CHIỀU
1. Các trường hợp người có tài sản đấu giá từ chối đánh giá hồ sơ đăng ký tham gia
(LSVN) - Bộ Tư pháp vừa ban hành Thông tư 02/2022/TT-BTP ngày 08/02/2022 về việc hướng dẫn lựa chọn tổ chức đấu giá tài sản. Trong đó, quy định rõ về các trường hợp người có tài sản đấu giá từ chối đánh giá hồ sơ đăng ký tham gia lựa chọn của tổ chức đấu giá tài sản.
Cụ thể, căn cứ nguyên tắc đấu giá tài sản quy định tại khoản 2 Điều 6 Luật Đấu giá tài sản; nguyên tắc lựa chọn tổ chức đấu giá tài sản quy định tại khoản 2 Điều 2 Thông tư này, người có tài sản đấu giá từ chối đánh giá hồ sơ đăng ký tham gia lựa chọn của tổ chức đấu giá tài sản trong các trường hợp sau đây:
- Người sở hữu tài sản, người được chủ sở hữu tài sản ủy quyền bán đấu giá tài sản, người có quyền đưa tài sản ra bán đấu giá theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật, người ký hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản là vợ, chồng, bố đẻ, mẹ đẻ, bố nuôi, mẹ nuôi, bố chồng, mẹ chồng, bố vợ, mẹ vợ, con đẻ, con nuôi, con rể, con dâu, anh ruột, chị ruột, em ruột, anh rể, em rể, chị dâu, em dâu của người đứng đầu Trung tâm dịch vụ đấu giá tài sản, người đại diện theo pháp luật, Chủ tịch Hội đồng thành viên, thành viên Hội đồng thành viên, thành viên hợp danh của doanh nghiệp đấu giá tài sản.
- Người sở hữu tài sản, người được chủ sở hữu tài sản ủy quyền bán đấu giá tài sản, người có quyền đưa tài sản ra bán đấu giá theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật, người ký hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản là cá nhân, tổ chức có khả năng chi phối hoạt động của tổ chức đấu giá tài sản đó thông qua sở hữu, thâu tóm phần vốn góp hoặc thông qua việc ra quyết định của tổ chức đấu giá tài sản đó.
- Trường hợp khác theo quy định của pháp luật.
Thông tư này hướng dẫn lựa chọn tổ chức đấu giá tài sản theo quy định tại Điều 56 Luật Đấu giá tài sản. Thông tư áp dụng đối với người có tài sản đấu giá, tổ chức đấu giá tài sản và các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có liên quan đến việc đấu giá tài sản quy định tại khoản 1 Điều 4 Luật Đấu giá tài sản.
Thông tư không áp dụng đối với trường hợp lựa chọn tổ chức đấu giá tài sản thông qua đấu thầu theo quy định của pháp luật. Trường hợp lựa chọn tổ chức đấu giá tài sản thông qua đấu thầu thì thực hiện theo quy định tại Điều 56 Luật Đấu giá tài sản và pháp luật về đấu thầu.
Thông tư này có hiệu lực từ ngày 25/3/2022.
DUY ANH
Quy định về hủy kết quả lựa chọn tổ chức đấu giá tài sản
2. Kinh nghiệm của một số quốc gia về tổ chức phiên tòa trực tuyến
(LSVN) - Trên thế giới, Tòa án trực tuyến vẫn đang là vấn đề mới, nhận được sự quan tâm của các chuyên gia cũng như các nhà nghiên cứu, bởi lẽ, những thách thức khi tổ chức phiên tòa trực tuyến là không nhỏ. Trong nội dung bài viết, tác giả cung cấp thông tin cũng như kinh nghiệm của các quốc gia Áo, Đức và Ý về tổ chức phiên tòa trực tuyến.
Phương cách tương tác giữa Thẩm phán, các bên đương sự và Luật sư trong phiên tòa trực tuyến cũng cần phải thay đổi trong bối cảnh mới khác với phòng xử án truyền thống khi việc thiết kế và bố trí tạo ra sự khác biệt giữa phiên tòa trực tiếp với phiên tòa trực tuyến. Phiên tòa trực tiếp tạo ra tính nghiêm minh, không khí nghiêm túc, trong khi đó, thực tiễn tại phiên tòa trực tuyến có phần nào khác biệt.
Thực tế, pháp luật một số quốc gia đã quy định về xét xử trực tuyến từ những năm 1990 hoặc đầu những năm 2000 để hiện đại hóa trình tự và thủ tục tố tụng dân sự hoặc để tổ chức phiên tòa hình sự một cách an toàn hơn. Vào năm 2009, trong khuôn khổ một chương trình có tên gọi “Xét xử trực tuyến/điện tử châu Âu”, các nước thuộc Hội đồng châu Âu đã xây dựng một chương trình xét xử trực tuyến/qua video.
1. Áo
Năm 2004, tại Áo đã áp dụng quy định cho phép nghe các bên, chuyên gia và người làm chứng trong tố tụng dân sự; bị cáo và người làm chứng trong tố tụng hình sự trình bày qua video. Trong lĩnh vực tố tụng dân sự, việc tổ chức phiên tòa trực tuyến/qua video đã được quy định tại Điều 589(3) của Bộ luật tố tụng dân sự, Luật quản lý Tòa án và Đạo luật phòng chống Covid. Mặc dù Hiến pháp của Áo[1] đã quy định các bên trong tranh chấp phải có mặt tại phiên tòa, các phiên tòa dân sự và hình sự phải được mở công khai, tuy nhiên hệ thống pháp luật của Áo cho phép một số ngoại lệ cho phép các bên có thể tham gia phiên tòa trực tuyến. Đồng thời, việc sử dụng phương tiện thông tin điện tử để tương tác giữa Tòa án và các bên với tư cách là một bộ phận của trình tự tố tụng được coi là một đặc điểm quan trọng của hệ thống tư pháp của Áo.
Điều 171 và Điều 277 của Bộ luật tố tụng dân sự của Áo cũng quy định việc sử dụng nền tảng họp/xét xử trực tuyến như sau: “Nếu kỹ thuật cho phép, Tòa án có thể thu nhận chứng cứ thông qua phương tiện kỹ thuật để chuyển hóa chữ và hình ảnh, trừ trường hợp việc thu nhận chứng cứ trực tiếp tại tòa án là thích hợp hoặc cần thiết hơn vì lý do đặc biệt có xem xét đến nguyên tắc kinh tế mang tính thủ tục…”. Trong Bộ luật tố tụng hình sự[2], cũng có một điều khoản liên quan đến việc xét xử trực tuyến theo đó để tạo điều kiện cho việc xét xử trực tuyến, tất cả Tòa án, cơ quan công tố và nhà tù được trang bị nền tảng/hệ thống họp trực tuyến[3]. Tuy nhiên trong thực tiễn, việc sử dụng công nghệ trong các vụ xử dân sự và hình sự trong thực tiễn cũng bị hạn chế trong một số tình huống ngoại lệ.
Ngày 16/3/2020, Đạo luật chống Covid có hiệu lực đã tạo ra cơ sở pháp lý cho việc thực thi các biện pháp nhằm ngăn chặn việc lây lan của dịch bệnh Covid -19. Cân nhắc xu hướng sử dụng các phương tiện điện tử và các nền tảng họp trực tuyến trong các phiên xét xử trực tiếp, Đạo luật phòng chống Covid - 19 chủ yếu mở rộng việc sử dụng các công cụ hiện có để thúc đẩy chức năng quản lý hệ thống Tòa án từ xa. Nói một cách cụ thể hơn, các bên có thể thỏa thuận lựa chọn phương án xét xử trực tuyến mà không cần phải đến Tòa [4]. Sự chấp thuận của các bên là bắt buộc, việc xét xử trực tuyến mà không có sự chấp thuận của các bên được coi là vi phạm quyền xét xử công bằng. Tại Áo, luật yêu cầu sự chấp thuận của các bên và bị can trong tố tụng dân sự và hình sự.
Theo Đạo luật này, bên cạnh một số biện pháp khác đã điều chỉnh trình tự và thủ tục của Tòa án trong các vụ án dân sự để ứng phó với dịch bệnh đảm bảo quyền được xét xử kịp thời của các bên đương sự. Luật ứng phó đại dịch Covid[5] cho phép, trong một khoảng thời gian giới hạn, các phiên xét xử được tổ chức trực tuyến với sự đồng ý của các bên trong tố tụng dân sự. Luật cũng cho phép tổ chức các phiên xét xử trực tuyến trong các vụ án hình sự, đặc biệt là liên quan đến việc giam giữ các nghi phạm hoặc bị can. Tuy nhiên, các phiên tòa xét xử có bồi thẩm đoàn chỉ có thể được tổ chức trực tuyến trong những trường hợp đặc biệt. Trong tố tụng hành chính, luật chỉ quy định rằng các bên “có thể” được xét xử trực tuyến. Tuy nhiên, trong quyết định ngày 08/10/2020, Tòa án Hiến pháp nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xét xử trực tuyến - để bảo vệ quyền của họ đối với một phiên tòa công bằng.
