CHIỀU T6
1. Phát triển lực lượng doanh nghiệp, phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã
(LSVN) - Phát triển lực lượng doanh nghiệp; thúc đẩy kết nối giữa doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế; đổi mới, phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã là một trong những nhiệm vụ, giải pháp quan trọng được nêu tại Nghị quyết số 54/NQ-CP ngày 12/4/2022 do Phó Thủ tướng Lê Minh Khái vừa ký ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021 – 2025.
![]()
Ảnh minh họa.
Cụ thể, về cơ cấu lại và phát triển doanh nghiệp nhà nước, Chính phủ giao Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành và địa phương tổ chức thực hiện hiệu quả Đề án tiếp tục cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, tập trung giữ những lĩnh vực then chốt, thiết yếu. Hoàn thiện hệ thống pháp luật đối với doanh nghiệp nhà nước theo hướng quy định rõ về quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm, áp dụng các chuẩn mực theo thông lệ quốc tế tốt trong quản trị, áp dụng triệt để nguyên tắc thị trường trong chính sách tiền lương. Xây dựng cơ chế tách bạch nhiệm vụ phát triển kinh tế, nhiệm vụ chính trị và an sinh xã hội của một số doanh nghiệp nhà nước.
Ủy ban Quản lý vốn Nhà nước chủ trì xây dựng Phương án cơ cấu lại doanh nghiệp Nhà nước theo Đề án được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.
Về phát triển lực lượng doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân, thúc đẩy chuyển đổi số, liên doanh, liên kết, nâng cao năng lực cạnh tranh: Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành và địa phương tổ chức triển khai hiệu quả Chương trình hỗ trợ doanh nghiệp chuyển đổi số giai đoạn 2021 - 2025.
Bộ Thông tin và Truyền thông phối hợp với các bộ, ngành và địa phương thực hiện hiệu quả, triển khai đồng bộ Đề án chuyển đổi số quốc gia, phát triển kinh tế số, các chương trình hỗ trợ doanh nghiệp chuyển đổi số.
Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành và địa phương đẩy mạnh phát triển doanh nghiệp khoa học và công nghệ, hoàn thiện và tổ chức thực hiện hiệu quả cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp khoa học và công nghệ.
Đối với đổi mới, phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã: Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành và địa phương xây dựng Dự án Luật sửa đổi, bổ sung Luật Hợp tác xã trình Chính phủ, Quốc hội ban hành. Thực hiện các biện pháp nhằm tăng cường liên kết, giải phóng nguồn lực, phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã.
Ngoài ra, Nghị quyết cũng nêu rõ nhiệm vụ giải pháp phát triển kinh tế đô thị, tăng cường liên kết vùng, liên kết đô thị - nông thôn và phát huy vai trò của các vùng kinh tế trọng điểm, các đô thị lớn; cơ cấu lại các ngành theo hướng hiện đại, phát triển kinh tế xanh, bền vững và phát huy tối đa các tiềm năng, lợi thế.
Chính phủ yêu cầu các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương theo chức năng, thẩm quyền và nhiệm vụ được giao chỉ đạo đưa ngay những nhiệm vụ phù hợp của Nghị quyết số 31/2021/QH15 của Quốc hội khóa XV và Nghị quyết này của Chính phủ vào nội dung kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 2022 và Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 2021 - 2025; xây dựng và ban hành kế hoạch thực hiện Nghị quyết này của Chính phủ; đồng thời chỉ đạo triển khai ngay các giải pháp, nhiệm vụ theo chức năng thẩm quyền, phù hợp với điều kiện thực tế ở từng ngành, lĩnh vực và địa phương.
DUY ANH
Phát triển các loại thị trường, nâng cao hiệu quả phân bổ và sử dụng nguồn lực
2. Đối tượng lập dự phòng tổn thất đầu tư chứng khoán
(LSVN) - Vừa qua, Bộ trưởng Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư 24/2022/TT-BTC ngày 07/4/2022, sửa đổi Thông tư 48/2019/TT-BTC hướng dẫn việc trích lập và xử lý các khoản dự phòng giảm giá hàng tồn kho, tổn thất các khoản đầu tư, nợ phải thu khó đòi và bảo hành sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ, công trình xây dựng tại doanh nghiệp.
![]()
Ảnh minh họa.
Trong đó, Thông tư 24/2022/TT-BTC đã sửa đổi, bổ sung điểm a khoản 1 Điều 5 Thông tư số 48/2019/TT-BTC. Cụ thể, đối tượng lập dự phòng là các loại chứng khoán do các tổ chức kinh tế trong nước phát hành theo quy định của pháp luật, thuộc sở hữu của doanh nghiệp, đang được niêm yết hoặc đăng ký giao dịch trên thị trường chứng khoán trong nước, được tự do mua bán trên thị trường và giá chứng khoán thực tế trên thị trường tại thời điểm lập báo cáo tài chính năm thấp hơn giá trị của khoản đầu tư chứng khoán đang hạch toán trên sổ kế toán.
Đối tượng lập dự phòng nêu trên không bao gồm trái phiếu Chính phủ, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh, trái phiếu chính quyền địa phương. Đây là nội dung mới được bổ sung.
Ngoài ra, Thông tư 24/2022/TT-BTC cũng sửa đổi, bổ sung điểm b khoản 1 Điều 5 Thông tư số 48/2019/TT-BTC về công thức tính mức trích lập dự phòng giảm giá đầu tư chứng khoán.
Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 25/5/2022.
MAI HUỆ
3. Xử lý nghiêm mọi hành vi gây nhiễu loạn đất đai
(LSVN) - Có thể nói, thời gian gần đây cùng với việc đất đai "sốt", tăng giá vùn vụt thì tình trạng lừa đảo, dự án "ma", làm giấy tờ giả... cũng theo đó mà tăng lên. Đặc biệt là hành vi làm giá, "thổi giá" gây nhiễu loạn đất đai để trục lợi diễn ra khắp nơi từ thành thị đến nông thôn, miền núi.
![]()
Vụ việc tai tiếng, "đình đám" nhất là vụ "thổi giá" khi đấu giá quyền sử dụng đất ở Thủ Thiêm, theo đó giá trúng đấu giá tăng gấp nhiều lần so giá khởi điểm và cao bất thường so với giá thực tế. Và không ngoài dự đoán của dư luận sau khi trúng đấu giá thì các doanh nghiệp đã bỏ cọc, không tiếp tục mua khu đất này.
Hành vi gây nhiễu loạn thông tin nhằm lừa đảo để trục lợi đang ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường đầu tư, giải phóng mặt bằng, sản xuất kinh doanh... Trong khi người dân có nhu cầu thực sự thì không thể tiếp cận, không thể mua được do "giá ảo" quá cao so với giá trị thực tế. Hành vi này còn gây mất trật tự an toàn xã hội, rối loạn thị trường nhà đất, đe dọa sự an toàn của hệ thống tín dụng, tạo ra "bong bóng" bất động sản...
Do đầu tư đất đai, bất động sản mang lại lợi nhuận đặc biệt lớn, làm giàu nhanh nên nhiều đối tượng đã bất chấp quy định pháp luật, đạo đức nghề nghiệp trong kinh doanh để trục lợi. Hậu quả tiêu cực mà các đối tượng gây ra cho thị trường nhà đất là rất lớn. Bởi không những ảnh hưởng đến hoạt động quản lý, điều hành của các cơ quan nhà nước mà gây nhiễu loạn thị trường rất nghiêm trọng, xáo trộn quy luật giá cả về nhà đất cuối cùng người hưởng lợi là "cò đất", những nhà đầu tư.
Mục đích của các đối tượng làm nhiễu loạn thị trường là để trục lợi. Ví dụ, vụ việc đấu giá đất ở Thủ Thiêm các đối tượng cố tình đẩy giá lên cao ngất ngưỡng rồi bỏ cọc, làm cho thị trường bất động sản khu vực này, thậm chí cả phạm vi TP.Hồ Chí Minh bị chao đảo, nhiễu loạn. Trường hợp này không loại trừ khả năng những đối tượng đấu giá cao rồi bỏ cọc vừa qua đã mua hết những mảnh đất xung quanh đó nên cố tình đẩy mặt bằng giá lên cao để trục lợi các dự án mà họ đang thực hiện quanh đó.
Vì vậy, các cơ quan chức năng cần có biện pháp chấn chỉnh kịp thời, quyết liệt, mạnh mẽ. Theo đó, cần ngăn chặn từ gốc các hành vi vi phạm, có biện pháp ngăn chặn ngay khi có dấu hiệu mà không chờ hậu quả xảy ra rồi mới vào cuộc xử lý. Thậm chí, điều tra, xử lý cả những đối tượng có hành vi đăng tải tin tức quảng cáo sai sự thật, cố tình "thổi giá" ảo chứ không chỉ những người trực tiếp tham gia đấu giá.
Có như vậy, mới xử lý triệt để, dứt điểm chứ không chỉ xử lý phần ngọn, xử lý tình huống như một số trường hợp vừa qua. Bởi khí hậu quả đã xảy ra thì vừa tốn kém thời gian công sức của cơ quan chức năng và thực tế đã gây ra thiệt hại lớn cho công dân, tổ chức cũng như ảnh hưởng tiêu cực đến trật tự an toàn xã hội./.
Thạc sĩ PHẠM VĂN CHUNG
Sở Tư pháp tỉnh Kon Tum
Hạn chế tối đa việc giao cho bộ, ngành hướng dẫn luật
SÁNG T7
1. Sửa đổi, bổ sung các chế tài xử phạt hành chính về môi trường theo hướng tăng mức phạt
(LSVN) - Rà soát, sửa đổi, bổ sung các chế tài xử phạt hành chính theo hướng tăng mức phạt; sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các quy định và thực hiện xử lý hình sự đối với các tội phạm về môi trường.
![]()
Đây là một trong những nội dung đáng chú ý tại Quyết định số 450/QĐ-TTg ngày 13/4/2022 do Phó Thủ tướng Lê Văn Thành ký ban hành phê duyệt Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Mục tiêu tổng quát của Chiến lược nhằm ngăn chặn xu hướng gia tăng ô nhiễm, suy thoái môi trường; giải quyết các vấn đề môi trường cấp bách; từng bước cải thiện, phục hồi chất lượng môi trường; ngăn chặn sự suy giảm đa dạng sinh học; góp phần nâng cao năng lực chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu; bảo đảm an ninh môi trường, xây dựng và phát triển các mô hình kinh tế tuần hoàn, kinh tế xanh, cac-bon thấp, phấn đấu đạt được các mục tiêu phát triển bền vững 2030 của đất nước.
Chiến lược đặt mục tiêu cụ thể là chủ động phòng ngừa, kiểm soát các tác động xấu gây ô nhiễm, suy thoái môi trường.
Để đạt được mục tiêu trên, Chiến lược đưa ra một số nhiệm vụ trọng tâm. Trong đó nêu rõ tăng cường thực thi chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường. Cụ thể:
- Rà soát, sửa đổi, bổ sung các chế tài xử phạt hành chính theo hướng tăng mức phạt; sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các quy định và thực hiện xử lý hình sự đối với các tội phạm về môi trường.
- Tăng cường kiểm tra, giám sát đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường cao, áp dụng cơ chế thanh tra đột xuất khi có dấu hiệu vi phạm. Đẩy mạnh phối hợp hiệu quả giữa các cơ quan thanh tra và lực lượng cảnh sát môi trường.
- Tăng cường cung cấp, công khai, minh bạch thông tin trong quản lý môi trường đến cộng đồng, đồng thời nâng cao trách nhiệm giải trình của cán bộ quản lý môi trường các cấp.
- Tăng cường sự giám sát của cộng đồng, của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức, cá nhân và các cơ quan truyền thông đối với bảo vệ môi trường; phát triển và ứng dụng các nền tảng số, mạng xã hội, các đường dây nóng... để đẩy mạnh giám sát về môi trường.
- Xây dựng và triển khai thực hiện cơ chế giải quyết khiếu nại, tố cáo, tranh chấp về môi trường, cơ chế xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại về môi trường.
- Tăng cường năng lực quản trị môi trường trong các doanh nghiệp và các khu, cụm công nghiệp.
