TRỰC THỨ 4

24/01/2022 08:02 |3 năm trước

(LSVN) -

SÁNG

1. Những khó khăn, vướng mắc về biện pháp ngăn chặn ‘bảo lĩnh’

(LSVN) - Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) 2015 đã được áp dụng, thi hành một thời gian, phát huy được nhiều ưu điểm, tạo ra hành lang pháp lý cơ bản, thống nhất để các Cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết vụ án hình sự. Tuy nhiên, việc áp dụng Biện pháp ngăn chặn “Bảo lĩnh” trên thực vẫn còn có một số khó khăn, vướng mắc.

Ảnh minh họa.

1. Một số khó khăn, vướng mắc.

Về quy định tại khoản 1 Điều 121 BLTTHS “Bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn thay thế tạm giam”. Quy định này chưa rõ ràng về đối tượng bị áp dụng, tồn tại hai cách hiểu khác nhau.

Thứ nhất, “bảo lĩnh” là biện pháp ngăn chặn được áp dụng đối với bị can, bị cáo đang bị tạm giữ, tạm giam nếu có đủ điều kiện cho “bảo lĩnh” và xét thấy không cầm thiết tiếp tục tạm giữ, tạm giam thì áp dụng biện pháp “bảo lĩnh” để thay thế biện pháp tạm giam. Nghĩa là đối với bị can, bị cáo đang bị tạm giữ, tạm giam thì mới áp dụng biện pháp này.

Thứ hai, biện pháp “bảo lĩnh” được áp dụng kể cả đối với bị can, bị cáo đang bị tạm giữ, tạm giam và bị can, bị cáo bị khởi tố, chưa bị tạm giữ, tạm giam, nhưng thấy vẫn cần phải ngăn ngừa bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội và để đảm bảo sự có mặt của bị can, bị cáo theo giấy triệu tập của cơ quan có thẩm quyền.

Theo Điều 121 BLTTHS, cá nhân có thể nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo là người thân thích của họ (ít nhất phải có hai người). Tổ chức có thể nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo là thành viên tổ chức của mình. Vấn đề là luật quy định còn chung chung về tiêu chuẩn của người nhận bảo lĩnh (có tư cách, phẩm chất tốt, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật) và không quy định tiêu chuẩn của cơ quan, tổ chức (hay tự hiểu rằng mọi cơ quan, tổ chức đều được nhận bảo lĩnh). Trong khi đó, không phải cơ quan, tổ chức nào cũng đủ tư cách cam đoan rằng bị can, bị cáo không tiếp tục phạm tội, bảo đảm bị can, bị cáo có mặt theo triệu tập của cơ quan tố tụng (đối với tổ chức là doanh nghiệp đang làm ăn thua lỗ, nợ nần, có hành vi vi phạm pháp luật hoặc đang bị điều tra, truy tố, xét xử thì như thế nào?). Như vậy, không phải cơ quan, tổ chức nào cũng có đủ những tiêu chuẩn để được nhận bảo lĩnh.

Tại khoản 2 Điều 121 BLTTHS quy định về điều kiện của người nhận bảo lĩnh là “cá nhân có thu nhập ổn định”. Luật quy định nhằm mục đích cụ thể hóa tiêu chuẩn, điều kiện người nhận bảo lĩnh. Tuy nhiên, có cần phải chứng minh thu nhập, xác minh tài liệu chứng minh thu nhập hay không thì luật không quy định và chưa có hướng dẫn.

Hiện nay chỉ có quy định tại Điều 109 BLTTHS (kèm theo Điều 121 BLTTHS) nêu những căn cứ để áp dụng chung cho các BPNC trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử. Điều này dễ dẫn đến sự tùy tiện khi áp dụng, không đảm bảo quyền của người bị buộc tội, làm giảm hiệu quả cũng như tính nghiêm minh của pháp luật. Bởi lẽ, Điều 109 BLTTHS quy định “… để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ người bị buộc tội sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử…”. Nghĩa là, không phải trường hợp nào cũng áp dụng BPNC với quy định như hiện nay. Chính vì thế đối với những vụ án nhận thấy không cần thiết phải áp dụng BPNC thì không áp dụng. Qua khảo sát của bản thân nhận thấy hầu như tất cả các vụ án khi đã khởi tố bị can đều bị áp dụng BPNC, kể cả biện pháp “bảo lĩnh”. 