Nền tảng công nghệ chính được Tòa án ở Áo sử dụng là Zoom (các quốc gia như: Bang Michigan của Hoa Kỳ, Tây Ban Nha (tòa án Madrid), Vương quốc Anh, Ba Lan, Thụy Sĩ (tòa án thương mại Zurich), Singapore, Tòa án tối cao của Victoria, New Zealand cũng sử dụng nền tảng công nghệ này). Việc sử dụng công nghệ mới phụ thuộc vào sự hợp tác của các Thẩm phán và tình hình tại từng Tòa án. Quy mô của các phòng xử án - trong các phòng lớn, vẫn có thể thực hiện các phiên xét xử trực trực tuyến với các thiết bị kỹ thuật có sẵn. Các Tòa án nơi các Thẩm phán đã làm việc với các hồ sơ điện tử thường có thiết bị kỹ thuật tốt hơn. Tuy nhiên, ở một số quốc gia châu Âu, Zoom và các hệ thống thuộc sở hữu tư nhân khác bị coi là không đáng tin cậy vì lý do bảo vệ dữ liệu, mặc dù chúng ổn định và thân thiện với người dùng.
2. Đức
Đầu những năm 2000, việc xét xử qua video đã được đưa ra áp dụng tại Đức. Các phiên xét xử video tại các Tòa án đã được giới thiệu vào năm 1998 để bảo vệ nhân chứng trong các phiên tòa hình sự. Điều 128a của Bộ luật Tố tụng dân sự đã tạo ra cơ sở pháp lý, các quy định tương tự đã được quy định trong các Luật Tố tụng Hành chính và Gia đình. Tuy nhiên, trong thủ tục tố tụng hình sự, chỉ có nhân chứng mới có thể tham gia trực tuyến từ xa, một cách tiếp cận khá khác so với các quy định ở các nước châu Âu khác. Mặc dù đã có cơ sở pháp lý, nhưng các cuộc xét xử trực tuyến không được sử dụng nhiều trước đại dịch Covid ở Đức, tuy nhiên, quốc gia này có một số kinh nghiệm về các phiên xét xử trực tuyến tại các Tòa án thuế khi các bên và Tòa án sử dụng nền tảng “Máy chủ Truyền thông Video của Cisco (VCS)”.
Ở Đức không yêu cầu sự chấp thuận về mặt pháp lý (tương tự như ở Ireland, San Marino và Tây Ban Nha), Tòa án có thể quyết định tổ chức một phiên xét xử từ xa theo đơn của một bên hoặc thậm chí chính thức. Tuy nhiên, trên thực tế, một cuộc xét xử trực tuyến không được tiến hành trái với mong muốn của các bên. Trong tố tụng hình sự, các phiên xét xử trực tuyến được giới hạn trong việc nghe các nhân chứng trình bày. Ngoài ra, thường có những quy tắc đặc biệt trong tố tụng hình sự và mong muốn của các bên được cân nhắc.
Nền tảng công nghệ chính được Tòa án ở Đức sử dụng là CISCO Webex. Tại Diễn đàn Thường trực Quốc tế về các Tòa án Thương mại đã đưa ra một bản ghi nhớ vào tháng 5/2020 để hỗ trợ các Tòa án trong việc lựa chọn và sử dụng các nền tảng kỹ thuật. Trong việc chọn một nền tảng cho các cuộc xét xử video, bảo mật dữ liệu có tầm quan trọng đặc biệt. Do đó, ở Đức các hệ thống này được sử dụng trên các máy chủ riêng của Tòa án (tại cơ sở). Các Tòa án đã tuân thủ cách hiểu truyền thống về “phiên xét xử công khai” liên quan đến phiên xét xử trực tuyến. Các Thẩm phán chỉ có thể tiến hành các phiên xét xử trực tuyến từ phòng xử án của họ, phòng xử án phải được công khai. Về mặt kỹ thuật, có thể dễ dàng phát trực tiếp các phiên xét xử và do đó cho phép một số lượng lớn công dân quan tâm đến xem. Việc sử dụng các ứng dụng được quản lý tại Đức hoặc Liên minh Châu Âu là khuyến khích, vì các ứng dụng này trực tiếp tuân theo các quy định bảo vệ dữ liệu của Liên minh Châu Âu.
3. Ý
Ở Ý, sự nguy hiểm của các phiên tòa xét xử Mafia những năm 1990 đã ảnh hưởng đáng kể đến việc phát triển và sử dụng các phiên xử trực tuyến qua video tại các Tòa án. Các quy định pháp luật khác nhau cho phép xét xử trực tuyến qua video đã được sử dụng trong cơ quan tư pháp Ý trong hơn 20 năm. Bộ Tư pháp Ý cung cấp các hệ thống nghe nhìn an toàn phục vụ cho hoạt động của Tòa án.
Kể từ năm 1992, Điều 147 Bộ luật Tố tụng hình sự Ý quy định “cộng tác viên”, các đặc vụ chìm và những người khác có thể phải đối mặt với nguy cơ gây áp lực hoặc nguy hiểm cho sự an toàn của họ và gia đình, do vậy họ có thể làm chứng thông qua công nghệ trực tuyến. Trong trường hợp này, Thẩm phán sau khi cân nhắc mọi mặt có thể quyết định xét xử video mà không cần sự đồng ý của họ. Tại nơi nhân chứng có mặt, một cán bộ sẽ được bố trí để đảm bảo tính thường xuyên của việc kiểm tra chéo.
Tòa án Hiến pháp được kêu gọi để ra phán quyết về tính hợp pháp của phương pháp thẩm tra chéo (từ xa) này, cho rằng quy định của luật phù hợp với Hiến pháp và các nguyên tắc của thủ tục tố tụng[6]. Cuộc chiến chống tội phạm có tổ chức trong các phiên tòa xét xử Mafia những năm 1990 không chỉ cho thấy sự cần thiết phải bảo vệ nhân chứng mà còn cho thấy lợi thế của việc không chuyển tội phạm nguy hiểm từ nhà tù an toàn đến phòng xử án. Từ năm 1998, Luật tố tụng hình sự của Ý đã quy định rằng trong các phiên tòa xét xử tội phạm có tổ chức hoặc khủng bố, các bị cáo bị giam trong tù được tham gia bằng hội nghị truyền hình[7]. Hội nghị truyền hình được thực hiện bằng cách kích hoạt đường truyền truyền hình giữa nơi giam giữ bị can và phòng xử án. Hơn nữa, một bị can bị giam giữ ở nước ngoài không thể được chuyển đến Ý cũng có thể tham dự phiên xét xử hình sự thông qua hội nghị truyền hình [8].
Cơ sở pháp lý cho các cuộc xét xử trực tuyến đã được đưa ra trước đại dịch, luật đã được sửa đổi để thích ứng trong thời gian đại dịch Covid-19. Các quy tắc tố tụng được áp dụng sau trường hợp khẩn cấp về y tế trong đại dịch Covid-19 đã mở rộng khả năng sử dụng xét xử trực tuyến trong các phiên tòa hình sự. Đặc biệt, Luật 27/2020 quy định rằng từ ngày 09/3/2020 đến ngày 30/6/2020 (thời hạn sau đó kéo dài đến ngày 31/7/2020), các phiên xét xử hình sự không có sự tham gia của nhân chứng mà không phải là cảnh sát tư pháp thì có thể được tổ chức thông qua các kết nối từ xa được do Bộ Tư pháp quyết định.
Nếu không có sự đồng ý của người bị buộc tội, những quy định này không áp dụng đối với các phiên xét xử chung thẩm và đối với những phiên tòa mà nhân chứng, các bên, nhà tư vấn và chuyên gia cần được thẩm tra lời khai. Trong đợt đại dịch thứ hai, các quy định tương tự đã được thông qua vào cuối tháng 10/2020 có hiệu lực cho đến ngày 31/1/2021. Nếu cần thiết, các quy tắc này có thể được gia hạn thêm. Tại Tòa Giám đốc thẩm Tối cao hầu hết các phiên tòa xét xử, dân sự và hình sự, đều được tổ chức trực tuyến. Các vụ án dân sự vẫn được xét xử trực tiếp, nhưng các phiên xét xử công khai về hình sự thường được tổ chức trực tuyến trên cơ sở kháng cáo được nộp và kết tội bằng văn bản của công tố viên, trừ khi Bộ trưởng Tư pháp hoặc người bào chữa yêu cầu một phiên xét xử trực tiếp.