Quyết định 450/QĐ-TTg có hiệu lực từ ngày 13/4/2022.
PHƯƠNG HOA
Nhận nhà bao lâu thì sẽ được cấp sổ đỏ?
2. Kiến nghị các giải pháp nhằm nâng cao việc phát hiện, xử lý cán bộ có chức vụ cao nhận hối lộ?
(LSVN) - Công cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng ở Việt Nam những năm gần đây đã đạt được nhiều thành tựu, nhiều vụ án lớn đã bị phát hiện, xử lý cho thấy việc xử lý đối với tham nhũng ở Việt Nam hiện nay là không có vùng cấm, không có ngoại lệ, đấu tranh phòng chống tham nhũng đã trở thành một xu thế tất yếu để làm trong sạch bộ máy nhà nước, giữ uy tín của đảng trước nhân dân.
![]()
Ảnh minh họa.
Tham nhũng là những hành vi vi phạm pháp luật, đồng thời cũng là một trong các nhóm tội được quy định trong Bộ luật Hình sự. Hành vi tham nhũng có thể xảy ra ở khắp mọi nơi. Tội phạm về tham nhũng xuất hiện từ thời kỳ chiếm hữu nô lệ và nó sẽ luôn tồn tại gắn với nhà nước và pháp luật. Đấu tranh phòng chống tham nhũng không phải là nhiệm vụ của riêng ai, quốc gia nào cũng quan tâm và đặt ra vấn đề này.
"Tham nhũng" là phạm trù lịch sử, gắn liền với nhà nước và pháp luật. Hành vi tham nhũng xuất hiện được ghi nhận khi nhà nước đầu tiên trong lịch sử loài người xuất hiện và nó cũng sẽ mất đi khi nhà nước và pháp luật không còn. Nếu nhà nước nào quản lý xã hội tốt thì tình hình tham nhũng được kiểm soát tốt và ngược lại. Bởi vậy, công cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng là một công cuộc cam go, lâu dài và đầy khó khăn với nhiều quốc gia chứ không riêng gì Việt Nam.
Kết quả phòng chống tham nhũng trong thời gian qua khiến chúng ta vừa vui, vừa buồn. Vui là vì đã phát hiện, xử lý nhiều cán bộ vi phạm pháp luật do thực hiện hành vi tham nhũng kéo dài, có tổ chức và gây thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng cho xã hội. Buồn vì kết quả đấu tranh phòng chống tham nhũng cho thấy tham nhũng đã trở thành vấn nạn xã hội, làm xói mòn niềm tin của người dân đối với chính quyền, làm suy thoái đạo đức công vụ và ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế xã hội. Kết quả đấu tranh phòng chống tham nhũng cho thấy vụ sau lớn hơn vụ trước, tính chất ngày càng phức tạp, nhiều cán bộ cấp cao bị phát hiện xử lý... Điều này khiến người ta nghĩ rằng tham nhũng cũng giống như phần nổi của tảng băng chìm, ngày càng phát hiện ra nhiều cán bộ suy thoái đạo đức, vi phạm pháp luật, trong khi đó liên tục giao giảng đạo đức, được tặng thưởng nhiều phần thưởng cao quý cho đến khi bị bắt...
Điều đặc biệt là trong các tội danh về tham nhũng và chức vụ như: Tham ô, nhận hối lộ, lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ, lạm quyền trong khi thi hành công vụ, thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng... thì càng ngày, càng xử lý nhiều cán bộ vi phạm về tội “Nhận hối lộ”, đây là hành vi có thể xảy ra rất nhiều nhưng rất khó phát hiện, khó xử lý.
Khác với các hành vi phạm tội khác như: “Tham ô”, “Lợi dụng chức vụ quyền hạn”,... thì tội “Đưa hối lộ” luôn gắn với các tội danh khác như tội “Nhận hối lộ”, “Môi giới hối lộ”. Với những người "trong cuộc" thì đều nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, có thể bị xử lý hình sự với những chế tài rất nghiêm khắc nên họ luôn tìm cách che giấu, trốn tránh, cản trở, gây khó khăn cho cơ quan chức năng trong việc phát hiện xử lý tội phạm.
Hành vi đưa hối lộ thường diễn ra kín đáo, bí mật, cả người đưa và người nhận hối lộ đều tìm cách che giấu, trốn tránh nên rất khó có người nhìn thấy, phát hiện để tố cáo, tố giác, xử lý. Thực tiễn cho thấy, để xử lý được hành vi nhận hối lộ thì rất cần lời khai của người đưa hối lộ, người môi giới hối lộ. Nếu những người này không khai ra và cơ quan điều tra không thu thập thêm được các chứng cứ khác để chứng minh tội phạm thì hướng điều tra sẽ đi vào ngõ cụt.
Một đặc điểm nữa khiến cho việc xử lý với tội “Nhận hối lộ” khó khăn là người nhận hối lộ thường là người có chức vụ quyền hạn, có sức ảnh hưởng đối với xã hội, họ là người có hiểu biết, có nhiều mối quan hệ, có nhiều kinh nghiệm trong ứng xử tình huống nên họ rất dễ dàng che giấu hành vi phạm tội, gây khó khăn cho cơ quan chức năng trong việc phát hiện xử lý. Thủ đoạn nhận hối lộ tưởng sẽ rất tinh vi, ít khi để lại dấu vết...
Tuy nhiên, thời gian gần đây cơ quan tố tụng đã xử lý nhiều cán bộ cao cấp (có những người mang quân hàm tướng, Bộ trưởng, Thứ trưởng,...) về hành vi nhận hối lộ. Để có những kết quả như vậy thì có nhiều nguyên nhân trong đó có sự quyết tâm cao của đảng và nhà nước trong đấu tranh.
Lực lượng đấu tranh phòng chống tham nhũng cũng ngày càng hoàn thiện, chuyên nghiệp hơn, dày dặn kinh nghiệm hơn, được trang bị nhiều phương tiện kĩ thuật hiện đại, có sự phối hợp chặt chẽ nên hiệu quả trong công tác đấu tranh phòng chống tham nhũng nói chung và với hành vi nhận hối lộ nói riêng có nhiều chuyển biến.
Những vụ án tham nhũng có hành vi nhận hối lộ được xử lý ngày càng nhiều khiến niềm tin của cơ quan tiến hành tố tụng và nhân dân trong việc đấu tranh đối với tội danh này ngày càng được nâng cao. Nhiều trường hợp người đưa hối lộ cũng đã chủ động ghi hình, chuyển tiền qua tài khoản, để lại các tin nhắn qua điện thoại, mạng xã hội nên cơ quan điều tra có thể căn cứ vào những chứng cứ vật chất đó để đấu tranh về hành vi nhận hối lộ.
Chính sách và pháp luật về đấu tranh phòng chống tham nhũng cũng đã có những thay đổi thể hiện quyết tâm, mục tiêu của nhà nước trong đấu tranh phòng chống tham nhũng. Tội “Nhận hối lộ” theo Điều 354 Bộ luật Hình sự được mở rộng rất nhiều, theo đó của nhận hối lộ có thể là lợi ích vật chất hoặc lợi ích phi vật chất. Người đưa hối lộ có thể đưa trực tiếp hoặc đưa gián tiếp qua người trung gian. Thời điểm nhận hối lộ có thể nhận trước nhận sau, miễn là có sự thỏa thuận để thực hiện một công việc theo yêu cầu của người đưa hối lộ.
Chính vì quy định về tội “Nhận hối lộ” mở rộng hơn so với quy định của Bộ luật Hình sự 1999, thêm vào đó các phương tiện kĩ thuật ngày càng hiện đại, được trang bị đầy đủ cho lực lượng phòng chống tội phạm. Việc quản lý không gian mạng ngày càng tốt hơn khiến việc thu thập các chứng cứ để chứng minh hành vi nhận hối lộ dễ dàng hơn trước, việc phát hiện, xử lý hiệu quả hơn trước.
Ngoài ra, Điều 364 Bộ luật Hình sự cũng quy định về trường hợp người đưa hối lộ do bị ép buộc, sau đó chủ động khai báo với cơ quan chức năng thì được miễn trách nhiệm hình sự. Đây là quy định mới, mở thêm hướng để phát hiện hành vi nhận hối lộ. Rất nhiều trường hợp người đưa hối lộ bị hạch sách, sách nhiễu, bị đe dọa, ép buộc phải đưa hối lộ nên họ đã chủ động ghi âm, ghi hình, lưu lại các chứng cứ làm căn cứ tố cáo sau khi hành vi nhận hối lộ xảy ra. Theo quy định tại Điều 4 Bộ luật Hình sự thì họ được miễn trách nhiệm hình sự nên việc phát hiện, chứng minh tội phạm từ quy định này thuận lợi hơn trước.
Ngoài ra, sự phát triển nhanh chóng của các cơ quan truyền thông trong thời gian gần đây, sự phát triển của mạng xã hội, sự quan tâm của người dân đối với chính trị cũng là những yếu tố thúc đẩy các cơ quan tiến hành tố tụng và các cơ quan chức năng quyết liệt hơn nữa trong việc đấu tranh phòng chống tội phạm tham nhũng nói chung, với hành vi đưa nhận môi giới hối lộ nói chung riêng. Nhiều thông tin từ quần chúng cũng là những thông tin có ý nghĩa góp phần đấu tranh phát hiện loại tội phạm này.
Đấu tranh phòng chống tham nhũng là nhiệm vụ, mục tiêu cũng là trách nhiệm khó khăn không chỉ đối với nhà nước Việt Nam mà đối với nhiều quốc gia. Để phòng chống tham nhũng hiệu quả thì phải thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, trong đó có các giải pháp:
- Cải cách tiền lương, đổi mới phương thức quản lý, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để không ngừng nâng cao đời sống vật chất tinh thần của người có chức vụ quyền hạn để người có chức vụ quyền hạn không cần tham nhũng, không muốn tham nhũng.
- Bồi dưỡng giáo dục trình độ nghiệp vụ và đạo đức để nâng cao đạo đức, bản lĩnh chính trị của người có chức vụ quyền hạn để người có chức vụ quyền hạn không bị cám dỗ, sa ngã bởi lợi ích vật chất, họ tự hào về công việc và trách nhiệm của họ đối với xã hội.
- Tăng cường các công tác quản lý kinh tế, quản lý hành chính có hiệu quả Trong đó phải đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, công khai minh bạch, tăng cường cơ chế giám sát, ứng dụng khoa học kĩ thuật vào công tác quản lý để hoạt động quản lý kinh tế khoa học, hiện đại, có hiệu quả, sao cho người có chức vụ quyền hạn có muốn tham nhũng cũng không thể tham nhũng.
- Hạn chế sử dụng tiền mặt, đẩy mạnh việc quản lý đất đai, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đầy đủ, chính chủ và quản lý đất chính chủ, quản lý chặt chẽ hơn nữa các tài sản có đăng ký quyền sở hữu sao cho những người tham nhũng, nhận hối lộ không có chỗ để cất giấu tài sản.
- Với những tài sản bất minh, tài sản không rõ nguồn gốc thì kiên quyết làm rõ để xử lý, trong đó có thể bổ sung quy định về đánh thuế cao, tịch thu, để cho minh bạch trong việc quản lý tài sản, phát hiện tài sản do phạm tội mà có.
- Tiếp tục duy trì quyết tâm đấu tranh phòng chống tham nhũng, tăng cường phát hiện và xử lý nghiêm minh những hành vi tham nhũng nói chung, hành vi đưa và nhận hối lộ nói riêng sao cho người có chức vụ quyền hạn không dám tham nhũng khi có cơ hội. Những hình phạt nghiêm khắc sẽ là những biện pháp để răn đe, phòng ngừa chung cho xã hội phải để những người có cơ hội tham Dũng biết hậu quả mình có thể gánh chịu mà không dám tham nhũng nữa.
Có thực hiện đồng bộ, đầy đủ các giải pháp từ cơ chế chính sách, hoàn thiện pháp luật, làm tốt công tác nhân sự, tăng cường đào tạo bồi dưỡng nâng cao năng lực trình độ, bản lĩnh của cán bộ, ứng dụng khoa học kĩ thuật, quản lý chặt chẽ kinh tế, tăng cường cơ chế giám sát phát hiện và xử lý tham nhũng thì công cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng mới đạt hiệu quả cao nhất, tạo điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội.
