó, EU cũng mời Armenia và Azerbaijan.
Mục tiêu của việc thành lập Cộng đồng Chính trị châu Âu là mở ra khả năng giải quyết các vấn đề cùng quan tâm thông qua tăng cường an ninh, ổn định và phúc lợi.
Hình thức đối thoại mới sẽ được thiết lập theo sáng kiến của Tổng thống Pháp Emmanuel Macron.
NGỌC HÀ/TTXVN
Tòa án Mỹ cho phép Bộ Tư pháp tiếp tục điều tra cựu Tổng thống Donald Trump