Kết luận
Cho đến nay, những trải nghiệm tích cực đã được báo cáo từ các quốc gia khác nhau, hều hết đều đồng ý rằng các cuộc xét xử trực tuyến đã tăng lên đáng kể vì đại dịch. Các Thẩm phán đồng tình rằng sự sẵn có của thiết bị kỹ thuật phù hợp và kết nối internet tốt là yếu tố quan trọng quyết định sự thành công của các phiên xét xử trực tuyến. Tuy nhiên, ngoài các vấn đề kỹ thuật, các mối đe dọa tiềm ẩn đối với chất lượng của phiên xét xử và các rủi ro có thể xảy ra đối với quyền xét xử công bằng, đặc biệt là quyền bào chữa cũng được đề cập. Một phiên xét xử nên cung cấp một không gian được kiểm soát bởi Thẩm phán để bằng chứng có thể được thu thập và đánh giá một cách thích hợp. Trong các phiên xét xử trực tuyến, các Thẩm phán có ít quyền kiểm soát hơn đối với giao tiếp phi ngôn ngữ giữa các bên và nhân chứng. Các Thẩm phán coi các phiên xét xử từ xa là cần thiết trong thời kỳ đại dịch nhưng không thích hợp hơn các phiên xét xử trực tiếp.
Trong một cuộc khảo sát các đại biểu tham dự Hội nghị tư pháp trực tuyến do Bộ trưởng trưởng Tư pháp Cộng hòa liên bang Đức tổ chức ngày 08/12/2020, 70% đại biểu cho rằng trong vòng 3 năm tới việc xét xử trực tuyến qua video sẽ phổ biến toàn châu Âu [9]. Bên cạnh đó, những năm gần đây, một số quốc gia đã hướng tới phương cách “Xét xử trực tuyến/qua video” không chỉ đơn giản là nộp đơn kiện/hồ sơ vụ án qua phương tiện điện tử mà còn sửa đổi luật của mình để áp dụng cách xét xử trực tuyến. Tuy nhiên, ngay từ khi đưa ra áp dụng quy định này, các chuyên gia, nhà nghiên cứu và giới Luật sư…đã nêu vấn đề như quyền xét xử bình đẳng và quyền tiếp cận công nghệ.
Ở một số quốc gia, các phiên xét xử trực tuyến được coi là một công cụ quan trọng cho ngành tư pháp không chỉ trong đại dịch mà còn trong tương lai. Trong chặng đường phía trước, cần có nhiều nghiên cứu và thảo luận để phát triển các quy tắc và hỗ trợ kỹ thuật nhằm phát triển các phiên xét xử video thành một nơi - mặc dù không phải là một nơi thực tế - nơi công lý có thể được thực hiện.
[1] Điều 90 của Hiến pháp Áo [2] Điều 165 Luật tố tụng hình sự của Áo [3] https://edition.cnn.com/2021/02/09us/cat/filter-lawyer-zoom-court [4] Điều 21 khoản 3 của Đạo luật phòng chống Covid [5] Điều 21 Luật ứng phó đại dịch Covid 19 [6] Bản án No 342 22/7/1999 [7] Điều 146 của Bộ luật tố tụng hình sự có sửa đổi bổ sung 11/1998 và điều 134 của Bộ luật tố tụng hình sự ban hành tháng 4/2011 [8] Điều 205 về thực hiện quy định của Bộ luật tố tụng hình sự [9] https:www.iacajournal.org/article |
Luật gia THANH TÙNG
Tạp chí Tòa án nhân dân
Cần xử lý nghiêm những vi phạm trong đấu giá đất
3. Nguyên tắc bố trí cho thuê nhà ở công vụ theo quy định mới nhất
(LSVN) - Bố trí nhà ở công vụ đảm bảo đúng đối tượng, đủ điều kiện theo tiêu chuẩn nhà ở công vụ quy định của pháp luật về nhà ở. Đối với các chức danh Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch Quốc hội, bố trí nhà ở công vụ đảm bảo điều kiện công tác và yêu cầu an ninh, bảo vệ theo quy định.
Phó Thủ tướng Lê Văn Thành vừa ký Quyết định số 03/2022/QĐ-TTg ngày 18/2/2022 về tiêu chuẩn, định mức nhà ở công vụ. Quyết định này quy định về tiêu chuẩn diện tích đất, diện tích sử dụng và định mức trang bị nội thất nhà ở công vụ.
Trong đó, tại Điều 2 Quyết định quy định rõ về nguyên tắc bố trí cho thuê nhà ở công vụ. Cụ thể, về nguyên tắc bố trí nhà ở công vụ:
- Bố trí nhà ở công vụ đảm bảo đúng đối tượng, đủ điều kiện theo tiêu chuẩn nhà ở công vụ quy định của pháp luật về nhà ở;
- Đối với các chức danh Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch Quốc hội, bố trí nhà ở công vụ đảm bảo điều kiện công tác và yêu cầu an ninh, bảo vệ theo quy định;
- Đối với nhà ở công vụ thuộc sở hữu của Đảng Cộng sản Việt Nam (do Văn phòng Trung ương Đảng quản lý) thì thực hiện theo quy định của pháp luật và quy định của cơ quan có thẩm quyền của Đảng;
- Trường hợp một người đồng thời đảm nhận nhiều chức danh có tiêu chuẩn sử dụng nhà ở công vụ thì được áp dụng tiêu chuẩn nhà ở công vụ theo chức danh cao nhất;
- Trường hợp do không đủ loại nhà ở công vụ để bố trí theo tiêu chuẩn, căn cứ vào quỹ nhà ở công vụ hiện có cơ quan quản lý nhà ở công vụ xem xét việc bố trí cho thuê cho phù hợp; người thuê nhà ở công vụ phải trả tiền thuê (bằng giá thuê được quy định tại Điều 33 của Luật Nhà ở năm 2014 nhân (x) với diện tích sử dụng được ghi trong Hợp đồng thuê nhà ở công vụ), kể cả khi diện tích sử dụng thực tế nhà ở công vụ vượt quá tiêu chuẩn hoặc thấp hơn tiêu chuẩn quy định;
- Thời hạn cho thuê nhà ở công vụ theo thời gian đảm nhận chức vụ mà người thuê được điều động, luân chuyển, bổ nhiệm, đảm bảo điều kiện thuê nhà ở công vụ theo quy định pháp luật về nhà ở.
Nguyên tắc trang bị nội thất nhà ở công vụ
Kinh phí cho việc đầu tư xây dựng nhà ở công vụ và các trang thiết bị nội thất nhà ở công vụ sử dụng vốn từ ngân sách nhà nước bao gồm ngân sách trung ương và ngân sách địa phương.
Trang bị nội thất gắn với nhà ở công vụ đã được tính vào chi phí đầu tư xây dựng nhà ở công vụ, bao gồm: Hệ thống máy điều hòa nhiệt độ; tủ bếp đồng bộ (bao gồm tủ bếp, chậu, vòi rửa, bếp, máy hút mùi); bình nóng lạnh; thiết bị vệ sinh đồng bộ.
Trang bị nội thất dời không gắn với nhà ở công vụ quy định mức kinh phí tối đa tại Quyết định này bao gồm: Bộ bàn ghế phòng khách, kệ ti vi; bộ bàn ghế phòng ăn, tủ lạnh; tủ quần áo, giường, đệm, bộ bàn ghế làm việc; máy giặt.
Việc lựa chọn trang thiết bị nội thất phải phù hợp với công năng, diện tích, không gian của từng phòng trong nhà ở công vụ đảm bảo tiết kiệm, hiệu quả theo quy định; đối với nhà (căn hộ) khi mua đã có trang thiết bị nội thất thì không được trang bị thay thế mà chỉ được trang bị bổ sung những trang thiết bị còn thiếu hoặc chưa đồng bộ theo thiết kế phù hợp với quy định tại điểm b, điểm c khoản này.
Việc trang bị nội thất phải lập kế hoạch, dự toán ngân sách đầu tư, mua sắm trang thiết bị nội thất nhà ở công vụ, thực hiện dự toán và thanh toán, quyết toán theo quy định của pháp luật hiện hành đảm bảo tiết kiệm, hiệu quả.