TIẾN SĨ, Luật sư ĐẶNG VĂN CƯỜNG
Trưởng Văn phòng Luật sư Chính Pháp
Đưa thông tin sai sự thật lên mạng xã hội: Cẩn trọng về trách nhiệm hình sự
3. Quy định mới về xử lý vi phạm trong khi tuần tra, kiểm soát của Cảnh sát đường thủy
(LSVN) - Vừa qua, Bộ Công an đã ban hành Thông tư 15/2022/TT-BCA sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 68/2020/TT-BCA ngày 19/6/2020 của Bộ trưởng Bộ Công an quy định về quy trình tuần tra, kiểm soát và xử lý vi phạm hành chính của Cảnh sát đường thủy.
![]()
Theo đó, Thông tư này đã sửa đổi Điều 11 Thông tư số 68/2020/TT-BCA về xử lý vi phạm trong khi tuần tra, kiểm soát. Cụ thể, đối với trường hợp xử phạt vi phạm hành chính không lập biên bản, khi phát hiện hành vi vi phạm thuộc trường hợp bị xử phạt theo thủ tục không lập biên bản, người có thẩm quyền xử phạt phải ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính tại chỗ; trường hợp cá nhân, tổ chức vi phạm chưa thực hiện ngay quyết định xử phạt thì có quyền tạm giữ giấy tờ có liên quan theo thứ tự quy định tại khoản 2 Điều này để bảo đảm cho việc chấp hành quyết định xử phạt.
Đối với trường hợp xử phạt vi phạm hành chính có lập biên bản, khi lập biên bản vi phạm hành chính trong trường hợp chỉ áp dụng hình thức phạt tiền, cán bộ lập biên bản có quyền tạm giữ một trong các loại giấy tờ theo thứ tự: Giấy chứng nhận khả năng chuyên môn thuyền trưởng, chứng chỉ lái phương tiện, Giấy chứng nhận đăng ký phương tiện hoặc giấy xác nhận của tổ chức tín dụng còn hiệu lực đối với trường hợp phương tiện thế chấp, Giấy chứng nhận an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường của phương tiện, Giấy chứng nhận khả năng chuyên môn máy trưởng hoặc các giấy tờ khác liên quan đến tang vật, phương tiện theo quy định của pháp luật để bảo đảm việc chấp hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính. Nếu người vi phạm không có giấy tờ nói trên thì có thể tạm giữ phương tiện vi phạm hành chính để bảo đảm thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính (trừ trường hợp tổ chức, cá nhân vi phạm có địa chỉ rõ ràng, có điều kiện bến bãi, bảo quản phương tiện hoặc khả năng tài chính đặt tiền bảo lãnh thì có thể được giữ phương tiện vi phạm dưới sự quản lý của cơ quan nhà nước có thẩm quyền).
Trường hợp người vi phạm, đại diện tổ chức vi phạm không có mặt tại nơi vi phạm hoặc cố tình trốn tránh hoặc vì lý do khách quan mà không ký, điểm chỉ vào biên bản hoặc có mặt nhưng từ chối ký, điểm chỉ vào biên bản thì cán bộ lập biên bản phải ghi rõ lý do vào biên bản.
Tổ trưởng Tổ tuần tra, kiểm soát mời đại diện chính quyền cấp xã nơi xảy ra vi phạm hoặc ít nhất 01 người chứng kiến ký xác nhận việc cá nhân, tổ chức vi phạm không ký vào biên bản và phải báo cáo thủ trưởng đơn vị bằng văn bản để làm cơ sở cho người có thẩm quyền quyết định xử phạt hoặc sử dụng phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ để ghi hình làm cơ sở xử lý; không tẩy xóa, sửa chữa các nội dung đã ghi trong biên bản vi phạm hành chính.
Khi kiểm soát thông qua phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ để phát hiện vi phạm hành chính, nếu phát hiện, thu thập được hình ảnh của người và phương tiện tham gia giao thông đường thủy vi phạm pháp luật trên đường thủy nội địa, vùng nước cảng biển và luồng hàng hải ngoài vùng nước cảng biển nơi phương tiện thủy nội địa được phép hoạt động, người có thẩm quyền thụ lý giải quyết vụ việc thực hiện:
- Tổ chức lực lượng dừng phương tiện vi phạm để kiểm soát và xử lý theo quy định của pháp luật. Trường hợp người vi phạm đề nghị được xem hình ảnh, kết quả thu thập được về hành vi vi phạm thì cho xem nếu đã có hình ảnh, kết quả ghi thu được; nếu chưa có thì hướng dẫn người vi phạm xem hình ảnh, kết quả ghi thu được khi đến xử lý vi phạm tại trụ sở đơn vị;
- Trường hợp không dừng được phương tiện vi phạm để kiểm soát, xử lý vi phạm thì thực hiện theo quy định tại Điều 11a Thông tư này.
Thông tư 15/2022/TT-BCA có hiệu lực thi hành kể từ ngày 21/5/2022.
DUY ANH
Những tranh chấp lao động nào được kiện thẳng ra Tòa không cần hòa giải?
4. Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm quy định và thực tiễn thực hiện
(LSVN) - Tranh tụng là hoạt động tố tụng được thực hiện bởi các bên tham gia tố tụng (bên buộc tội và bên gỡ tội) có quyền bình đẳng với nhau trong việc đưa ra chứng cứ để bảo vệ quan điểm và lợi ích của mình, phản bác lại quan điểm và lợi ích của phía đối lập.“Tranh tụng tại phiên tòa là hoạt động tố tụng được tiến hành tại phiên tòa bởi hai bên tham gia tố tụng, nhằm bảo vệ ý kiến, luận điểm của mỗi bên và bác bỏ ý kiến, luận điểm của bên kia dưới sự điều khiển, quyết định của chủ tọa phiên tòa với vai trò trung gian, trọng tài"(1).
![]()
Bản chất của tranh tụng là quá trình xác minh, làm rõ công khai và tranh luận giữa các bên dưới sự điều khiển của tòa án để phân tích, thẩm định, đánh giá chứng cứ nhằm mục đích xác định sự thật khách quan của vụ án, tạo cơ sở để tòa án giải quyết vụ án khách quan, công bằng, đúng pháp luật, bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia tố tụng.
Vì vậy, nguyên tắc bảo đảm tranh tụng là một trong những nguyên tắc quan trọng trong tố tụng nói chung và xét xử nói riêng, là dấu hiệu đặc trưng của nền tư pháp dân chủ, bình đẳng, công bằng và minh bạch.
Với tầm quan trọng đó, việc bảo đảm và nâng cao chất lượng tranh tụng trong xét xử là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu trong hoạt động cải cách tư pháp thời gian qua. Điều này được thể hiện rõ nét qua Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm trong công tác tư pháp thời gian tới, theo đó yêu cầu việc phán quyết của tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền, lợi ích hợp pháp để ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn quy định; Nghị quyết 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược đẩy mạnh tư pháp đến năm 2020 nhấn mạnh việc nâng cao chất lượng tranh tụng tại tất cả các phiên tòa xét xử là khâu đột phá của hoạt động tư pháp.
Các điểm mới tiến bộ của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về tranh tụng trong xét xử
Theo xu hướng phát triển tiến bộ của pháp luật tố tụng và trên tinh thần cải cách tư pháp của Nhà nước, lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp, “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm” được quy định rõ trong Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam 2013(2). Đây là vấn đề chưa từng được nhắc đến rõ ràng hoặc không được quy định trong Hiến pháp từ 1946 đến Hiến pháp 1992.
Cụ thể hóa nguyên tắc này, Điều 26 BLTTHS Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015 quy định như sau: “Trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, điều tra viên, kiểm sát viên, người khác có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người bị buộc tội, người bào chữa và người tham gia tố tụng khác đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ, đưa ra yêu cầu để làm rõ sự thật khách quan của vụ án.
Tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án do viện kiểm sát chuyển đến tòa án để xét xử phải đầy đủ và hợp pháp. Phiên tòa xét xử vụ án hình sự phải có mặt đầy đủ những người theo quy định của Bộ luật này, trường hợp vắng mặt phải vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan hoặc trường hợp khác do Bộ luật này quy định. Tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện cho kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, những người tham gia tố tụng khác thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ của mình và tranh tụng dân chủ, bình đẳng trước tòa án.
Mọi chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, áp dụng điểm, khoản, điều của Bộ luật Hình sự để xác định tội danh, quyết định hình phạt, mức bồi thường thiệt hại đối với bị cáo, xử lý vật chứng và những tình tiết khác có ý nghĩa giải quyết vụ án đều phải được trình bày, tranh luận, làm rõ tại phiên tòa.
Bản án, quyết định của tòa án phải căn cứ vào kết quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa”.
Theo đó, nội dung nguyên tắc không dừng lại ở xác định tranh tụng xét xử tại phiên tòa mà còn bao quát trong tất cả quá trình tố tụng từ khởi tố, điều tra, truy tố cho đến xét xử để bảo đảm bên buộc tội và bên bào chữa được quyền bình đẳng trong việc thu thập, đánh giá chứng cứ, tài liệu và các tình tiết vụ án để làm rõ sự thật khách quan của vụ án trước khi vào cuộc tranh tụng. Chỉ như vậy thì nguyên tắc tranh tụng trong xét xử mới thật sự được bảo đảm và hiệu quả.
Để bảo đảm nguyên tắc này thì phiên tòa hình sự phải có mặt đầy đủ những người theo quy định BLTTHS (kiểm sát viên, người bào chữa, bị cáo, người bị hại, đương sự, người tham gia tố tụng khác như người làm chứng, người giám định, người phiên dịch và những người khác) để trình bày ý kiến, phục vụ quá trình xét hỏi và tranh luận trực tiếp tại phiên tòa nhằm làm sáng tỏ nội dung vụ án. Đồng thời, tòa án tạo điều kiện cho những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng tại phiên tòa được thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ của mình, các bên được tranh tụng một cách dân chủ, bình đẳng trước tòa án nhưng không chèn ép hoặc có những hành vi gây cản trở trong việc tranh tụng. Mọi chứng cứ và vấn đề có ý nghĩa giải quyết vụ án đều phải được trình bày công khai, tranh luận đến cùng và làm rõ trực tiếp tại phiên tòa để tránh gây oan sai người vô tội, bỏ lọt tội phạm hoặc xâm phạm quyền và lợi ích chính đáng của bị hại và người liên quan. Khi tòa án ra bản án hoặc quyết định, phải căn cứ vào kết quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, từng bước xóa bỏ thực trạng “án tại hồ sơ”. Các quy định này không những nhằm bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử mà còn bảo đảm nguyên tắc xét xử trực tiếp; nguyên tắc thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập, chỉ tuân theo pháp luật và nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại.