Trong thực tiễn áp dụng, sau khi khởi tố bị can, Cơ quan điều tra (CQĐT) ra quyết định bảo lĩnh và tống đạt cho bị can, đồng thời gửi đến các cá nhân, tổ chức liên quan. Qua điều tra, CQĐT có kết luận điều tra vụ án, hồ sơ được chuyển đến Viện kiểm sát (VKS) để truy tố, chuyển hồ sơ xét xử. Vấn đề đặt ra ở đây là quyết định “bảo lĩnh” của CQĐT vẫn còn thời hạn; bị can không vi phạm thì VKS và Toà án có đương nhiên tiếp tục sử dụng Quyết định bảo lĩnh đối với bị can đó không? Hay ở mỗi giai đoạn lại phải ra lệnh, quyết định khác vì mỗi cơ quan đều có thẩm quyền áp dụng biện pháp này. Quyết định của CQĐT còn có hiệu lực hay không? Bởi vì cơ quan điều tra áp dụng BPNC đối với bị can trên cơ sở thủ tục bảo lĩnh và phải có mặt đúng thời gian, địa điểm theo giấy triệu tập của CQĐT. 

Mặc dù BLTTHS năm 2015 quy định cụ thể thẩm quyền áp dụng BPNC, tuy nhiên trong thực tiễn thì việc áp dụng vẫn còn tồn tại nhiều ý kiến khác nhau. Ví dụ: Theo quy định tại khoản 1 Điều 113 BLTTHS năm 2015 về thẩm quyền bắt bị can, bị cáo để tạm giam, theo đó Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT; Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKS; Chánh án, Phó Chánh án Tòa án các cấp đều có thẩm quyền quy định tại điều này. Tuy nhiên, quy định về thẩm quyền của Chánh án, Phó Chánh án tại điểm a khoản 2 Điều 44 BLTTHS năm 2015 như sau: “Quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam, xử lý vật chứng”. Như vậy, ngoài biện pháp ngăn chặn tạm giam, luật không quy định Chánh án, Phó Chánh án có thẩm quyền áp dụng các BPNC khác không?

Xung quanh vấn đề này tồn tại hai quan điểm khác nhau:

Quan điểm thứ nhất: Quy định “những người có thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều 113 của BLTTHS là người có thẩm quyền áp dụng biện pháp này”, thì Chánh án là người có thẩm quyền áp dụng các BPNC tại Điều 121 BLTTHS và sau khi thụ lý hồ sơ, trường hợp Chánh án là chủ tọa phiên tòa hoặc chưa phân công Thẩm phán chủ tọa phiên tòa thì thẩm quyền này đương nhiên phải do Chánh án quyết định.

Quan điểm thứ hai: Chánh án không có thẩm quyền áp dụng BPNC tại Điều 121 BLTTHS vì theo điểm a khoản 2 Điều 44 BLTTHS chỉ quy định Chánh án có thẩm quyền áp dụng biện pháp tạm giam. Mặt khác quy định tại khoản 1 Điều 278 BLTTHS về áp dụng, thay đổi, hủy bỏ BPNC, biện pháp cưỡng chế xác định “Sau khi thụ lý vụ án, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa quyết định việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ BPNC, biện pháp cưỡng chế, trừ việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp tạm giam do Chánh án, Phó Chánh án Tòa án quyết định”.

- Về thời hạn: “...Thời hạn bảo lĩnh không được quá thời hạn điều tra, truy tố hoặc xét xử theo quy định của BLTTHS. Thời hạn bảo lĩnh đối với người bị kết án phạt tù không quá thời hạn kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm người đó đi chấp hành án phạt tù”. Quy định về các biện pháp tạm giữ, tạm giam đều có văn bản hướng dẫn về thời hạn, tùy thuộc vào tính chất của tội phạm thuộc loại ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. Còn đối với BPNC “bảo lĩnh” thì quy định còn chung chung, chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể về thời hạn áp dụng. Thời hạn điều tra, truy tố, xét xử trong tố tụng hình sự dài hay ngắn tùy thuộc vào tính chất, mức độ phức tạp của từng vụ án. Trong thực tiễn rất nhiều vụ án gia hạn thời hạn giải quyết. Do vậy, thời hạn áp dụng BPNC cũng phải kéo dài tương ứng. Và trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm cũng tương tự (gia hạn thời hạn giải quyết, hoãn phiên tòa...). Hoặc như khi hết thời hạn chuẩn bị xét xử, nếu Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa ra quyết định đưa vụ án ra xét xử thì phát sinh thêm 15 ngày (hoặc 30 ngày nếu vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan) từ ngày ra quyết định đến ngày mở phiên tòa. Như vậy việc tính thời hạn áp dụng BPNC “bảo lĩnh” như thế nào?