Khi giá trang thiết bị nội thất dời của nhà ở công vụ trên thị trường có biến động (tăng trên 20%) so với định mức kinh phí tối đa quy định tại Điều 4, Điều 5 của Quyết định này thì việc điều chỉnh định mức kinh phí được thực hiện như sau:
- Đối với việc đầu tư trang thiết bị nội thất nhà ở công vụ của các cơ quan trung ương (trừ Bộ Quốc phòng, Bộ Công an): Bộ Xây dựng thống nhất với Bộ Tài chính báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định;
- Đối với việc đầu tư trang thiết bị nội thất nhà ở công vụ của Bộ Quốc phòng, Bộ Công an: Bộ Quốc phòng, Bộ Công an thống nhất với Bộ Xây dựng và Bộ Tài chính báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định;
- Đối với việc đầu tư trang thiết bị nội thất nhà ở công vụ của địa phương, cơ quan quản lý nhà ở công vụ của địa phương thống nhất với Sở Xây dựng, Sở Tài chính báo cáo Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xem xét, quyết định.
Quyết định này có hiệu lực kể từ ngày 15/04/2022 và thay thế Quyết định số 27/2015/QĐ-TTg ngày 10/7/2015 của Thủ tướng Chính phủ về tiêu chuẩn nhà ở công vụ.
HÀ ANH
Sửa đổi, bổ sung quy định về hoạt động và quản lý hội
4. Cần phải sớm có giải pháp để kiểm soát, giảm nhiệt giá xăng
(LSVN) - Nếu giá nhiên liệu tăng, chi phí sản xuất tăng thì giá thành sản phẩm cũng sẽ tăng cao, áp lực của các doanh nghiệp lại càng gia tăng. Với vấn đề giá xăng dầu tăng cao, thiết nghĩ Chính phủ, các bộ, ngành cũng cần phải có giải pháp tổng thể để kiểm soát, giảm nhiệt giá xăng, để hỗ trợ doanh nghiệp phục hồi, bình ổn hoạt động sản xuất, kinh doanh, góp phần tích cực vào kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế.
Ảnh minh họa.
Pháp luật quy định như thế nào về bán đấu giá xăng dự trữ quốc gia?
Liên quan đến việc Bộ Công thương đang xin ý kiến các Bộ về kế hoạch bán đấu giá hơn 100 triệu lít xăng RON92 dự trữ quốc gia, giá khởi điểm 14.058 đồng/lít. Theo đó, tài sản bán đấu giá là 1 lô hàng dự trữ quốc gia bao gồm: 101.976.121 lít xăng RON92 ở nhiệt độ thực tế tại kho bảo quản (số liệu thời điểm ngày 31/12/2021).
Đánh giá về vấn đề này, Luật sư Trần Thị Thanh Lam, Văn phòng Luật sư Chính Pháp cho biết, theo quy định của Luật Dự trữ quốc gia 2012 thì hàng dự trữ quốc gia là vật tư, thiết bị, hàng hóa trong Danh mục hàng dự trữ quốc gia do Nhà nước quản lý, nắm giữ để sử dụng vào mục tiêu dự trữ quốc gia. Theo đó thì xăng dầu là nhiên liệu thuộc Danh mục hàng dự trữ quốc gia.
Hàng dự trữ quốc gia phải được quản lý chặt chẽ, an toàn, bí mật theo quy định của pháp luật; chủ động đáp ứng kịp thời yêu cầu, mục tiêu của dự trữ quốc gia. Hàng dự trữ quốc gia sau khi xuất phải được bù lại đủ, kịp thời. Về nguyên tắc bảo quản, hàng dự trữ quốc gia phải được cất giữ riêng đúng địa điểm quy định, bảo quản theo quy chuẩn kỹ thuật quốc gia, định mức kinh tế - kỹ thuật và hợp đồng thuê bảo quản hàng dự trữ quốc gia, bảo đảm về số lượng, chất lượng, an toàn. Hàng dự trữ quốc gia bị hư hỏng, giảm chất lượng trong quá trình bảo quản phải được phục hồi hoặc xuất bán kịp thời để hạn chế thiệt hại. Việc nhập, xuất hàng dự trữ quốc gia theo kế hoạch, luân phiên đổi hàng dự trữ quốc gia cũng được thực hiện hằng năm. Bộ, ngành quản lý hàng dự trữ quốc gia lập kế hoạch nhập, xuất, luân phiên đổi hàng dự trữ quốc gia gửi Bộ Tài chính để tổng hợp trình Thủ tướng Chính phủ quyết định.
Điều 44 Luật Dự trữ quốc gia 2012 cũng quy định ba phương thức bán hàng dự trữ quốc gia là: bán đấu giá, bán chỉ định, bán trực tiếp rộng rãi cho mọi đối tượng. Điểm g khoản 1 Điều 4 Luật Đấu giá tài sản 2016 quy định tài sản mà pháp luật quy định phải bán thông qua đấu giá là hàng dự trữ quốc gia theo quy định của pháp luật về dự trữ quốc gia.
Theo đó, bán đấu giá hàng dự trữ quốc gia thực hiện theo quy định của pháp luật về đấu giá. Trường hợp đấu giá không thành thì đơn vị được giao nhiệm vụ bán hàng dự trữ quốc gia báo cáo Thủ trưởng bộ, ngành quản lý hàng dự trữ quốc gia quyết định bán trực tiếp rộng rãi cho mọi đối tượng.
Điều 15 Thông tư 89/2015/TT-BTC hướng dẫn nhập, xuất, mua, bán hàng dự trữ quốc gia do Bộ trưởng Bộ Tài chính ban hành quy định kế hoạch bán đấu giá được lập cho toàn bộ số lượng, khối lượng hàng dự trữ quốc gia xuất bán trong năm kế hoạch hoặc theo từng quyết định giao nhiệm vụ của cấp có thẩm quyền cho từng nhóm hàng, mặt hàng cụ thể.
Về thẩm quyền bán đấu giá hàng dự trữ quốc gia, Điều 16 Thông tư 89/2015/TT-BTC quy định: Đối với hàng dự trữ quốc gia do Bộ, ngành quản lý thì Thủ trưởng Bộ, ngành hoặc người được Thủ trưởng Bộ, ngành phân cấp, ủy quyền theo quy định của pháp luật phê duyệt kế hoạch bán đấu giá; quyết định thành lập Hội đồng bán đấu giá trong trường hợp không thuê được tổ chức bán đấu giá chuyên nghiệp; giải quyết khiếu nại, kiến nghị trong đấu giá.
Như vậy, nhiên liệu là hàng dự trữ quốc gia do Bộ Công thương quản lý theo Danh mục chi tiết hàng dự trữ quốc gia và phân công cơ quan quản lý hàng dự trữ quốc gia ban hành kèm theo Nghị định số 94/2013/NĐ-CP ngày 21/8/2013 của Chính phủ do đó thẩm quyền bán đầu giá xăng dầu thuộc về Bộ Công thương. Theo quy định của Luật Dự trữ quốc gia thì Bộ Tài chính và Bộ Kế hoạch và Đầu tư cùng Bộ, ngành quản lý hàng dự trữ quốc gia xây dựng chiến lược dự trữ quốc gia, kế hoạch dự trữ quốc gia hàng năm.
"Vì vậy nếu việc bán đấu giá xăng RON92 của Bộ Công thương phù hợp với công tác nhập, xuất, bảo quản hàng dự trữ quốc gia hoặc phù hợp với kế hoạch, luân phiên đổi hàng dự trữ quốc gia thì việc Bộ Công Thương xin ý kiến Bộ Tài chính và Bộ Kế hoạch và Đầu tư với kế hoạch bán đấu giá xăng RON92 dự trữ quốc gia là phù hợp quy định pháp luật", vị Luật sư nói.
Cần phải xây dựng cơ chế quản lý chặt chẽ mạng lưới phân phối xăng dầu
Theo Luật sư Lam, về vấn đề Bộ công thương lên kế hoạch bán đấu giá xăng dầu dự trữ quốc gia trong bối cảnh giá xăng tăng giá và nhiều cửa hàng xăng dầu trên cả nước thiếu nguồn cung cục bộ khiến nhiều người đặt câu hỏi liệu nguồn cung xăng dầu đang khan hiếm? Trường hợp xảy ra tình trạng thiếu hụt nguồn cung xăng dầu thì việc sử dụng nguồn xăng dầu dự trữ quốc gia bổ sung nguồn cung để bình ổn thị trường là điều cần thiết. Tuy nhiên cũng không ngoại trừ trường hợp việc bán đấu giá xăng dầu của Bộ Công thương chỉ là đảo hàng dự trữ theo quy định của Luật Dự trữ quốc gia.