Ngoài ra, cùng với việc bổ sung nguyên tắc tranh tụng trong xét xử, BLTTHS năm 2015 có nhiều nội dung đổi mới, tiến bộ để bảo đảm nguyên tắc này được thực thi, tiêu biểu như:
(1) Quy định rõ về thủ tục tranh tụng tại phiên tòa tại Mục V Chương XXI để bảo đảm quyền bình đẳng, dân chủ của bị cáo, người bào chữa trong quá trình xét hỏi; xem xét vật chứng; đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tình tiết có giá trị giải quyết vụ án tại phiên tòa; đặc biệt quy định rất cụ thể, rõ ràng về quá trình tranh luận tại phiên tòa (người bào chữa, bị cáo được quyền tranh luận đến cùng đối với từng vấn đề liên quan đến vụ án, kiểm sát viên có trách nhiệm đưa ra chứng cứ, lập luận để đối đáp đến cùng từng ý kiến bị cáo, người bào chữa; chủ tọa phiên tòa không được hạn chế thời gian tranh luận, tạo điều kiện cho kiểm sát viên, người bào chữa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác tranh luận trình bày hết ý kiến, yêu cầu kiểm sát viên phải đáp lại những ý kiến của người bào chữa và người tham gia tố tụng khác mà những ý kiến đó chưa được kiểm sát viên tranh luận);
(2) Quy định bổ sung các quyền và cách thức thực hiện các quyền của người bào chữa nhằm tạo sự bình đẳng và các điều kiện thuận lợi cho người bào chữa tham gia các hoạt động tố tụng hình sự như gặp, hỏi người bị buộc tội (mà không phụ thuộc vào kế hoạch hỏi cung của điều tra viên); có mặt trong hoạt động đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói và hoạt động điều tra khác; được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng báo trước về thời gian, địa điểm lấy lời khai, hỏi cung và thời gian, địa điểm tiến hành hoạt động điều tra khác (mà không cần đề nghị); đề nghị triệu tập người làm chứng, người tham gia tố tụng khác, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; quyền độc lập trong thu thập, đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ, giám định bổ sung, giám định lại, định giá lại tài sản…
(3) Quy định bổ sung các quyền và cách thức thực hiện các quyền của người bị buộc tội nhằm bảo đảm quyền của người bị buộc tội, nhất là quyền tự bào chữa hoặc nhờ người bào chữa như giải thích, thông báo quyền nhờ người bào chữa; trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá; đề nghị giám định, định giá tài sản; đọc, ghi chép bản sao tài liệu hoặc tài liệu được số hóa liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội hoặc bản sao tài liệu khác liên quan đến việc bào chữa kể từ khi kết thúc điều tra khi có yêu cầu…
(4) Quy định rõ các trách nhiệm của tòa án, viện kiểm sát, kiểm sát viên và các trình tự, thủ tục trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử để bảo đảm việc tranh tụng trong xét xử.

Luật sư Đặng Văn Vương – Phó Trưởng VPLS Phong & Partners.
Thực tiễn thực hiện nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm
Những điểm tích cực
Thực tiễn cho thấy, việc thực hiện nguyên tắc này đã đạt được những kết quả tích cực trong các phiên tòa hình sự. Nhiều tòa án quan tâm tạo điều kiện thuận lợi cho người bào chữa trong việc cấp giấy chứng nhận người bào chữa; sao chụp hồ sơ vụ án; xem xét nghiêm túc các đề nghị của người bào chữa và thực hiện tiến hành việc xác minh, thu thập, bổ sung chứng cứ theo quy định pháp luật để làm rõ sự thật vụ án; tiếp nhận chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án do Luật sư cung cấp, chuyển cho viện kiểm sát xem xét và có đánh giá về giá trị của chứng cứ ngay tại phiên tòa. Trong quá trình xét hỏi, nhiều hội đồng xét xử tôn trọng và bảo đảm quyền được hỏi của người bào chữa để làm rõ những tình tiết liên quan đến việc bào chữa. Trong quá trình kiểm tra, đánh giá chứng cứ, nhiều hội đồng xét xử bảo đảm quyền bình đẳng của người bào chữa trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ, đưa ra yêu cầu để làm rõ sự thật khách quan của vụ án, các vật chứng, tài liệu được đưa ra xem xét, đánh giá công khai tại phiên tòa. Trong giai đoạn tranh luận, nhiều hội đồng xét xử đã phổ biến những điểm quan trọng trong tranh luận tại phiên tòa theo Điều 322 BLTTHS và tạo điều kiện cho người bào chữa, bị cáo, người tham gia tố tụng khác tranh luận, trình bày hết ý kiến của mình mà không hạn chế thời gian tranh luận; yêu cầu kiểm sát viên phải đưa ra chứng cứ tài liệu, lập luận từng ý kiến của bị cáo, người bào chữa, người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa để làm sáng tỏ tình tiết vụ án. Nhiều hội đồng xét xử đã quan tâm đến việc phản ánh trung thực diễn biến tranh tụng thông qua ghi nhận tại biên bản phiên tòa. Nhiều bản án, quyết định của tòa án đã căn cứ vào kết quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, bảo đảm tính khách quan, công bằng, đúng pháp luật, bảo đảm các quyền của bị cáo.
Bên cạnh đó, nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm đã góp phần tạo thuận lợi cho người bào chữa tham gia sâu và rộng trong các giai đoạn tố tụng hình sự. Do đó, số lượng các vụ án hình sự có Luật sư tham gia liên tục tăng qua các năm. Từ năm 2015 đến ngày 31/12/2020, số lượng người bào chữa tham gia vụ án hình sự trên cả nước là 81.072, trong đó có 37.503 vụ án hình sự chỉ định người bào chữa và 43.509 vụ án hình sự được khách hàng mời(3). Điều này vừa khẳng định vai trò của người bào chữa là không thể thiếu trong các phiên tòa hình sự, vừa là biểu hiện của nền tư pháp dân chủ, công bằng, minh bạch, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Những bất cập
Tuy nhiên, trong thực tiễn hoạt động xét xử vẫn tồn tại không ít những phiên tòa không bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử; thực hiện tranh tụng mang tính hình thức; hạn chế, cản trở việc thực hiện quyền bình đẳng trong tranh tụng của người bào chữa, người bị buộc tội, làm ảnh hưởng đến tính khách quan và đúng đắn trong quá trình giải quyết vụ án, một số bất cập vẫn còn phổ biến như:
Một là, trong một số vụ án vẫn tồn tại hiện tượng cơ quan điều tra, tòa án và viện kiểm sát hoặc thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên “họp nội bộ” để thống nhất quan điểm giải quyết vụ án, định tội bị cáo trước khi xét xử. Đây là vi phạm đặc biệt nghiêm trọng về tố tụng, không những phá vỡ nguyên tắc tranh tụng trong xét xử mà còn đi ngược lại nguyên tắc xét xử độc lập, xét xử trực tiếp, nguyên tắc suy đoán vô tội và các nguyên tắc tố tụng hình sự quan trọng khác.
Hai là, BLTTHS không quy định về biện pháp áp dụng trách nhiệm đối với trường hợp kiểm sát viên không thực hiện nghĩa vụ đối đáp, tranh luận đến cùng tại phiên tòa để làm rõ sự thật khách quan của vụ án. Việc này dẫn đến trong một số phiên tòa, kiểm sát viên tranh luận hình thức, né tránh những vấn đề mà người bào chữa nêu ra trái với quan điểm của kiểm sát viên hoặc trả lời không đi thẳng vào trọng tâm của vấn đề đang tranh luận hoặc không đưa quan điểm đối đáp bằng cách “bảo lưu quan điểm luận tội”. Do đó, chất lượng và kết quả tranh tụng trong một chừng mực bị hạn chế.
Ba là, trong một số phiên tòa, chủ tọa phiên tòa chưa điều hành tốt quá trình tranh tụng tại phiên tòa; hạn chế quyền hỏi của người bào chữa; chưa thực sự chú ý đến những tình tiết, chứng cứ mới của vụ án nên những vấn đề mâu thuẫn trong vụ án chưa được làm sáng tỏ; cắt ngang hoặc hạn chế quyền tranh luận, đối đáp của người bào chữa, làm cho người bào chữa không thể trình bày một cách toàn diện các quan điểm bào chữa cho người bị buộc tội trong vụ án, làm mất quyền bình đẳng trong tranh tụng, ảnh hưởng đến quyền lợi của người bào chữa và người bị buộc tội.
Bốn là, trong một số vụ án, hội đồng xét xử không coi trọng đúng mực kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Sau khi xét hỏi, tranh luận và đối đáp đã phát sinh các chứng cứ mới nhưng bản án, quyết định của tòa án chưa xem xét, đánh giá dẫn đến tiềm ẩn phát sinh oan, sai trong tố tụng. Những tình tiết quan trọng và chứng cứ gỡ tội mà người bào chữa đưa ra có trường hợp không được hội đồng xét xử quan tâm xem xét, chấp nhận và chưa được đề cập trong bản án làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội. Một số bản án, quyết định của tòa án chưa xuất phát từ kết quả tranh tụng tại phiên tòa.
Năm là, một trong những nguyên nhân dẫn đến việc tranh tụng tại phiên tòa chưa đúng với tinh thần tranh tụng đó là yếu tố năng lực và đạo đức của Luật sư (người bào chữa nói chung). Bên cạnh những Luật sư giỏi về chuyên môn, phẩm chất đạo đức tốt thì vẫn còn một bộ phận vi phạm đạo đức nghề nghiệp, thiếu kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm đối đáp, tranh luận trực tiếp, dẫn đến sự tẻ nhạt và không đi vào trọng tâm của vấn đề khi tham gia các phiên tòa. Hơn nữa, trong các phiên tòa mời Luật sư chỉ định thì nhiều trường hợp bào chữa mang tính hình thức nên chất lượng tham gia tranh tụng thấp.
Một số đề xuất, kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tranh tụng tại phiên tòa
Để góp phần nâng cao chất lượng hoạt động tranh tụng tại phiên tòa và bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử, chúng tôi đề xuất, kiến nghị như sau:
Một, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao cần chỉ đạo quyết liệt đối với các cơ quan cấp dưới của mình, phải chấm dứt ngay tình trạng họp liên ngành, họp nội bộ để thống nhất quan điểm giải quyết vụ án, định tội bị cáo trước khi xét xử; đồng thời xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm.
Hai, tổ chức tập huấn, bồi dưỡng cho kiểm sát viên về kỹ năng xét hỏi, tranh tụng, đề cao trách nhiệm của kiểm sát viên đối với việc bảo đảm quyền bình đẳng của bị cáo tại phiên tòa; quán triệt nguyên tắc suy đoán vô tội đến kiểm sát viên để chấm dứt tình trạng một bộ phận kiểm sát viên có định kiến với bị cáo, coi họ đã là tội phạm khi chưa qua xét xử, làm ảnh hưởng đến việc đánh giá các chứng cứ, tình tiết vụ án một cách khách quan, công tâm của kiểm sát viên. Đồng thời, cơ quan có thẩm quyền cần quy định biện pháp áp dụng trách nhiệm đối với kiểm sát viên trong trường hợp không thực hiện nghĩa vụ đối đáp tại phiên tòa.
Ba, tổ chức tập huấn, bồi dưỡng cho thẩm phán kỹ năng điều hành tranh tụng tại phiên tòa; nâng cao trách nhiệm của chủ tọa phiên tòa trong điều hành phiên tòa theo hướng tranh tụng bảo đảm công bằng, dân chủ, khách quan. Các cơ quan giám sát hoạt động tòa án (Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội…) tăng cường hoạt động giám sát tòa án để kịp thời phát hiện, chấn chỉnh và xử lý các sai phạm của chủ tọa phiên tòa trong nhiệm vụ điều hành phiên tòa làm ảnh hưởng đến nguyên tắc tranh tụng trong xét xử, ảnh hưởng quyền bình đẳng của người tham gia tố tụng. Có thể ghi âm, ghi hình hoặc ghi hình có âm thanh về diễn biến phiên tòa để phục vụ công tác giám sát phiên tòa.
Bốn, để nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm thì cần bảo đảm thực hiện các nguyên tắc cơ bản khác trong tố tụng hình sự, trong đó có nguyên tắc suy đoán vô tội. Với nguyên tắc này, đòi hỏi hội đồng xét xử phải coi bị cáo là người chưa có tội cho đến khi chứng minh theo trình tự tố tụng và bản án có hiệu lực pháp luật. Như vậy, hội đồng xét xử mới coi trọng quá trình xét hỏi, tranh luận và đối đáp giữa kiểm sát viên và người bào chữa, bị cáo; xem xét, đánh giá kỹ lưỡng, khách quan, toàn diện từng chứng cứ, cả chứng cứ định tội và chứng cứ gỡ tội, chứng cứ giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo để tìm ra sự thật vụ án, phán quyết chính xác, tránh oan, sai người vô tội. Nếu thông qua việc xét hỏi công khai, tranh luận và đối đáp tại phiên tòa, khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định thì hội đồng xét xử phải kết luận người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo không có tội theo quy định.