Điều luật quy định “Thời hạn bảo lĩnh đối với người bị kết án phạt tù không quá thời hạn kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm người đó đi chấp hành án phạt tù”. Nếu sau khi tuyên án Hội đồng xét xử (HĐXX) hoặc Thẩm phán Chủ tọa phiên tòa tiếp tục áp dụng BPNC trên thì thời hạn là bao nhiêu, để đảm bảo thi hành án hoặc giải quyết các thủ tục tố tụng tiếp theo (giải quyết kháng cáo, kháng nghị...). BLTTHS quy định “...“kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm người đó đi chấp hành án phạt tù...”. Quy định này có thể hiểu áp dụng cho nhiều giai đoạn tiếp theo (kháng cáo, kháng nghị, giải quyết phúc thẩm...) đến khi bị cáo đi chấp hành án phạt tù. Tuy nhiên, cũng có quan điểm cho rằng khi HĐXX tuyên án, nếu có áp dụng BPNC nêu trên thì thời hạn “bảo lĩnh” kể từ khi tuyên án cho đến khi người đó đi chấp hành án phạt tù. Trường hợp Tòa án cấp phúc thẩm hủy án để điều tra hoặc xét xử lại thì thời hạn áp dụng như trên (đến khi bị cáo đi chấp hành án phạt tù) phải xử lý như thế nào về thời hạn. Bởi lẽ trong quyết định “bảo lĩnh” ghi rõ đến khi bị cáo đi chấp hành án phạt tù thì cấp phúc thẩm khó áp dụng BPNC này trong thời gian tiếp theo. Ngoài ra, thời hạn “bảo lĩnh” có cần thiết phải liên tục không? Có thể bị gián đoạn không (ví dụ trường hợp khi Tòa án nhận hồ sơ vụ án, chưa kịp phân công Thẩm phán Chủ tọa phiên tòa). Các vấn đề trên chưa có hướng dẫn cụ thể, gây ra tình trạng áp dụng tùy tiện, không thống nhất.

- BLTTHS quy định khi áp dụng BPNC “bảo lĩnh” thì bị can, bị cáo phải làm giấy cam đoan thực hiện các nghĩa vụ theo quy định, người nhận bảo lĩnh phải làm giấy cam đoan có xác nhận của chính quyền địa phương hoặc người đứng đầu cơ quan, tổ chức. Như vậy, các văn bản trên có được sử dụng xuyên suốt qua các giai đoạn tố tụng hay không? Hay mỗi giai đoạn tố tụng hoặc mỗi lần ra Quyết định “bảo lĩnh” khác nhau phải yêu cầu bị can, bị cáo (“bảo lĩnh” thì thêm người nhận bảo lĩnh) làm lại giấy cam đoan. Từ thực tiễn xét xử, tác giả nhận thấy còn áp dụng tùy tiện, không thống nhất. Vì quá trình giải quyết vụ án có nhiều giai đoạn tố tụng, mỗi giai đoạn có thể phải kéo dài, gia hạn... Nếu mỗi lần ra quyết định nói trên phải yêu cầu bị can, bị cáo làm giấy cam đoan là không cần thiết (ví dụ: giai đoạn xét xử ra quyết định bảo lĩnh lần đầu, gia hạn thời hạn chuẩn bị ra thêm quyết định cho bảo lĩnh phải cần có thủ tục bảo lĩnh; hoãn phiên tòa 03 lần lại cần thủ tục giấy tờ cam đoan 03 lần...) gây phiền hà, mất thời gian cho bị can, bị cáo, người nhận bảo lĩnh, nhất là các vụ án có bị can, bị cáo ở xa các CQTHTT (đặc biệt là các Tòa án quân sự địa bàn rất rộng nên vấn đề này gây ảnh hưởng lớn đến việc gửi các thủ tục của bị can, bị cáo, người nhận bảo lĩnh), dẫn đến sẽ gây khó khăn trong việc áp dụng đúng thời hạn các BPNC “bảo lĩnh”. 