Một thực tế cần phải lưu ý là giá nhiêu liệu tăng cao sẽ ảnh hưởng đến sự hồi phục của nền kinh tế sau đại dịch Covid-19, không chỉ với ngành thương mại dịch vụ vận tải mà nhiều doanh nghiệp sản xuất và người dân đánh bắt thủy hải sản cũng rơi vào tình cảnh khó khăn vì "cơn bão" giá xăng dầu. Sau khi đã thoi thóp vì tác động của đại dịch Covid-19 suốt hơn hai năm qua thì nguồn vốn chưa kịp tích lũy của doanh nghiệp lại “bốc hơi” theo giá nhiên liệu.
Nếu giá nhiên liệu tăng, chi phí sản xuất tăng thì giá thành sản phẩm cũng sẽ tăng cao, áp lực của các doanh nghiệp lại càng gia tăng. Với vấn đề giá xăng dầu tăng cao, thiết nghĩ Chính phủ, các bộ, ngành cũng cần phải có giải pháp tổng thể để kiểm soát, giảm nhiệt giá xăng, để hỗ trợ doanh nghiệp phục hồi, bình ổn hoạt động sản xuất, kinh doanh, góp phần tích cực vào kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế.
Bên cạnh đó, Luật sư kiến nghị cần phải xây dựng cơ chế quản lý chặt chẽ mạng lưới phân phối xăng dầu trên cả nước. Thời gian qua mạng lưới này đã bộc lộ những vấn đề bất cập, số lượng doanh nghiệp được cấp phép để tham gia thị trường ngày càng nhiều, về nguyên lý sẽ giúp thúc đẩy thị trường cạnh tranh lành mạnh hơn. Tuy nhiên tình trạng nhiều doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu kém chất lượng vừa qua được phát hiện, những rối ren trong cung cầu, giá cả thời gian gần đây, cho thấy rõ khi có nhiều doanh nghiệp tham gia nhưng quản lý nếu thiếu tính chặt chẽ thì chỉ làm cho thị trường rối loạn, kém hiệu quả và minh bạch. Do đó, công tác kiểm tra, giám sát, quản lý việc chấp hành quy định của pháp luật trong kinh doanh xăng dầu cần phải được đẩy mạnh hơn nữa.
HỒNG HẠNH
Đấu giá hơn 100 triệu lít xăng dự trữ quốc gia: Có phù hợp với quy định của pháp luật?
5.
SÁNG
1. Bàn về quy định tại Nghị quyết 01/2021/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao
(LSVN) - Trong bài viết, tác giả đưa ra những ý kiến đánh giá về quy định tại Nghị quyết 01/2021/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng Điều 201 của Bộ luật Hình sự (BLHS) và việc xét xử vụ án hình sự về tội “Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự” do Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao ban hành.
Ảnh minh họa.
Cho vay là một giao dịch dân sự phổ biến trong đời sống xã hội, tuy nhiên nếu cho vay với lãi suất gấp 05 lần trở lên mức lãi suất cao nhất quy định trong Bộ luật Dân sự nhằm thu lợi bất chính, người cho vay phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật hình sự.
Tội “Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự” quy định tại Điều 201 BLHS năm 2015 là một tội danh độc lập, được quy định trong chương các tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế (Chương XVIII – Mục 2 BLHS năm 2015). Quy định này ra đời nhằm kịp thời đấu tranh phòng chống tội phạm, bảo đảm an ninh xã hội đồng thời phù hợp với các quy định mới của Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015 và các văn bản pháp luật khác có liên quan.
Song quy định tại Điều 201 BLHS năm 2015 trong thực tế áp dụng vẫn còn nhiều vướng mắc, bất cập dẫn đến các quan điểm và cách áp dụng pháp luật giữa các Cơ quan tiến hành tố tụng còn chưa được thống nhất. Để góp phần tháo gỡ những khó khăn đó, TAND Tối cao đã có Công văn số 212/TANDTC–PC ngày 13/09/2019 thông báo kết quả giải đáp nghiệp vụ, trong đó vướng mắc về tội "Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự" đã được giải đáp tại Điều 1, Mục 1 của Công văn.
Nhưng trên thực tế tội “Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự” vẫn chưa được áp dụng nhiều để xử lý các đối tượng phạm tội và vẫn còn những vướng mắc nhất định của các cơ quan tiến hành tố tụng trong áp dụng pháp luật, dẫn đến hiệu quả đấu tranh phòng chống tội phạm chưa cao. Chính vì thế mà TAND Tối cao đã ban hành Nghị quyết số 01/2021/NQ-HĐTP hướng dẫn về hoạt động áp dụng quy định tại Điều 201 Bộ luật Hình sự về tội “Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự”.
Nghị quyết này phần nào đã giải quyết được những tồn tại trong thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự liên quan đến hoạt động “tín dụng đen” theo điều 201 Bộ luật Hình sự như giải thích được các thuật ngữ, khái niệm, cách tính số tiền thu lợi bất chính, đề cập chi tiết nhiều trường hợp bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi có hành vi cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự…
Tuy nhiên trong thực tiễn hoạt động cho vay nặng lãi rất tinh vi và phức tạp. Nguyên nhân hoạt động “tín dụng đen” hoành hành thực tế xuất phát từ nhu cầu vay dân sự là rất lớn, nhiều người trẻ, người lao động thường rơi vào hoàn cảnh khó khăn, rất khó có thể vay mượn được người thân và không có tài sản để tham gia hoạt động vay có thế chấp từ các tổ chức tín dụng nên đã tìm đến các đối tượng tín dụng đen cả trên mạng và trong đời sống. Các đối tượng thường cho vay và cắt lãi suất ngay từ đầu, trong giấy tờ thỏa thuận vay mượn không ghi lãi suất. Thậm chí người vay cũng thường không giữ giấy tờ gì, các đối tượng thường che giấu các hình thức nhận tiền lãi, việc trả lãi không có chứng cứ dẫn đến khó khăn trong việc phát hiện, xử lý.
Kèm theo những hoạt động cho vay nặng là những hoạt động tội phạm khác nhằm mục đích thu hồi nợ của người vay như hành hung, gây thương tích, cưỡng đoạt tài sản, gây rối trật tự công cộng, thậm chí giết người nếu người vay không trả được nợ... Người đi vay thường bị đe dọa, sợ hãi nên không dám tố cáo. Chỉ có những vụ việc nào mà đối tượng đánh đập người bị hại đến mức gây thương tích hoặc thiệt mạng thì vụ việc mới bị phanh phui. Vì thế mà các hoạt động cho vay nặng lãi đang là vấn nạn nhức nhối cho xã hội, ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an, an toàn công cộng của người dân.
Ngoài ra, hiện nay số vụ án được phát hiện ngày càng có quy mô lớn, diễn ra trên phạm vi rộng. Hoạt động cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự thường diễn ra trên không gian mạng, nhiều nhóm đối tượng thành lập các “công ty tài chính” trá hình, thậm chí ứng dụng internet, mạng xã hội, ứng dụng công nghệ thông tin để quảng bá và lôi kéo “khách hàng”. Việc thu thập các chứng cứ về hoạt động cho vay này có những đặc thù bởi vậy việc đấu tranh với loại tội phạm này vẫn còn rất nan giải.
Do đó bên cạnh việc hoàn thiện khung pháp lý thì cơ quan chức năng cần tăng cường lực lượng để phát hiện, triệt phá các đường dây cho vay nặng lãi, kể cả các đường dây cho vay nặng lãi trên không gian mạng để công tác đấu tranh, phòng ngừa loại tội phạm này đạt được hiệu quả như mong đợi.
Luật sư ĐẶNG VĂN CƯỜNG
Trưởng Văn phòng Luật sư Chính pháp
Cần xử lý nghiêm những vi phạm trong đấu giá đất
2.. Trẻ mắc Covid-19 ở mức độ nhẹ thì điều trị như thế nào theo Hướng dẫn của Bộ Y tế?
(LSVN) - Trẻ mắc Covid-19 ở mức độ nhẹ thì điều trị như thế nào theo Hướng dẫn của Bộ Y tế?
Ảnh minh họa.