Năm, Luật sư tham gia tranh tụng cần thường xuyên trau dồi kiến thức chuyên môn, kiến thức nghề nghiệp, giữ vững đạo đức và ứng xử nghề nghiệp Luật sư, rèn luyện kỹ năng xét hỏi, đối đáp, tranh luận tại phiên tòa. Đồng thời, nâng cao tinh thần trách nhiệm với nghề nghiệp, với khách hàng, có ý thức bảo vệ công lý, lẽ phải. Liên đoàn Luật sư Việt Nam, đoàn Luật sư tại các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nên thường xuyên tổ chức tập huấn, bồi dưỡng cho Luật sư các nghiệp vụ và kỹ năng tranh tụng tại phiên tòa.
(1) Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp, Từ điển Luật học, 2006, tr.807 - 809. (2) Khoản 5 Điều 103 Hiến pháp 2013. (3) https://laodong.vn/phap-luat/ca-nuoc-co-hon-16000-luat-su-4000-to-chuc-hanh-nghe-luat-su-987234.ldo |
Luật sư ĐẶNG VĂN VƯƠNG - XUÂN THOẠI
Văn phòng Luật sư Phong & Partners
Hoàn thiện quy định về tội ‘Cưỡng bức lao động’ theo Điều 297 BLHS 2015
TRƯA T7
1. Điều kiện giải thể doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ
(LSVN) - Vừa qua, Chính phủ đã ban hành Nghị định 23/2022/NĐ-CP ngày 05/4/2022 về thành lập, sắp xếp lại, chuyển đổi sở hữu, chuyển giao quyền đại diện chủ sở hữu tại doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ. Vậy theo quy định mới này, doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ bị xem xét giải thể trong các trường hợp nào?
![]()
Ảnh minh họa.
Căn cứ Điều 39 Nghị định 23/2022/NĐ-CP, doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ bị xem xét giải thể trong các trường hợp sau:
- Bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, trừ trường hợp Luật Quản lý thuế có quy định khác;
- Doanh nghiệp có dấu hiệu mất an toàn tài chính, được đặt vào tình trạng giám sát tài chính đặc biệt sau khi kết thúc thời hạn áp dụng phương án khắc phục, phương án cơ cấu lại mà không phục hồi được hoạt động sản xuất kinh doanh và không thực hiện được các hình thức chuyển đổi sở hữu, sắp xếp lại khác theo quy định của pháp luật;
- Không thực hiện được các nhiệm vụ do Nhà nước giao trong thời gian 02 năm liên tiếp sau khi đã áp dụng các biện pháp cần thiết;
- Việc tiếp tục duy trì doanh nghiệp là không cần thiết;
- Kết thúc thời hạn hoạt động đã ghi trong Điều lệ công ty mà không có quy định gia hạn.
Doanh nghiệp chỉ được giải thể khi đảm bảo thanh toán hết các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác và không trong quá trình giải quyết tranh chấp tại Tòa án hoặc cơ quan trọng tài. Người quản lý có liên quan và doanh nghiệp quy định tại điểm a khoản 1 Điều này cùng liên đới chịu trách nhiệm về các khoản nợ của doanh nghiệp.
Việc giải thể doanh nghiệp phải phù hợp với văn bản về sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Trường hợp việc giải thể chưa được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại văn bản về sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp, cơ quan đại diện chủ sở hữu trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định (trừ trường hợp doanh nghiệp giải thể khi bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc kết thúc thời hạn hoạt động đã ghi trong Điều lệ công ty mà không có quy định gia hạn).
Trường hợp không còn đáp ứng các điều kiện giải thể nêu trên hoặc đã lâm vào tình trạng phá sản thì cơ quan đại diện chủ sở hữu báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định sắp xếp theo hình thức khác hoặc thực hiện phá sản.
Nghị định 23/2022/NĐ-CP này có hiệu lực từ ngày 01/6/2022.
HỒNG HẠNH
Điểm mới về đăng ký, cấp biển số ô tô, xe máy từ 21/5
2. Thông báo rút kinh nghiệm vụ án 'Tranh chấp quyền sử dụng đất'
(LSVN) - Thông qua công tác kiểm sát xét xử giảm đốc thẩm đối với Bản án số 114/2019/DS-PT, ngày 10/6/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh VL giải quyết vụ án “Tranh chấp quyền sử dụng đất”, giữa nguyên đơn là ông Nguyễn Văn B. với bị đơn là bà Võ Thị X. đã có hiệu lực pháp luật, Viện Kiểm sát nhân dân Cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh thấy cần thông báo để rút kinh nghiệm.
![]()
Ảnh minh họa.
Nội dung vụ án:
Ngày 08/02/2007, ông Nguyễn Văn B. được Ủy ban nhân dân (UBND) huyện BM cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) diện tích 5.712,6m2, thuộc thửa 294, tờ bản đồ số 2, ấp TT, xã TB, huyện BM, tỉnh VL (Thửa 294), nguồn gốc nhận thừa kế từ cụ Nguyễn Văn G. Trước đây, cụ G. cho bà Võ Thị X. và vợ chồng ông Bùi Văn D., bà Châu Thị U. ở nhờ một nền nhà 400m2 và mượn 02 liếp đất vườn khoảng 1.200m2 để canh tác trên Thửa 294.
Năm 2010, khi tiến hành đo đạc theo chương trình Vlap thì bà X., ông D., bà U. tranh chấp với ông B., yêu cầu ông B. phải tách quyền sử dụng đất cho bà X., ông D., bà U., ông B. yêu cầu Tòa án buộc bà Võ Thị X., ông Bùi Văn D., bà Châu Thị U. và các con của ông D., bà U. phải có trách nhiệm di dời nhà cửa, vật kiến trúc, cây trồng gắn liền với quyền sử dụng 1.600m2 đất thuộc một phần Thửa 294 để trả lại cho gia đình ông.
Bà X., ông D., bà U. không đồng ý yêu cầu khởi kiện của ông B. với lý do nguồn gốc đất tranh chấp là của cụ Nguyễn Văn Q. (ông nội của ông Nguyễn Văn B.) bán cho cụ Cao Thị K. (bà cố của ông Bùi Văn D.) từ năm 1940, khi cụ K. qua đời thì cụ Huỳnh Thị N. (bà nội của ông D.) tiếp tục canh tác, sau đó cụ Bùi Văn A. (cha ông D.) tiếp tục canh tác. Cụ Bùi Văn A. chết thì cụ Võ Thị X. (mẹ ông D.) và ông D. tiếp tục canh tác sử dụng cho đến nay.
Theo chương trình đo Vlap năm 2010, ông B. cho rằng đã có GCNQSDĐ nên đã chặt phá những cây gia đình bà X. trồng và trồng xen cây vào trên đất tranh chấp. Phần đất tranh chấp, cụ Bùi Văn A. có kê khai đăng ký sổ mục kê thửa 1564, tờ bản đồ số 2, diện tích 1.200m2 và thửa 1566 diện tích 400m2 tờ bản đồ số 2 tại ấp TT, xã TB, huyện TB (nay là huyện BM), tỉnh VL. Bà X. yêu cầu hủy một phần GCNQSDĐ Thửa 294 đã cấp cho ông B., công nhận quyền sử dụng thửa đất 1564 và thửa đất 1566 cho ông D.
UBND huyện BM trình bày: Thửa 294 hình thành năm 1991 gồm 03 thửa 1564, 1655, 1656. Ngày 31/3/1991, cụ Nguyễn Văn G. xin cấp quyền sử dụng Thửa 294 và được Hội đồng đăng ký đất của xã xét cấp. Ngày 01/10/1996, UBND huyện BM cấp GCNQSDĐ Thửa 294, diện tích 6.300m2 cho cụ G. Năm 2005, cụ G. để lại thừa kế cho ông B. Năm 2007, ông B. được cấp GCNQSDĐ Thửa 294 diện tích 5.712,6m2.
Quá trình giải quyết vụ án
Tại Bản án số 40/2018/DS-ST, ngày 08/11/2018, TAND huyện BM, tỉnh VL (Bản án sơ thẩm), đã quyết định:
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Văn B. buộc bà X., ông D., bà U. và các con của ông D. và bà U. phải có trách nhiệm di dời nhà cửa, vật kiến trúc, cây trồng gắn liền với quyền sử dụng đất chiết thửa 294-1 diện tích 150,4m2; chiết thửa 294-2 diện tích 119,2m2; chiết thửa 294-3 diện tích 755,8m2; chiết thửa 194-4 diện tích 472,4m2.
Chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn ông Bùi Văn D.: Hủy một phần GCNQSDĐ thửa 294, diện tích 5,712m2, do ông B đứng tên quyền sử dụng đất. Công nhận cho ông D. các phần đất thuộc: Chiết thửa 294-1 diện tích 150,4m2; chiết thửa 294-2 diện tích 119,2m2, chiết thửa 294-3 diện tích 755,8m2; chiết thửa 194-4 diện tích 472,4m2. Công nhận phần cây trồng cho ông Bùi Văn D. được quyền sử dụng nhưng hoàn lại giá trị cây trồng cho ông Nguyễn Văn B. là 9.460.000 đồng.
Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn quyết định về các vấn đề liên quan khác. Ngày 20/11/2018, ông Nguyễn Văn B. kháng cáo Bản án sơ thẩm.
Tại Bản án số 114/2019/DS-PT, ngày 10/6/2019 của TAND tỉnh VL (Bản án phúc thẩm), đã quyết định:
Chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn Văn B.: Sửa Bản án sơ thẩm Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn B.
Công nhận ông B được quyền sử dụng phần đất chiết thửa 194-3 diện tích 755,8m2, chiết thửa 294-4 diện tích 472,4m2.
Buộc bà X., ông D., bà U. trả lại cho ông B. các phần đất thuộc chiết thửa 294-3 diện tích 755,8m2, chiết thửa 294-4 diện tích 472,4m2 (kèm theo trích đo bản đồ địa chính khu đất).
Ông B. được quyền sở hữu các cây trồng gắn liền phần chiết thửa 294-3 diện tích 755,8m2. Buộc ông B có trách nhiệm hoàn trả giá trị cây trồng cho bà X., ông D., bà U. số tiền 7.175.000 đồng.
Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bị đơn Bùi Văn D.
Công nhận cho bà X., ông D., bà U. được quyền sử dụng phần đất thuộc chiết thửa 294-1 diện tích 150,4m2 (trong đó có 105,2m2 đất ở nông thôn và 45,2m2 đất trồng cây lâu năm) và chiết thửa 294-2 diện tích 119,2m2 (kèm theo trích đo bản đồ địa chính khu đất).
Buộc bà X., ông D. và bà U. có trách nhiệm hoàn trả lại giá trị phần đất thuộc chiết thửa 294-1 diện tích 150,4m2 và chiết thửa 294-2 diện tích 119,2m2 cho ông B. bằng số tiền 34.324.000 đồng.
Bà X., ông D., bà U. được quyền sở hữu các cây trồng gắn liền phần đất chiết thửa 294-2 diện tích 119,2m2. Buộc bà X., ông D., bà U. có trách nhiệm hoàn trả giá trị cây trồng cho ông B. số tiền 2.325.000 đồng. Ghi nhận sự tự nguyện của ông B. đồng ý để ngôi mộ của ông Bùi Văn A. được tồn tại trên phần đất chiết thửa 294-3. Ông B. và các thành viên trong gia đình ông B phải tạo mọi điều kiện thuận lợi để con cháu ông A. đi vào chăm sóc, viếng mộ ông A. theo phong tục tập quán.
Ngoài ra, Bản án phúc thẩm còn quyết định về các vấn đề liên quan khác. Ông Bùi Văn D. có đơn đề nghị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đối với Bản án phúc thẩm.
Tại Quyết định giám đốc thẩm số 172/2021/DS-GĐT ngày 14/5/2021 của Tòa án nhân dân Cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đã chấp nhận toàn Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 64/QĐKNGĐT-VKS-DS, ngày 01/02/2021 của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân Cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh về việc hủy Bản án phúc thẩm và giữ nguyên Bản án sơ thẩm.