- Tòa án sau khi xét xử sơ thẩm, phúc thẩm vẫn ra quyết định cho “bảo lĩnh”, có Tòa án sau khi xét xử không tiếp tục áp dụng một trong các BPNC, mặc dù bị cáo bị áp dụng hình phạt tù. Có quan điểm cho rằng tùy thuộc vào từng loại hình phạt được áp dụng, từ đó mới có căn cứ để Hội đồng xét xử áp dụng biện pháp ngăn chặn sau khi xét xử. Tuy nhiên, vấn đề này chưa có văn bản hướng dẫn. Ngày 03/7/2019, Tòa án quân sự Trung ương có Công văn số 503/TA-NCTH thông báo Kết luận của Chánh án Tòa án quân sự Trung ương tại Hội nghị Sơ kết và tập huấn nghiệp vụ năm 2019, có nội dung: “Căn cứ vào tính chất của hai loại hình phạt nêu trên (phạt tiền, cải tạo không giam giữ) thì không cần thiết tiếp tục áp dụng biện pháp ngăn chặn “bảo lĩnh” hoặc “cấm đi khỏi nơi cư trú” đối với họ”. Tuy nhiên, trường hợp bị cáo bị xử phạt tù nhưng cho hưởng án treo thì có tiếp tục áp dụng biện pháp ngăn chặn không? Thẩm quyền thuộc HĐXX hay Thẩm phán Chủ tọa phiên tòa?.

- Thực tiễn áp dụng BPNC “Bảo lĩnh” hiệu quả thấp, nhiều trường hợp cơ quan, tổ chức, người nhận bảo lĩnh không theo dõi, quản lý chặt chẽ nên để xảy ra việc bị can, bị cáo bỏ trốn hoặc vi phạm nghĩa vụ đã cam đoan, gây khó khăn cho quá trình tiến hành tố tụng. Trách nhiệm của chính quyền cơ sở trong việc quản lý, theo dõi bị can, bị cáo tại ngoại không rõ ràng, khi vi phạm thì không có chế tài áp dụng làm hạn chế tính khả thi của các biện pháp ngăn chặn này. Trường hợp cá nhân, cơ quan, tổ chức nhận bảo lĩnh để bị can, bị cáo vi phạm nghĩa vụ đã cam đoan thì bị phạt tiền (khoản 6 Điều 121 BLTTHS) nhưng chưa có quy định về cơ chế xử phạt (trình tự, thủ tục, thẩm quyền...).

2. Một số đề xuất, kiến nghị 

- Thứ nhất, theo tác giả phải thống nhất cách hiểu quy định biện pháp ngăn chặn “bảo lĩnh” được áp dụng kể cả đối với bị can, bị cáo đang bị tạm giữ, tạm giam và bị can, bị cáo bị khởi tố, chưa bị tạm giữ, tạm giam, nhưng thấy vẫn cần phải ngăn ngừa bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội và để đảm bảo sự có mặt của bị can, bị cáo theo giấy triệu tập của cơ quan có thẩm quyền, căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và nhân thân bị can, bị cáo. Cách hiểu này thể hiện phạm vi áp dụng của biện pháp này toàn diện hơn. Còn quan điểm: Biện pháp “bảo lĩnh” chỉ áp dụng để thay thế biện pháp tạm giam (nghĩa là bị can, bị cáo đang bị tạm giam thay đổi sang biện pháp “bảo lĩnh”) là không đầy đủ. 

- Thứ hai, đối với bị can, bị cáo chỉ áp dụng biện pháp bảo lĩnh khi có các điều kiện sau: Bị can, bị cáo phạm tội lần đầu; có nơi cư trú rõ ràng; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; người tàn tật nặng hoặc đặc biệt nặng; phụ nữ có thai, nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi; người già, bệnh nặng, người chưa thành niên. Có căn cứ xác định sau khi được tại ngoại, bị can, bị cáo sẽ có mặt theo giấy triệu tập của cơ quan tiến hành tố tụng; việc cho bị can, bị cáo tại ngoại không gây ảnh hưởng đến an ninh trật tự tại địa phương. Không áp dụng bảo lĩnh đối với bị can, bị cáo đã có tiền án chưa được xóa án tích mà lại phạm tội; bị can, bị cáo bị bắt theo lệnh truy nã; là đối tượng phạm tội có tính chất chuyên nghiệp; người nghiện ma túy; hành vi phạm tội của bị can, bị cáo gây dư luận trong xã hội.