Theo Quyết định 405/QĐ-BYT ngày 22/02/2022 của Bộ Y tế ban hành Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị Covid-19 ở trẻ em. Cụ thể, việc điều trị trẻ em mắc Covid-19 phải đảm bảo nguyên tắc tuân thủ các biện pháp phòng ngừa lây nhiễm chuẩn trước và trong thời gian điều trị, chăm sóc; phân loại trẻ bệnh theo mức độ và điều trị theo các mức độ nặng của bệnh; đảm bảo trẻ được bú mẹ và dinh dưỡng hợp lý theo mức độ nặng của bệnh, bù nước điện giải, vật lý trị liệu, sức khỏe tâm thần; điều trị triệu chứng: hạ sốt giảm ho, giảm đau…
Hướng dẫn nêu rõ, đối với trẻ mắc Covid-19 không triệu chứng thì được cách ly tại nhà, theo dõi và chăm sóc theo hướng dẫn của Bộ Y tế (đối với tất cả các lứa tuổi). Đối với trẻ mắc Covid-19 ở mức độ nhẹ: Cân nhắc điều trị tại cơ sở cơ sở y tế nếu trẻ có yếu tố nguy cơ.
Ở mức độ nhẹ, Bộ Y tế hướng dẫn điều trị không dùng thuốc như sau:
- Nằm phòng cách ly, hoặc theo hướng dẫn cách ly tại nhà của Bộ Y tế.
- Áp dụng phòng ngừa chuẩn, đeo khẩu trang với trẻ ≥ 2 tuổi.
- Uống nhiều nước hoặc dung dịch điện giải oresol.
- Đảm bảo dinh dưỡng: bú mẹ, ăn đầy đủ.
- Vệ sinh thân thể, răng miệng, mũi họng.
- Tập thể dục tại chỗ và tập thở ít nhất 15 phút/ngày (trẻ lớn).
- Theo dõi:
+ Đo thân nhiệt tối thiểu 2 lần/ngày hoặc khi cảm thấy trẻ sốt
+ Đo SpO2 (nếu có) tối thiểu 2 lần/ngày hoặc khi cảm thấy trẻ mệt, thở nhanh/khó thở.
Khai báo y tế hàng ngày (qua điện thoại hoặc phần mềm qui định), báo nhân viên y tế khi có triệu chứng bất thường:
Nếu có các triệu chứng bất thường như sốt > 380C; tức ngực; đau rát họng, ho; cảm giác khó thở; tiêu chảy; SpO2 < 96%; trẻ mệt, không chịu chơi; ăn/bú kém thì cần báo nhân viên y tế.
Bộ Y tế lưu ý các dấu hiệu chuyển nặng cần báo cấp cứu 115 hoặc đội phản ứng nhanh tại xã phường để được cấp cứu tại nhà hoặc đưa trẻ đến bệnh viện ngay: Thở nhanh; li bì, lờ đờ, bỏ bú/ăn uống; khó thở, cánh mũi phập phồng; tím tái môi đầu chi; rút lõm lồng ngực; SpO2 < 95%.
Hướng dẫn của Bộ Y tế cũng nêu rõ về điều trị bằng thuốc kháng virus (Remdesivir); kháng thể kháng virus, điều trị hỗ trợ.
DUY ANH
Hoàn thiện hệ thống, đảm bảo cấp 'hộ chiếu vaccine' sớm nhất
3 . Các bước để người dân đăng ký tài khoản định danh điện tử
(LSVN) - Theo Cục Cảnh sát Quản lý hành chính về trật tự xã hội, Bộ Công an bắt đầu từ 25/02, đơn vị sẽ bắt đầu tiến hành cấp tài khoản định danh điện tử cho công dân thông qua nghiệp vụ cấp, đổi, cấp lại thẻ căn cước công dân (CCCD) trên phạm vi toàn quốc.
Ảnh minh họa.
Tài khoản định danh điện tử gồm tên đăng nhập (là mã số định danh cá nhân) và mật khẩu đã được Bộ Công an cung cấp, xác thực qua hệ thống Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư. Tài khoản này được Bộ Công an quản lý và xác thực.
Về quy trình đăng ký tài khoản định danh điện tử, khi công dân đến cơ quan Công an quận/huyện/tỉnh/thành phố làm thủ tục cấp, đổi, cấp lại CCCD gắn chip thì có thể thực hiện đăng ký cấp tài khoản định danh điện tử theo các bước và cung cấp các thông tin sau:
Bước 1: Công dân thông báo với cán bộ về việc làm hồ sơ cấp tài khoản định danh điện tử. Thông tin đăng ký bao gồm: Số điện thoại, địa chỉ hòm thư điện tử (email). Công dân có thể cung cấp thêm các thông tin về người phụ thuộc cùng giấy tờ kèm theo
Trường hợp công dân có nhu cầu đăng ký tích hợp các thông tin hiển thị trên ứng dụng định danh điện tử quốc gia các loại giấy tờ như giấy phép lái xe, đăng ký xe, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, ...thì mang thêm các loại giấy tờ gốc để đối chiếu.
Bước 2: Công dân thực hiện làm hồ sơ cấp, đổi, cấp lại CCCD gắn chip điện tử bao gồm thông tin nhân thân/thân nhân cùng thông tin sinh trắc.
Bước 3: Cán bộ tiếp tục xử lý hồ sơ cấp, đổi, cấp lại CCCD gắn chip theo đúng quy trình cấp CCCD.
Theo đó, việc cấp tài khoản định danh điện tử cho công dân sẽ thông qua cấp, đổi, cấp lại căn cước công dân trên phạm vi toàn quốc. Mọi công dân đều có thể đăng ký tài khoản định danh điện tử nếu có nhu cầu sử dụng.
Theo Bộ Công an, người dân sử dụng tài khoản định danh điện tử sẽ có nhiều lợi ích như tiết kiệm được nhiều thời gian, chi phí vì không phải kê khai nhiều loại biểu mẫu, giảm nhiều khâu thủ tục khi thực hiện các giao dịch hành chính công. Công dân có thể thay thế căn cước công dân và các loại giấy tờ mà công dân đăng ký tích hợp hiển thị trên ứng dụng định danh điện tử quốc gia như: giấy phép lái xe, đăng ký xe, bảo hiểm y tế... Công dân cũng có thể sử dụng tài khoản định điện tử công dân để thực hiện các giao dịch tài chính như thanh toán hóa đơn điện, nước, đóng bảo hiểm xã hội, y tế, chuyển tiền...
MAI HUỆ
Dự kiến cấp tài khoản định danh điện tử cho công dân từ ngày 25/02
4. F1 phải cách ly ở nhà được hỗ trợ những gì?
(LSVN) - Gia đình tôi thuộc đối tượng F1, phải cách ly y tế tại nhà. Vậy theo quy định hiện hành, F1 phải cách ly ở nhà được hỗ trợ những gì? Bạn đọc T.P. hỏi.
Theo hướng dẫn mới nhất tại Công văn số 762/BYT-DP ngày 21/02/2022 của Bộ Y tế, F1 phải thực hiện cách ly y tế tại nhà. Cụ thể, đối với những F1 đã tiêm đủ ít nhất 2 liều vaccine phòng Covid-19, có giấy xác nhận đã tiêm vaccine và có hiển thị trên phần mềm Sổ sức khoẻ điện tử PC-Covid-19; liều cuối cùng tiêm trong ít nhất 14 ngày hoặc khỏi bệnh trong vòng 3 tháng (có giấy ra viện, giấy xác nhận khỏi Covid-19) khi có tiếp xúc với F0 thì sẽ cách ly 5 ngày tại nhà; xét nghiệm PCR/nhanh/máy miễn dịch vào ngày thứ 5. Nếu âm tính thì tự theo dõi sức khoẻ trong 5 ngày tiếp theo. Nếu thấy ho, sốt, đau họng, chảy nước mũi, nghẹt mũi, đau người, mệt mỏi, ớn lạnh, giảm, mất vị giác... thì báo cơ quan y tế.
Còn đối với những F1 chưa tiêm đủ liều vaccine hoặc chưa tiêm. Trên giấy xác nhận cũng chưa ghi là đã tiêm đủ liều vaccine và phần mềm Sổ sức khoẻ điện tử PC-Covid-19 chưa hiển thị… Nếu có tiếp xúc với F0 thì phải cách ly 7 ngày tại nhà; làm xét nghiệm bằng PCR/nhanh/máy miễn dịch vào ngày thứ 7. Nếu âm tính thì tiếp tục tự theo dõi sức khoẻ trong 3 ngày tiếp theo. Nếu thấy sốt, ho, đau họng, chảy nước mũi, nghẹt mũi, đau người, mệt mỏi... thì báo cho cơ quan y tế.
Trước đây, theo Nghị quyết 68, F1 cách ly tại nhà sẽ được hỗ trợ tiền ăn 80.000 đồng/người/ngày. Tuy nhiên thời gian áp dụng chỉ từ 27/4 - 31/12/2021. Do đó, trong năm 2022 này, F1 cách ly tại nhà sẽ không còn được hỗ trợ tiền ăn.