Vấn đề cần rút kinh nghiệm
Ông Nguyễn Văn B. cho rằng phần đất tranh chấp do cụ Nguyễn Văn G. (cha ông B.) đã cho bà X., ông D., bà U. ở nhờ nhưng không xuất trình được chứng cứ chứng minh. Bà X., ông D., bà U. xác định nguồn gốc đất do gia tộc nhận chuyển nhượng của cụ Nguyễn Văn Q. từ năm 1936 có xác nhận của Hương chức làng TQ. Đến năm 1980 cụ Bùi Văn A. là cha ông D. đã kê khai, đăng ký quyền sử dụng đất. Việc sử dụng đất của gia đình bà X. là liên tục, ổn định, lâu dài, bảo đảm về việc xác lập quyền sử dụng đất theo quy định tại Điều 247 Bộ luật Dân sự năm 2005.
Theo chứng thực lưu trữ địa chính số 379/CTLT ngày 17/3/2015 của Trung tâm công nghệ thông tin tỉnh VL và Công văn số 570/UBND-NC ngày 14/7/2017 của UBND huyện BM xác định năm 1980 cụ Bùi Văn A. (cha ông D.) có đăng ký thửa 1564 diện tích 1.200m2 và thửa đất 1566 diện tích 400m2. Còn cụ G. (cha ông B) đăng ký thửa 1565 diện tích 5.400m2. Tuy nhiên, đến năm 1991 khi thực hiện đo đạc chương trình đất thì cụ G. đăng ký kê khai tổng diện tích là 6.300m2 gồm cả 3 thửa 1564, 1565, 1566 nhập thành Thửa 264 và được cấp GCNQSĐ ngày 01/10/1996. GCNQSDĐ cấp cho ông B. không trùng khớp với hiện trạng sử dụng đất của các bên với lý do năm 1991 Thửa 264 có diện tích 6.300m2 nhưng đến năm 2005 giảm xuống còn 5.712,6m2 do sạt lở cặp rạch thông lưu và làm đường giao thông nông thôn.
Tại Quyết định số 65/QĐ-UBND ngày 17/01/2006 của UBND huyện BM đã hủy bỏ GCNQSDĐ cấp ngày 01/10/1996 do mất Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Sau đó ông B. làm thủ tục thừa kế và được cấp GCNQSDĐ ngày 08/02/2007. UBND cấp GCNQSDĐ cho cụ G. ngày 01/10/1996 (trong khi cụ G. đã chết ngày 28/6/1993) đối với toàn bộ thửa đất số 264 là không đúng đối tượng và thực tế quá trình sử dụng đất, không đúng quy định của pháp luật về đất đai.
Bản án sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông B. và hủy một phần GCNQSDĐ đối với phần đất ông D., bà U., bà X. đang sử dụng tại chiết thửa 294-1; 294-2; 294-3; 294-4 thuộc một phần Thửa 294 là có căn cứ đúng quy định của pháp luật. Bản án phúc thẩm chấp nhận yêu cầu của ông B., buộc bà X., ông D., bà U. trả lại cho ông B. phần đất nêu trên là không có căn cứ, không đúng quy định pháp luật.
PV
Chế tài xử lý đối với hành vi vi phạm về phát hành, bán trái phiếu trái quy định
3. Một số vi phạm phổ biến trong quá trình giải quyết vụ án ‘Tranh chấp hợp đồng tín dụng’
(LSVN) - VKSND Tối cao vừa ban hành Hướng dẫn 25/HD-VKSTC hướng dẫn một số nội dung liên quan đến hoạt động kiểm sát việc giải quyết vụ án Kinh doanh thương mại (KDTM) về “Tranh chấp hợp đồng tín dụng”.
![]()
Ảnh minh họa.
Từ thực trạng giải quyết vụ án KDTM về “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” còn nhiều vi phạm, thiếu sót của Tòa án cấp dưới trong quá trình giải quyết vụ án về tranh chấp hợp đồng tín dụng, thể hiện qua số bản án, quyết định bị Tòa án cấp trên hủy, sửa chiếm tỷ lệ cao trong cơ cấu vụ án KDTM bị hủy, sửa, VKSND Tối cao (Vụ 10) đã chỉ ra một số vi phạm phổ biến trong quá trình giải quyết vụ án về “Tranh chấp hợp đồng tín dụng”. Cụ thể như sau:
1. Xác định không đúng tư cách tố tụng của đương sự
Đối với hợp đồng tín dụng (HĐTD) do chi nhánh, phòng giao dịch của các tổ chức tín dụng (TCTD) xác lập, thực hiện với khách hàng, nhiều trường hợp Tòa án vẫn xác định chi nhánh, phòng giao dịch là đương sự trong vụ án. Trường hợp khác, đối với HĐTD do doanh nghiệp tư nhân vay vốn, khi tham gia tố tụng, có Tòa án vẫn xác định tên doanh nghiệp tư nhân hoặc xác định giám đốc doanh nghiệp do chủ doanh nghiệp tư nhân thuê để quản lý doanh nghiệp là đương sự.
Ví dụ, vụ án “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” do TAND tỉnh TN giải quyết tại Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 01/2012/QĐST-KDTM ngày 04/05/2012 xác định nguyên đơn là Ngân hàng N - Chi nhánh thành phố TN với bị đơn là Doanh nghiệp tư nhân sửa chữa ôtô HT (do ông Đào Ngọc X. là chủ doanh nghiệp). Quyết định nêu trên đã bị hủy bởi Quyết định giám đốc thẩm của TAND cấp cao, một trong những nguyên nhân bị hủy là do Tòa án cấp sơ thẩm xác định không đúng tư cách đương sự của nguyên đơn và bị đơn.
Trong trường hợp nêu trên, phải xác định pháp nhân là đương sự căn cứ khoản 6 Điều 84 Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015: “Pháp nhân có quyền, nghĩa vụ dân sự phát sinh từ giao dịch dân sự do chi nhánh, văn phòng đại diện xác lập, thực hiện”, và phải xác định ông/ bà... chủ doanh nghiệp tư nhân... tham gia tố tụng theo quy định tại khoản 1 Điều 183 Luật Doanh nghiệp năm 2014: “Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp” (tương ứng khoản 1 Điều 188 Luật Doanh nghiệp năm 2020).
2. Bỏ sót vợ hoặc chồng tham gia tố tụng đối với trường hợp tài sản thế chấp đứng tên một người trong thời kỳ hôn nhân
Nhiều trường hợp Tòa án chỉ căn cứ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) và tài sản khác gắn liền với đất đứng tên một người vợ hoặc chồng thế chấp, nên chỉ đưa người này tham gia tố tụng mà không đưa người còn lại vào tham gia tố tụng dẫn đến những thiếu sót, ảnh hưởng đến quyền lợi của họ, vì liên quan nguồn gốc, công sức đóng góp hình thành tài sản, những thỏa thuận về tài sản riêng của vợ hoặc chồng. Quá trình giải quyết vụ án không phát hiện thiếu sót này dẫn đến nhiều vụ án bị hủy ở cấp giám đốc thẩm.
Ví dụ, vụ án “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” giữa nguyên đơn Ngân hàng S với bị đơn Công ty Đ, người liên quan là bà Nguyễn Thị C., Nguyễn Thị T. Tại Bản án phúc thẩm số 10/2015/KDTM-PT ngày 20/8/2015 của TAND Cấp cao quyết định giữ nguyên bản án sơ thẩm buộc đơn phải thanh toán cho nguyên đơn số tiền 24.760.000.000 đồng, nếu không thanh toán được xử lý tài sản thế chấp, trong đó có nhà đất tại 477 Nguyễn Văn Cừ...
Trong vụ án này, tài sản thế chấp (TSTC) là nhà đất tại 477 Nguyễn Văn Cừ, thành phố H, có nguồn gốc năm 1995 bà C. mua có hợp đồng công chứng, nhưng chưa sang tên. Ngày 16/02/2001, bà C. cùng chồng là ông Nguyễn Thiện C1 bán nhà đất 477 Nguyễn Văn Cừ này cho ông Nguyễn Văn Th. với giá 1.200.000.000 đồng. Nhưng năm 2004, bà C. tự làm thủ tục kê khai và được cấp GCNQSDĐ và thế chấp Ngân hàng S cho Công ty Đ vay tiền. Vụ án có liên quan đến ông C1, nhưng Tòa án chưa thu thập chứng cứ làm rõ quan hệ hôn nhân giữa ông C1 và bà C. và quyền lợi của ông C1 đối với nhà 477 Nguyễn Văn Cừ; đồng thời hành vi dùng 1 tài sản thực hiện nhiều giao dịch là có dấu hiệu của tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, nhưng Tòa án chưa làm rõ việc bà C có hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản hay không để xử lý hình sự, là không đúng.
Trường hợp tài sản đứng tên một người thời kỳ hôn nhân không chỉ xem xét nội dung GCNQSDĐ, mà còn phải căn cứ Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về tài sản chung vợ chồng, đặc biệt có trường hợp phải áp dụng Điều 15 Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 (quy định “Vợ và chồng đều có quyền sở hữu, hưởng thụ và sử dụng ngang nhau đối với tài sản có trước và sau khi cưới”) và những quy định có liên quan để xem xét kỹ nguồn gốc hình thành tài sản, tài sản nhận chuyển nhượng hay được tặng cho, được thừa kế, nếu đứng tên riêng thì xem xét những thỏa thuận về tài sản riêng của vợ hoặc chồng; những tài liệu, chứng cứ kèm theo; trường hợp cần thiết phải xác minh hồ sơ cấp GCNQSDĐ và tài sản gắn liền với đất để xem xét về nguồn gốc hình thành tài sản. Phải xem xét đưa chồng hoặc vợ (người không đứng tên trong GCNQSDĐ) vào tham gia tố tụng với tư cách đương sự để giải quyết triệt để, toàn diện vụ án.
3. Bỏ sót thành viên hộ gia đình có quyền đối với tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất đứng tên “hộ gia đình”
Có trường hợp Tòa án bỏ sót thành viên hộ gia đình tham gia tố tụng, dẫn đến không ít bản án, quyết định bị hủy sửa.
Ví dụ: Vụ án “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” giữa nguyên đơn là Ngân hàng X với bị đơn là Công ty HQ. Theo GCNQSDĐ mà vợ chồng anh Cao Huy Q. và Nguyễn Thị T. thế chấp năm 2010 có tên sử dụng đất là hộ Cao Huy Q. hoặc là hộ Cao Huy Q., Nguyễn Thị T. để bảo đảm khoản vay cho Công ty HQ. Theo các Sổ hộ khẩu thể hiện ông Cao Huy H. (cha ông Q.) ở cùng vợ chồng anh Q. cho đến năm 2012 mới tách hộ. Trong khi đó, các GCNQSDĐ đều được cấp năm 2004 và 2006. Tòa án không đưa thành viên hộ gia đình (ông H.) tham gia tố tụng là thiếu sót
Đối với những trường hợp này, áp dụng khoản 29 Điều 3 Luật Đất đai năm 2013 quy định: “Hộ gia đình sử dụng đất là những người có quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình, đang sống chung và có quyền sử dụng đất chung tại thời điểm được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất; nhận chuyển quyền sử dụng đất” và Điều 212 BLDS năm 2015 quy định về sở hữu chung của các thành viên gia đình, có những thành viên nào đủ từ 15 tuổi trở lên (Điều 109 BLDS năm 2005), người thành niên (Điều 212 BLDS năm 2015) để kiểm sát việc Tòa án xác định đầy đủ các thành viên có quyền về tài sản vào tham gia tố tụng nhằm xem xét, xử lý triệt để vụ án. Để xác định có bao nhiêu người trong hộ gia đình thực sự có quyền về tài sản, cần lưu ý không chỉ căn cứ vào nội dung GCNQSDĐ, sổ hộ khẩu, mà cần phải xác định rõ ai mới là thành viên của hộ thực sự có quyền về tài sản
4. Đình chỉ giải quyết vụ án do doanh nghiệp chấm dứt hoạt động, bị giải thể không đúng
Đối với doanh nghiệp chấm dứt hoạt động, bị giải thể, nhiều trường hợp, Tòa án đình chỉ giải quyết vì cho rằng không đủ điều kiện thụ lý, giải quyết là không đúng, vì trường hợp này phải xác định cá nhân, tổ chức là thành viên của tổ chức đó hoặc đại diện của họ tham gia tố tụng để tiếp tục giải quyết vụ án theo thủ tục chung.