- Thứ ba, để đảm bảo thực hiện đúng quy định của pháp luật về thẩm quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn, tác giả đề xuất sửa quy định tại điểm a khoản 2 Điều 44 BLTTHS cụ thể như sau: 2. Khi tiến hành việc giải quyết vụ án hình án hình sự, Chánh án Tòa án có những nhiệm vụ, quyền hạn: “a. Quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, xử lý vật chứng;”

- Thứ tư, việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh ở mỗi giai đoạn tố tụng khác nhau, để đảm bảo các thủ tục áp dụng biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh không bị gián đoạn, tác giả đề xuất trước khi Viện kiểm sát chuyển hồ sơ chuyển sang Tòa án thụ lý giải quyết theo thẩm quyền phải thông báo cho Tòa án biết đã áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với bị can, kể cả biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh (tương tự như biện pháp ngăn chặn tạm giam). Đồng thời, quy định mỗi giai đoạn tố tụng phải có thủ tục bảo lĩnh mới (giấy cam đoan của bị can, bị cáo, của người nhận bảo lĩnh...). Đối với giai đoạn xét xử của Tòa án khi thụ lý vụ án, phải yêu cầu bị can, bị cáo cung cấp thủ tục bảo lĩnh mới; không áp dụng thủ tục bảo lĩnh của giai đoạn trước đó của CQĐT, VKS.

- Thứ năm, đối với người nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo là cá nhân nhận bảo lĩnh quy định điều kiện phải là người thân thích của bị can, bị cáo; có phẩm chất chính trị tốt, không liên quan đến vụ án; có khả năng thực hiện trách nhiệm của người nhận bảo lĩnh; phải cư trú cùng địa phương với bị can, bị cáo để bảo đảm sự giám sát để có thể kịp thời báo cáo ngay đến CQTHTT khi phát hiện người được bảo lĩnh vi phạm nghĩa vụ đã cam đoan. Có sự đồng ý của người được bảo lĩnh là bị can, bị cáo. Người nhận bảo lĩnh có thể là người bào chữa hoặc đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo. Kèm theo chứng cứ, tài liệu về hành vi phạm tội, nhân thân của bị can để xác định tính chất, mức độ hành vi của bị can không cần thiết phải áp dụng biện pháp tạm giam...

- Thứ sáu, đối với người nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo là cơ quan, tổ chức nhận bảo lĩnh quy định cơ quan, tổ chức không liên quan đến vụ án; có khả năng thực hiện trách nhiệm của người nhận bảo lĩnh; đối với cơ quan, tổ chức là doanh nghiệp khi nhận bảo lĩnh phải cung cấp tài liệu về kết quả kinh doanh trong thời gian 06 tháng gần nhất, xác định là doanh nghiệp không làm ăn thua lỗ, nợ nần, không có hành vi vi phạm pháp luật và không bị điều tra, truy tố, xét xử; phải là cơ quan trực tiếp của bị can, bị cáo để bảo đảm sự giám sát để có thể kịp thời báo cáo ngay đến CQTHTT khi phát hiện người được bảo lĩnh vi phạm nghĩa vụ đã cam đoan. Có sự đồng ý của người được bảo lĩnh là bị can, bị cáo. 

- Thứ bảy, đề nghị cơ quan chuyên môn cấp trên quy định chặt chẽ hơn về ràng buộc cụ thể để nâng cao trách nhiệm của tổ chức, cá nhân trong việc quản lý, giám sát các đối tượng được áp dụng các biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh và một số biện pháp ngăn chặn không bị tạm giam khác. Đây là vấn đề cần được đặt ra để giải quyết vì trong thực tế hiện nay, có rất nhiều trường hợp các đối tượng được áp dụng các biện pháp ngăn chặn trên trong thời gian tại ngoại các đối tượng trên đã trốn khỏi địa phương hoặc chuyển đi địa phương khác làm ăn, sinh sống mà không thông báo và làm các thủ tục cần thiết theo quy định của pháp luật. Do đó, khi Tòa án ra quyết định thi hành án thì bản án, quyết định của Tòa án không được thi hành, dẫn đến Cơ quan THAHS phải ra quyết định truy nã và tổ chức truy bắt (đối với trường hợp bị án bị xử phạt tù) hoặc là không thể thi hành được (trong trường hợp án treo, cải tạo không giam giữ), gây hậu quả mất niềm tin trong nhân dân và tốn thời gian, tiền của của Nhà nước./.