Theo Điều 25 Luật Bảo hiểm xã hội, người lao động được hưởng chế độ ốm đau khi bị ốm đau, tai nạn mà không phải tai nạn lao động, phải nghỉ việc và có xác nhận của cơ sở khám, chữa bệnh hoặc phải nghỉ việc để chăm con dưới 7 tuổi bị ốm đau và có xác nhận của cơ sở khám, chữa bệnh.
Do đó, nếu F1 phải cách ly tại nhà do tiếp xúc gần với F0 ở chỗ làm, nơi công cộng, tại khu chung cư... và phải cách ly thì F1 không được hưởng chế độ ốm đau. Chỉ có trường hợp, F1 cách ly tại nhà do có con dưới 7 tuổi là F0 thì được hưởng chế độ ốm đau.
Hiện nay, có một số doanh nghiệp vẫn tạo điều kiện cho F1 làm việc ở nhà và hưởng nguyên lương hoặc hưởng 50-70% lương. Tuy nhiên, phần lớn người lao động là F1 đến thời điểm năm 2022 này sẽ không còn được nhận hỗ trợ gì nữa.
Như vậy từ năm 2022, F1 cách ly tại nhà không còn được nhận hỗ trợ mà có thể hưởng chế độ ốm đau nếu có con là F0, phải ở nhà chăm con.
MAI HUỆ
Hoàn thiện hệ thống, đảm bảo cấp 'hộ chiếu vaccine' sớm nhất
5. Một số bất cập trong quá trình thực hiện cung cấp lý lịch tư pháp
(LSVN) -
Theo khoản 1 Điều 2 Luật Lý lịch Tư pháp năm 2009 thì lý lịch tư pháp được hiểu là: “Lý lịch về án tích của người bị kết án bằng bản án, quyết định hình sự của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, tình trạng thi hành án và về việc cấm cá nhân đảm nhiệm chức vụ, thành lập, quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã trong trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã bị Tòa án tuyên bố phá sản”.
Đây là nội dung quan trọng thuộc trách nhiệm của nhiều cơ quan, nhiều cấp, nhiều ngành trong hoạt động quản lý Nhà nước về lý lịch tư pháp của công dân, với sự phối hợp chặt chẽ, cập nhật thông tin thường xuyên, liên tục về kết quả hoạt động của Tòa án, Viện Kiểm sát, Cơ quan Thi hành án dân sự, Cơ quan Thi hành án hình sự,... và các cơ quan có liên quan về thông tin cá nhân người bị kết án cho Cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp (Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia, Sở Tư pháp) xây dựng dữ liệu lý lịch tư pháp cho công dân.
Thời gian qua, công tác cung cấp thông tin lý lịch tư pháp về án tích được theo dõi, cập nhật có hệ thống kết quả giải quyết các vụ án hình sự và thi hành án hình sự theo đúng quy định của pháp luật. Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi thì Luật Lý lịch Tư pháp còn những điểm bất cập, cần kiến nghị sửa đổi, bổ sung như sau:
Thứ nhất, Luật Lý lịch Tư pháp năm 2009, thì thông tin lý lịch tư pháp về án tích được xác lập từ 18 nguồn, quy định rõ tại Điều 15. Tuy nhiên, qua thực tiễn và đối chiếu với các quy định của pháp luật có liên quan, đặc biệt là Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 2015, Luật Thi hành án hình sự năm 2019 (Luật THAHS) có nhiều nội dung quy định mới mang ý nghĩa quan trọng đối với việc xác lập thông tin án tích đối với người bị kết án, như: Điều 66 BLHS 2015 quy định về chế định tha tù trước thời hạn có điều kiện đối với người bị kết án; Khoản 4 Điều 23, Khoản 5 Điều 25, khoản 7 Điều 37, khoản 5 Điều 59 Luật THAHS năm 2019 quy định Tòa án đã ra quyết định thi hành án quyết định đình chỉ thi hành án đối với người bị kết án chết trong thời gian đang thi hành án, hoãn chấp hành án, tạm đình chỉ thi hành án, tha tù trước thời hạn có điều kiện; Điều 64, 65 Luật THAHS năm 2019 quy định rút ngắn thời gian thử thách đối với người được tha tù trước thời hạn có điều kiện. Và có những nội dung Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 sửa đổi, bãi bỏ thẩm quyền của Tòa án trong việc “cấp giấy chứng nhận xóa án tích” đối với người bị kết án đương nhiên được xóa án tích và quy định việc xác định người bị kết án “đã được xóa án tích” thuộc thẩm quyền của Cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp, nhưng Luật Lý lịch Tư pháp năm 2009 không quy định bổ sung kịp thời.
Vì vậy, để đảm bảo xây dựng cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp cho công dân thuận lợi, đầy đủ, chính xác, đồng bộ với các Luật có liên quan. Nên chăng, nguồn thông tin lý lịch tư pháp quy định tại Điều 15 Luật Lý lịch Tư pháp năm 2009 sửa đổi, bổ sung theo hướng:
+ Bỏ quy định tại khoản 15 (Giấy chứng nhận đương nhiên được xóa án tích).
+ Bổ sung Điều 15 những nội dung: Quyết định tha tù trước thời hạn có điều kiện; Quyết định đình chỉ thi hành án; Quyết định rút ngắn thời gian thử thách đối với người được tha tù trước thời hạn có điều kiện.
Thứ hai, điểm a Khoản 1 Điều 33 Luật LLTP 2009 quy định:
“1. Trường hợp người bị kết án đương nhiên được xóa án tích thì Sở Tư pháp thực hiện việc cập nhật thông tin như sau:
a) Khi nhận được giấy chứng nhận xóa án tích của Tòa án thì ghi “đã được xóa án tích” vào lý lịch tư pháp của người đó”.
Nội dung quy định trên, hiện không còn phù hợp, bởi lẽ:
Trước đây, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 (BLTTHS năm 2003) quy định người bị kết án thuộc trường hợp đương nhiên được xóa án tích theo quy định của Bộ luật hình sự, thuộc thẩm quyền của Tòa án đã xét xử sơ thẩm. Theo đó, Tòa án cấp giấy chứng nhận xóa án tích cho người bị kết án khi có đủ điều kiện theo quy định của BLHS. Tuy nhiên, đến nay BLTTHS năm 2015 đã bỏ quy định trên, mà thay vào đó là thẩm quyền của Cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp. Cụ thể, tại Điều 369 BLTTHS năm 2015 quy định:
“1. Trong thời hạn 05 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu của người được đương nhiên xóa án tích và xét thấy có đủ điều kiện quy định tại Điều 70 của Bộ luật hình sự thì cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp cấp phiếu lý lịch tư pháp là họ không có án tích”.
2. Những trường hợp quy định tại Điều 71 và Điều 72 của Bộ luật hình sự thì việc xóa án tích do Tòa án quyết định...”
Việc pháp luật quy định thay đổi thẩm quyền như đã nêu ở trên, nhưng chưa có văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thực hiện cụ thể đã dẫn đến thực trạng người bị Tòa án kết án không hiểu, không nắm được trình tự, thủ tục, quy định pháp luật và gửi đơn yêu cầu xóa án tích đến Tòa án đã xét xử sơ thẩm, Tòa án lại hướng dẫn họ đến Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố nơi họ cư trú để yêu cầu cấp phiếu lý lịch tư pháp xác nhận họ không có án tích. Điều đó đã gây ra khó khăn, mất thời gian, chi phí của người dân trong việc đi lại, hoàn thiện thủ tục giấy tờ. Vì vậy, thời gian tới đề nghị các cơ quan có thẩm quyền cần sửa đổi bổ sung Luật LLTP năm 2009 theo hướng: “Bỏ quy định tại điểm a khoản 1 Điều 33 và thay vào đó là trình tự, thủ tục xác minh thông tin án tích đối với người bị kết án thuộc trường hợp đương nhiên được xóa án tích” làm sơ sở cấp phiếu lý lịch tư pháp xác nhận người bị kết án “đã được xóa án tích”.
Thứ ba, theo quy định Điều 69 Bộ luật Hình sự “1. Người bị kết án được xóa án tích theo quy định tại các điều từ Điều 70 đến Điều 73 của Bộ luật này. Người được xóa án tích coi như chưa bị kết án.
2. Người bị kết án do lỗi vô ý về tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và người được miễn hình phạt không bị coi là có án tích”.
Theo quy định trên thì người phạm tội ít nghiêm trọng do lỗi vô ý (Ví dụ: Tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”) thì bị coi là không có án tích, trong trường hợp này khi người bị kết án chấp hành xong hình phạt họ cần giấy chứng nhận xóa thì Sở Tư pháp có cấp cho họ không? Đây cũng là một thực tiễn cần có hướng dẫn thống nhất trong áp dụng.