Ví dụ, vụ án “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” giữa nguyên đơn là Ngân hàng X với bị đơn là ông Bạch Ngọc T., người liên quan là Công ty T. Trước đây, Công ty T. nợ của Ngân hàng X số tiền gốc 120.656,66 USD nên bị khởi kiện. Quá trình giải quyết, TAND thành phố H xác định: Ngày 09/10/2000, Công ty T bị thu hồi Giấy chứng nhận Đăng ký kinh doanh nên đã ra Quyết định số 13/2016/QĐST-KDTM đình chỉ giải quyết vụ án với lý do chưa đủ điều kiện khởi kiện, Tòa án cấp phúc thẩm cũng giữ nguyên quyết định đình chỉ giải quyết vụ án là không đúng, vì Công ty T đã giải thể nên Ngân hàng X có quyền khởi kiện các thành viên của Công ty T trả nợ để tiếp tục giải quyết vụ án
Trong trường hợp nêu trên, căn cứ quy định tại điểm a, khoản 2 Điều 74 Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2015:“Trường hợp tổ chức phải chấm dứt hoạt động, bị giải thể là công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh thì cá nhân, tổ chức là thành viên của tổ chức đó hoặc đại diện của họ tham gia tố tụng”, để yêu cầu Tòa án tiếp tục giải quyết vụ án.
5. Đình chỉ giải quyết vụ án hoặc trả lại đơn khởi kiện do bị đơn thay đổi địa chỉ không đúng
Thực tế, không ít trường hợp sau khi vay được tài sản, bị đơn có dấu hiệu trốn nợ như thay đổi địa chỉ trụ sở, chi nhánh; hoặc doanh nghiệp ngừng hoạt động nhưng không tiến hành thủ tục giải thể, không biết địa chỉ của người quản lý, đại diện theo pháp luật. Khi khởi kiện, TCTD ghi đúng địa chỉ bị đơn khi ký HĐTD, nhưng do không tống đạt cho đương sự được (do thay đổi địa chỉ), Tòa án đình chỉ giải quyết vụ án hoặc trả lại đơn khởi kiện là không đúng quy định pháp luật.
BLTTDS năm 2015 và Nghị quyết 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/5/2017 của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao hướng dẫn một số quy định về trả lại đơn khởi kiện, quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án tại khoản 1 và khoản 3 Điều 192 BLTTDS (Nghị quyết 04/2017/NQ- HĐTP) quy định cụ thể hơn về việc giải quyết trong trường hợp bị đơn, người liên quan vắng mặt tại nơi cư trú. Tại điểm e khoản 1 Điều 192 BLTTDS và khoản 2 Điều 5 Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP quy định:“Người khởi kiện đã cung cấp địa chỉ “nơi cư trú, làm việc, hoặc nơi có trụ sở” của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cho Tòa án theo đúng quy định của pháp luật và hướng dẫn tại khoản 1 Điều này tại thời điểm nộp đơn khởi kiện mà được cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cấp, xác nhận hoặc có căn cứ khác chứng minh rằng đó là địa chỉ của người bị kiện, người có quyền nghĩa vụ quan thì được coi là đã ghi đúng địa chỉ của người bị kiện, người có quyền nghĩa vụ liên quan”.
Trường hợp bị đơn, người liên quan “cố tình giấu địa chỉ” thì Kiểm sát viên (KSV) xem xét có dấu hiệu hình sự về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” (Điều 174 Bộ luật Hình sự), “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” (Điều 175 Bộ luật Hình sự) hay không để có định hướng tiếp tục giải quyết vụ án.
Trường hợp không đủ yếu tố cấu thành tội phạm thì căn cứ điểm a, b, khoản 2 Điều 6 Nghị quyết 04/2017/NQ-HĐTP kiểm sát việc Tòa án tiếp tục giải quyết vụ án mà không đình chỉ hoặc trả lại đơn khởi kiện. Trường hợp Tòa án không thể xác định được nơi cư trú của bị đơn và người liên quan thì Tòa án có thể thông qua thủ tục niêm yết để xét xử vắng mặt hoặc thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng khi có yêu cầu của các đương sự khác trong vụ án.
6. Việc xác định thời hiệu khởi kiện
Thực tiễn giải quyết tranh chấp HĐTD, việc xác định thời hiệu khởi kiện vụ án có còn hay không có ý nghĩa quan trọng trong việc giải quyết vụ án đúng quy định.
Vấn đề này,lưu ý tính đặc thù về thời hiệu giải quyết loại án “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” mặc dù Điều 429 BLDS năm 2015 quy định chung về “Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp hợp đồng là 03 năm, kể từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm”. Tuy nhiên, theo khoản 2 Điều 155 BLDS năm 2015 thì không áp dụng thời hiệu đối với “Yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác”, nên Tòa án vẫn thụ lý, giải quyết vụ án “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” theo thủ tục chung.
7. Vi phạm trong việc phạt vi phạm và tính lãi
Thứ nhất, xác định việc phạt vi phạm không đúng
Thực tế, trong nhiều HĐTD có quy định thêm điều khoản về phạt vi phạm đối với việc quá hạn của hợp đồng ngoài việc chuyển sang nợ quá hạn. Về bản chất, đây là khoản phạt quá hạn (thường bằng 150% lãi suất trong hạn); khi phát sinh tranh chấp, nhiều Tòa án căn cứ thỏa thuận tại HĐTD đã công nhận điều khoản này là không đúng.
Ví dụ: Vụ án “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” giữa nguyên đơn là Ngân hàng S với bị đơn là Công ty Đ, người liên quan là bà Nguyễn Thị C, Nguyễn Thị T... theo HĐTD các bên thỏa thuận về lãi suất quá hạn bằng 150% lãi suất vay trong hạn nhưng lại còn thỏa thuận về lãi phạt chậm trả (=150% lãi suất vay trong hạn) đối với số tiền lãi chưa thanh toán đúng hạn theo hợp đồng là lãi chồng lãi, phạt chồng phạt
Hiện nay,chưa có quy định nào cho phép phạt nhiều lần về cùng vi phạm trong HĐTD. Điều 12 Nghị quyết 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm (Nghị quyết 01/2019/NQ-HĐTP) quy định nguyên tắc “chỉ xử lý một lần đối mỗi hành vi không trả nợ đúng hạn”. Do vậy, nếu các bên đã thỏa thuận về lãi suất quá hạn (thường bằng 150% lãi suất vay trong hạn), lại còn quy định thêm khoản phạt chậm trả hoặc lãi đối với lãi chậm trả là không đúng
Thứ hai, vi phạm về việc không xác định lãi suất theo thỏa thuận và không áp dụng việc điều chỉnh lãi suất theo hợp đồng tín dụng
Trong một số HĐTD, các bên có thỏa thuận về lãi suất cho vay, gồm: lãi suất cho vay trong hạn, lãi suất nợ quá hạn, việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của TCTD. Tuy nhiên, đến thời điểm xét xử sơ thẩm, khách hàng vay chưa thanh toán, hoặc thanh toán không đủ số tiền nợ gốc, lãi, có trường hợp Tòa án tuyên: “Áp dụng lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời gian chậm thi hành án” và không điều chỉnh lãi suất vay theo thỏa thuận của các bên trong HĐTD là không đúng, dẫn đến nhiều bản án, quyết định bị hủy, sửa.
Trường hợp này, khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán tiền nợ gốc chưa thanh toán, tiền lãi trên nợ gốc trong hạn, lãi nợ quá hạn theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong HĐTD cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này. Trường hợp các bên thỏa thuận việc điều chỉnh mức lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của TCTD thì lãi suất mà khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của TCTD
Thứ ba, về căn cứ xác định cách tính khoản tiền lãi kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm
Từ khi có Án lệ số 08/2016/AL ngày 17/10/2016 về xác định lãi suất, việc điều chỉnh lãi suất trong HĐTD kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm, nhiều Tòa án đã xác định các khoản tiền vay của các tổ chức tín dụng, ngoài khoản tiền nợ gốc, lãi vay trong hạn, lãi vay quá hạn, phí mà khách hàng vay phải thanh toán cho bên cho vay theo HĐTD tính đến ngày xét xử sơ thẩm, thì “kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm khách hàng vay còn phải tiếp tục khoản lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này”.
Tuy nhiên, đến khi ban hành Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP thì việc xác định mức lãi suất, thời điểm tính lãi suất và số tiền để tính lãi suất được hướng dẫn khái quát, đầy đủ hơn, cụ thể như sau: “Đối với trường hợp chậm thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng mà các bên có thỏa thuận về việc trả lãi thì quyết định kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất các bên thỏa thuận nhưng phải phù hợp với quy định của pháp luật; nếu không có thỏa thuận về mức lãi suất thì quyết định theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015” (điểm a, khoản 1 Điều 13). Vì vậy, khi kiểm sát việc quyết định lãi, lãi suất trong bản án, quyết định của Tòa án đối với loại án về tranh chấp HĐTD, KSV cần chú ý áp dụng cho chính xác và đầy đủ văn bản pháp luật hướng dẫn về cách tuyên án này
Ngoài ra, trường hợp nguyên đơn (TCTD) chỉ cung cấp duy nhất một bảng tổng về lãi tính đến ngày xét xử; không có tài liệu giải trình việc tính lãi chi tiết trong hạn và quá hạn, nếu thấy việc tính lãi không hợp lý (thực tế có không ít vụ tính lãi quá cao, lãi chồng lãi, phạt chồng phạt), KSV xem xét đề nghị HĐXX tạm ngừng phiên tòa để thu thập thêm tài liệu, chứng cứ theo quy định tại điểm c, khoản 1 Điều 259 BLTTDS năm 2015.
8. Không xem xét việc thẩm định tại chỗ tài sản thế chấp
Không ít trường hợp,Tòa án không xem xét thẩm định tại chỗ, vì cho rằng không có ai yêu cầu, hoặc trường hợp vụ án bị hủy để xét xử lại thì Tòa án cho rằng giai đoạn xét xử trước đây đã xem xét thẩm định tại chỗ. Vi phạm này, dẫn đến bản án, quyết định bị hủy ở cấp giám đốc thẩm.
Ví dụ: Công ty K vay của Ngân hàng C 20.000.000.000 đồng, tài sản bảo đảm là nhà đất đứng tên bà Nguyễn Xuân H. tại thôn PM, xã MĐ, huyện TL, thành phố H. Do vi phạm nghĩa vụ thanh toán, Ngân hàng C khởi kiện yêu cầu Công ty K thanh toán tiền và xử lý TSTC. Quá trình giải quyết, tại Bản án phúc thẩm (lần 2) số 43/2017/KDTM-PT ngày 06/3/2017 của TAND cấp cao quyết định (tóm tắt): Trường hợp Công ty K không trả được nợ thì Ngân hàng C có quyền yêu cầu phát mãi nhà đất tại thôn PM, xã MĐ, huyện TL, thành phố H theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AA 242706 do UBND huyện TL cấp ngày 20/8/2004 cho bà Nguyễn Xuân H ngày 09/02/2012 để trả nợ cho Công ty K.
Tuy nhiên, thực tế tài sản này không còn của bà Nguyễn Xuân H., do sau khi Bản án phúc thẩm (lần 1) số 168/2014/KDTM-PT ngày 17/9/2014 Tòa phúc thẩm buộc Ngân hàng C phải trả lại cho bà H GCN QSDĐ số AA 242706, bà H. đã chuyển nhượng cho bà Th., bà Th. tách nhiều thửa đất chuyển nhượng cho nhiều người. Đến khi xét xử phúc thẩm lại lần 2, Tòa án không xem xét thẩm định tại chỗ, xác định hiện trạng tài sản ai đang quản lý, sử dụng và cũng không xử lý hậu quả của việc thi hành án theo quy định tại khoản 5 Điều 313 BLTTDS năm 2015, nên đã bị cấp giám đốc thẩm hủy án để giải quyết lại phần TSTC
Khi kiểm sát việc xem xét, thẩm định tại chỗ tài sản bảo đảm, cần kiểm sát chặt chẽ việc Tòa án xem xét, thẩm định tại chỗ TSTC theo Điều 101 BLTTDS năm 2015. Cụ thể là, việc xem xét, thẩm định tại chỗ của Tòa án có mô tả đúng, đầy đủ hiện trạng TSTC không? có đo vẽ, xác định chính xác cụ thể vị trí tài sản (trường hợp cần thiết phải có bản ảnh để quan sát tài sản trên thực tế); đồng thời xác định người có quyền đối với TSTC, hoặc ai đang quản lý, sử dụng TSTC và TSTC trên thực tế có khác gì so với tài sản thể hiện trên giấy tờ hay không để giải quyết vụ án một cách toàn diện, triệt để.
Cần lưu ý: Trường hợp Tòa án không tiến hành xem xét thẩm định tại chỗ vì cho rằng không có ai yêu cầu, hoặc trường hợp khi vụ án bị hủy để xét xử lại Tòa án cho rằng giai đoạn xét xử trước đây đã xem xét thẩm định tại chỗ, thì cần yêu cầu Tòa án xem xét, thẩm định lại tài sản, vì qua thời gian, tài sản có thể có những biến động, như có sự thay đổi về tài sản trên đất, người quản lý tài sản ...
9. Việc tuyên hợp đồng thế chấp bị vô hiệu không đúng
Thực tế, xảy ra nhiều trường hợp trên đất có nhiều loại tài sản mà có tài sản thuộc sở hữu của người sử dụng đất được thế chấp, có tài sản thuộc sở hữu của người khác. Khi giải quyết, một số Tòa án tuyên vô hiệu toàn bộ (hoặc vô hiệu một phần) hợp đồng thế chấp (HĐTC), trong khi HĐTC có nội dung và hình thức phù hợp với quy định pháp luật là không đúng.
Ví dụ: Vụ án “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” giữa nguyên đơn là Ngân hàng A với bị đơn là Công ty B. Để đảm bảo cho khoản vay được giải ngân 3.066.191.933 đồng, ngày 11/6/2008, ông Trần Duyên H. và bà Lưu Thị Minh N. đã thế chấp nhà, đất tại tổ 28, phường E, quận G, thành phố H, gồm: diện tích đất ở 147,7m2, diện tích nhà ở 85m2, số tầng: 02+01, HĐTC được công chứng và đăng ký giao dịch bảo đảm. Ngoài ra, thực tế còn có căn nhà 3,5 tầng do ông Trần Lưu H2 là con ông H. và bà N. xây dựng năm 2002 nhưng chưa đăng ký sở hữu, không đưa vào HĐTC. Trường hợp này, trên đất của nhiều tài sản gắn liền với đất, trong đó có tài sản thuộc quyền sở hữu của người thế chấp, có tài sản thuộc quyền sở hữu của người khác, mà người thế chấp chỉ thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất thuộc sở hữu của mình. Nội dung và hình thức của HĐTC phù hợp với quy định của pháp luật thì HĐTC có hiệu lực pháp luật. Nhưng quá trình giải quyết, Tòa án cấp phúc thẩm xác định HĐTC vô hiệu một phần hay vô hiệu toàn bộ (do thế chấp thiếu căn nhà 3,5 tầng) đều không đúng, nên đã bị cấp giám đốc thẩm hủy án để giải quyết lại phần TSTC
Cần lưu ý: Khi xem xét đến hiệu lực của HĐTC, BLDS năm 2015 đã quy định mới 02 điều luật (Điều 325 về thế chấp quyền sử dụng đất mà không thế chấp tài sản gắn liền với đất, Điều 326 về thế chấp tài sản gắn liền với đất mà không thế chấp quyền sử dụng đất); đồng thời có quy định mới bảo vệ người thứ ba ngay tình (Điều 133), Công văn Giải đáp nghiệp vụ số 02/2021/TANDTC-PC ngày 02/8/2021 của TAND tối cao (mục 1 phần III) và đã có 03 Án lệ liên quan đến hiệu lực của HĐTC. Nhìn chung, trường hợp HĐTC được ký kết tự nguyện, được công chứng, chứng thực, tài sản đã được TCTD xem xét, thẩm định và đăng ký giao dịch bảo đảm đúng quy định, thì không vì những lý do như có tài sản phát sinh trên đất tranh chấp, giao dịch về tài sản trước đó bị vô hiệu để xác định vô hiệu, mà phải công nhận hiệu lực của HĐTC.
10. Xác định việc thế chấp tài sản của bên thứ ba vô hiệu không đúng
Có trường hợp tổ chức,cá nhân dùng tài sản của chính mình để bảo đảm nghĩa vụ vay của người khác. Tuy nhiên, một số cơ quan tố tụng lại cho rằng HĐTC đối với tài sản của bên thứ ba vô hiệu do nhận thức rằng thực chất đây là hợp đồng bảo lãnh, do đó các bên phải ký kết hợp đồng bảo lãnh chứ không phải HĐTC của bên thứ ba. Nhận thức khác còn cho rằng, việc bảo lãnh không chỉ định tài sản cụ thể làm tài sản bảo đảm, nếu có việc chỉ định này thì giao dịch trở thành giao dịch cầm cố hoặc thế chấp. Nhận thức này là không đúng với các quy định của BLDS.
Trường hợp này cần lưu ý, một số TCTD đặt tên là “hợp đồng thế chấp” hoặc “hợp đồng thế chấp và bảo lãnh”, “hợp đồng thế chấp của người thứ ba”... đều mang tính hình thức, vấn đề quan trọng là nội dung thỏa thuận và khi có tranh chấp xảy ra, căn cứ khoản 1 Điều 335 BLDS năm 2015 quy định: Bảo lãnh là việc người thứ ba cam kết bên có quyền thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ, nếu khi đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ và khoản 3 Điều 336 BLDS năm 2015 quy định: “Các bên có thể thỏa thuận sử dụng biện pháp bảo đảm bằng tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh”. Căn cứ các quy định trên thì những thỏa thuận xử lý tài sản của bên thứ ba phù hợp với quy định này vẫn có hiệu lực, không bị vô hiệu.
11. Vi phạm do vượt quá phạm vi bảo đảm cho khoản tiền vay
Một số trường hợp khi bên có TSTC giới hạn việc thế chấp để đảm bảo khoản vay trong phạm vi hạn mức số tiền vay nhất định. Tuy nhiên, khi phát sinh tranh chấp, Tòa án không xem xét kỹ trường hợp này, mà áp dụng theo các hợp đồng thế chấp thông thường không bị giới hạn phạm vi thế chấp tài sản là không đúng quy định, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
Ví dụ: Vụ án “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” giữa nguyên đơn là Ngân TT với bị đơn là Công ty MT, người liên quan là hộ bà Nguyễn Thị Bình M. và ông Nguyễn Tống T. Ngày 14/6/2011, bà M. ủy quyền cho ông T. được quyền thế chấp một phần các thửa đất số 81, thửa 531, 508, 509, 563, tại phường LĐ, quận TĐ, thành phố H. Tuy nhiên, cùng ngày 14/6/2011, bà M., ông T. còn ký Văn bản thỏa thuận có nội dung bà M. chỉ ủy quyền cho ông T. thế chấp trong phạm vi giá trị 10.000.000.000đ (mười tỷ đồng), song ông T lại thế chấp để bảo lãnh cho Công ty MT vay đến 43.801.409.000đ là vượt quá phạm vi ủy quyền. Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm quyết định phát mãi toàn bộ TSTC của bà M. là không đúng.
Cần lưu ý: Phải xem xét kỹ phạm vi bảo đảm đối với khoản tiền vay trong HĐTC cụ thể và trình bày của đương sự về phạm vi bảo đảm.
12. Hủy toàn bộ bản án, quyết định không đúng
Trường hợp khi giải quyết tranh chấp HĐTD gồm 2 phần, phần nợ vay và phần tài sản bảo đảm, Tòa án cấp dưới đã giải quyết đúng phần nợ vay, còn phần tài sản bảo đảm giải quyết chưa đúng. Nhưng khi Tòa án cấp trên giải quyết lại tuyên hủy toàn bộ bản án, quyết định là không đúng, dẫn đến vụ án bị hủy ở cấp giám đốc thẩm để giải quyết lại.
Ví dụ: Vụ án “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” giữa nguyên đơn là Ngân TV với bị đơn là Công ty ZT. Tại Bản án sơ thẩm số 04/2016/KDTM-ST ngày 26/12/2016, TAND tỉnh V đã tuyên:
Buộc Công ty ZT phải trả cho Ngân hàng TV nợ gốc 697.564.464đ, nợ lãi: 489.464.431đ. Tổng cộng: 1.187.028.895đ. Công ty ZT còn phải chịu lãi theo hợp đồng tín dụng…
Không chấp nhận yêu cầu được phát mãi tài sản thế chấp của hộ gia đình ông Nguyễn Xuân C. Tuyên bố Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số ... vô hiệu...
Tại Bản án phúc thẩm số 311/2017/KDTM-PT ngày 25/10/2017 tuyên hủy toàn bộ Bản án sơ thẩm số 04/2016/KDTM-ST ngày 26/12/2016 của TAND tỉnh V.
Trong vụ án này, cấp sơ thẩm giải quyết đúng phần nợ gốc, lãi, chỉ sai phần xử lý TSTC, lẽ ra cấp phúc thẩm chỉ hủy phần này. Việc Bản án phúc thẩm hủy toàn bộ Bản án sơ thẩm là không đúng.
Cần lưu ý: Đa số tranh chấp HĐTD, thường Tòa án giải quyết 02 phần, phần tranh chấp khoản tiền vay (gồm gốc, lãi trong hạn, lãi quá hạn, các khoản phí) và phần xử lý tài sản bảo đảm. Đây là 2 phần độc lập không ảnh hưởng đến việc giải quyết, nên nếu chỉ giải quyết sai phần xử lý tài sản bảo đảm thì chỉ tuyên hủy một phần bản án, quyết định, không hủy toàn bộ bản án, quyết định.
13. Vụ án có dấu hiệu hình sự nhưng vẫn giải quyết theo tố tụng dân sự
Trong không ít vụ án “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” có dấu hiệu hình sự theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 về các tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” (Điều 174), “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” (Điều 175), “Vi phạm quy định trong hoạt động của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài” (Điều 206). Chẳng hạn, hành vi của ông A đã chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông B, nhưng sau đó lại sử dụng tài sản này thế chấp vay ngân hàng; hoặc trường hợp giám đốc chi nhánh ngân hàng cấp tín dụng cho những trường hợp vượt quá thẩm quyền gây thiệt hại nghiêm trọng. Những trường hợp này, có Tòa án vẫn giữ lại để xử lý theo thủ tục tố tụng dân sự là “dân sự hóa hình sự”. Dẫn đến bản án, quyết định bị hủy sửa, như vụ án “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” giữa nguyên đơn Ngân hàng S với bị đơn Công ty Đ đã nêu ở mục 2 phần II của hướng dẫn này.
Cần lưu ý: Trong vụ án về tín dụng có dấu hiệu hình sự như giả mạo giấy tờ, thế chấp nhiều nơi, cho vay không đúng qui trình... việc xử lý bằng thủ tục tố tụng dân sự là không bảo đảm, không đúng bản chất và áp dụng không đúng pháp luật, nên cần phải kiên quyết yêu cầu Tòa án chuyển hồ sơ cho cơ quan điều tra xem xét, giải quyết theo đúng quy định.
Ngoài ra, cần lưu ý đối với một số dạng vi phạm khác liên quan đến việc xử lý tài sản bảo đảm xảy ra, như HĐTC chỉ thế chấp tài sản gắn liền với đất (nhà xưởng, công trình...) không thế chấp quyền sử dụng đất, nhưng khi tuyên án, Tòa án còn tuyên cả việc phát mãi quyền sử dụng đất là không đúng thỏa thuận của các bên, hoặc chấp nhận HĐTC đối với quyền sử dụng đất thuê trả tiền hàng năm là vi phạm khoản 2 Điều 179 Luật Đất đai năm 2013 (những trường hợp này cũng thường hay bị nhầm lẫn với những trường hợp thế chấp thông thường)...
Luật sư NGUYỄN HỒNG HÀ
Bị phạt hành chính có được xem là có tiền sự không?