QUÁCH HỮU NGHỊ
TÒA ÁN QUÂN SỰ QUÂN KHU 9
Hoàn thiện hệ thống, đảm bảo cấp 'hộ chiếu vaccine' sớm nhất
5. Đối tượng, tiêu chuẩn được đào tạo Cao cấp lý luận chính trị
(LSVN) - Ban Chấp hành Trung ương đã ban hành Quy định 57-QĐ/TW ngày 08/02/2022 về đối tượng, tiêu chuẩn và phân cấp đào tạo lý luận chính trị. Trong đó, quy định rõ về đối tượng, tiêu chuẩn được đào tạo Cao cấp lý luận chính trị.
Ảnh minh họa.
Về đối tượng, Quy định nêu rõ gồm:
Thứ nhất, cán bộ, công chức, viên chức:
- Trưởng phòng (các đơn vị tương đương cấp phòng) cấp huyện, cấp tỉnh.
- Cấp ủy viên cấp huyện trở lên; cấp ủy viên cấp tỉnh, lãnh đạo cấp ban, sở, ngành, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, đơn vị sự nghiệp cấp tỉnh.
- Trưởng phòng (các đơn vị tương đương cấp phòng) trở lên của các ban, bộ, ngành, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, đơn vị sự nghiệp, đảng ủy trực thuộc Trung ương; cấp ủy viên, ban giám đốc, hội đồng thành viên (quản trị), trưởng ban (các đơn vị tương đương cấp ban) ở các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước.
- Phó trưởng phòng (các đơn vị tương đương cấp phòng) ở Trung ương.
- Phó trưởng phòng quy hoạch trưởng phòng cấp huyện, cấp tỉnh. Quy hoạch các chức vụ quy định tại Điểm b, c.
Thứ hai, cán bộ quân đội: Chỉ huy trưởng, chính trị viên ban chỉ huy quân sự cấp huyện; trung đoàn trưởng, chính ủy trung đoàn và tương đương; chỉ huy cấp lữ đoàn, sư đoàn, bộ chỉ huy quân sự, bộ chỉ huy bộ đội biên phòng cấp tỉnh và tương đương; chỉ huy các cơ quan cấp chiến dịch, chiến lược; ban giám đốc bệnh viện, viện nghiên cứu, chủ tịch, ban giám đốc công ty (tổng công ty) doanh nghiệp trực thuộc Bộ Quốc phòng. Cán bộ quy hoạch những chức vụ trên.
Thứ ba, cán bộ công an: Trưởng phòng, trưởng công an cấp huyện, trung đoàn trưởng và tương đương trở lên; cán bộ quy hoạch những chức vụ trên. Cấp phó trưởng phòng (tương đương) của cục (tương đương) trực thuộc Bộ Công an.
Thứ tư, cán bộ có đủ 4 năm giữ ngạch, bậc chuyên viên chính và tương đương; chức danh, vị trí việc làm theo quy định phải có trình độ cao cấp lý luận chính trị và trong dự nguồn ngạch cao cấp (tương đương).
Thứ năm, giảng viên có đủ 5 năm trực tiếp giảng dạy lý luận chính trị ở các học viện, trường có nhiệm vụ đào tạo lý luận chính trị.
Tiêu chuẩn:
- Đảng viên chính thức.
- Tốt nghiệp đại học trở lên.
- Cán bộ học hệ không tập trung: Nữ từ 38 tuổi, nam từ 40 tuổi trở lên.
Quy định này có hiệu lực kể từ ngày 08/02/2022, thay thế các điều khoản trong các quy định trước đây không còn phù hợp.
TIẾN HƯNG
Các bước nhận hỗ trợ chế độ từ BHXH khi bị F0
6. Hướng dẫn giám sát tuân thủ đối với hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán
(LSVN) - Bộ Tài chính vừa ban hành Thông tư 06/2022/TT-BTC hướng dẫn công tác giám sát tuân thủ của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước đối với hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán của Sở giao dịch chứng khoán Việt Nam và các công ty con, Tổng công ty lưu ký và bù trừ chứng khoán Việt Nam.
Ảnh minh họa.
Phương thức giám sát của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước trên cơ sở báo cáo của Sở giao dịch chứng khoán Việt Nam và các công ty con, Tổng công ty lưu ký và bù trừ chứng khoán Việt Nam; phản ánh của các tổ chức, cá nhân hoạt động trên thị trường chứng khoán và các nguồn tin trên phương tiện thông tin đại chúng liên quan đến việc tuân thủ quy định pháp luật trong việc tổ chức và thực hiện các hoạt động nghiệp vụ chứng khoán của Sở giao dịch chứng khoán Việt Nam và các công ty con, Tổng công ty lưu ký và bù trừ chứng khoán Việt Nam.
Trên cơ sở kế hoạch thanh tra, kiểm tra giám sát tuân thủ hàng năm, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước thực hiện thanh tra, kiểm tra định kỳ đối với Sở giao dịch chứng khoán Việt Nam và các công ty con, Tổng công ty lưu ký và bù trừ chứng khoán Việt Nam và tổ chức kiểm tra đột xuất khi cần thiết.
Ủy ban Chứng khoán Nhà nước thực hiện giám sát tuân thủ pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán đối với Sở giao dịch chứng khoán Việt Nam về các hoạt động nghiệp vụ sau:
- Xây dựng và ban hành các quy chế về niêm yết chứng khoán, giao dịch chứng khoán, công bố thông tin, thành viên của Sở giao dịch chứng khoán Việt Nam và các quy chế nghiệp vụ khác liên quan đến tổ chức và hoạt động thị trường giao dịch chứng khoán; ban hành tiêu chí giám sát giao dịch; ban hành chỉ tiêu báo cáo giám sát giao dịch áp dụng cho thành viên của Sở giao dịch chứng khoán Việt Nam theo quy định của pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán;
- Tổ chức thị trường giao dịch chứng khoán theo quy định của pháp luật chứng khoán;
- Chấp thuận, hủy bỏ tư cách thành viên của Sở giao dịch chứng khoán Việt Nam; quản lý, giám sát, kiểm tra, xử lý vi phạm của thành viên theo quy định của pháp luật chứng khoán và làm trung gian hòa giải theo yêu cầu của thành viên khi phát sinh tranh chấp liên quan đến hoạt động giao dịch chứng khoán;
- Bảo đảm hoạt động giao dịch chứng khoán trên thị trường chứng khoán được tiến hành liên tục, công khai, công bằng, trật tự, an toàn và hiệu quả; các biện pháp ứng phó, khắc phục sự cố, sự kiện, biến động ảnh hưởng đến an toàn, ổn định và tính toàn vẹn của thị trường giao dịch chứng khoán;
- Lưu trữ, bảo mật hồ sơ, chứng từ, dữ liệu gốc liên quan tới việc thực hiện nghiệp vụ chứng khoán…
Ủy ban Chứng khoán Nhà nước thực hiện giám sát tuân thủ pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán đối với Sở giao dịch Chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh và Sở giao dịch Chứng khoán Hà Nội về các hoạt động nghiệp vụ sau:
- Tổ chức, vận hành thị trường giao dịch chứng khoán theo quy định pháp luật và trong phạm vi nhiệm vụ được giao;
- Giám sát hoạt động giao dịch chứng khoán; giám sát hoạt động công bố thông tin của tổ chức niêm yết, tổ chức đăng ký giao dịch và nhà đầu tư thuộc đối tượng công bố thông tin; giám sát việc tuân thủ nghĩa vụ của thành viên của Sở giao dịch chứng khoán Việt Nam theo quy định của pháp luật chứng khoán và quy chế của Sở giao dịch chứng khoán Việt Nam;
- Cảnh báo, kiểm soát, hạn chế giao dịch chứng khoán theo quy định của pháp luật và quy chế của Sở giao dịch chứng khoán Việt Nam;
- Chấp thuận, thay đổi; hủy bỏ niêm yết, đăng ký giao dịch chứng khoán và giám sát việc duy trì điều kiện niêm yết chứng khoán của các tổ chức niêm yết;
- Kiểm tra, xử lý vi phạm đối với tổ chức niêm yết, tổ chức đăng ký giao dịch theo quy chế của Sở giao dịch chứng khoán Việt Nam…
Thông tư 06 có hiệu lực thi hành từ 24/03/2022.
VĂN QUANG
Dự kiến hỗ trợ lãi suất 2%/năm cho doanh nghiệp trong hai năm 2022-2023
7.