NGUYỄN TẤT TRÌNH

Tòa án quân sự Khu vực 1 Quân khu 5

Áp dụng ‘án treo’: Khó khăn, vướng mắc và đề xuất, kiến nghị

2. Nguyên tắc quy hoạch cán bộ trong Quy định mới của Bộ Chính trị

(LSVN) - Ban Chấp hành Trung ương đã ban hành Quy định 50-QĐ/TW ngày 27/12/2021 về công tác quy hoạch cán bộ. Trong đó, quy định rõ về nguyên tắc quy hoạch cán bộ.

Quy định này quy định về nguyên tắc, mục đích, yêu cầu, đối tượng, nhiệm kỳ, hiệu lực, thẩm quyền, trách nhiệm, phương pháp, tiêu chuẩn, điều kiện, độ tuổi, cơ cấu, số lượng, quy trình, quản lý và công khai trong công tác quy hoạch cán bộ; áp dụng đối với cơ quan, tổ chức và cán bộ, công chức, viên chức trong hệ thống chính trị.

Ảnh minh họa.

Theo đó, quy định nguyên tắc quy hoạch cán bộ như sau:

- Bảo đảm nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ; thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước; bảo đảm chặt chẽ, đồng bộ, liên thông, công khai, minh bạch trong công tác quy hoạch cán bộ.

- Đẩy mạnh việc phân cấp, phân quyền trên cơ sở nêu cao trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng, tập thể lãnh đạo cơ quan, đơn vị, người đứng đầu, đi đôi với tăng cường kiểm tra, giám sát trong công tác quy hoạch cán bộ.

- Coi trọng chất lượng, bảo đảm cân đối, hài hòa, hợp lý, liên thông giữa các khâu trong công tác cán bộ; giữa quy hoạch với đào tạo, bồi dưỡng; giữa đánh giá với quy hoạch, điều động, luân chuyển, bổ nhiệm và sử dụng cán bộ; giữa cán bộ quy hoạch với cán bộ đương nhiệm; giữa nguồn cán bộ ở Trung ương với địa phương, địa bàn và lĩnh vực công tác; giữa nguồn cán bộ tại chỗ với nguồn cán bộ từ nơi khác. Phấn đấu quy hoạch theo cơ cấu ba độ tuổi, tỉ lệ cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ người dân tộc thiểu số phù hợp với địa bàn, lĩnh vực công tác.

- Quy hoạch cấp ủy các cấp phải gắn với quy hoạch lãnh đạo, quản lý; lấy quy hoạch các chức danh cấp ủy làm cơ sở để quy hoạch các chức danh lãnh đạo, quản lý; quy hoạch cấp dưới làm cơ sở cho quy hoạch cấp trên; gắn kết chặt chẽ quy hoạch cán bộ của các địa phương, cơ quan, đơn vị trong hệ thống chính trị với quy hoạch cán bộ cấp chiến lược.

- Chỉ quy hoạch chức danh cao hơn, mỗi chức danh lãnh đạo, quản lý quy hoạch không quá ba cán bộ, một cán bộ quy hoạch không quá ba chức danh ở cùng cấp. Không thực hiện quy hoạch đồng thời với việc đề xuất bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử.

Quy định cũng nêu rõ các trường hợp đương nhiên ra khỏi quy hoạch. Cán bộ quá tuổi quy hoạch hoặc bị cấp có thẩm quyền thi hành kỷ luật từ hình thức khiển trách trở lên (đối với cá nhân) hoặc kết luận không bảo đảm tiêu chuẩn chính trị của chức danh quy hoạch thì đương nhiên ra khỏi quy hoạch.

DUY ANH

Những vướng mắc trong áp dụng chế định phạt tù nhưng cho hưởng án treo

3. Sinh con trong khi nghỉ phép, tính thời gian thai sản thế nào?

(LSVN) – Trước khi sinh con, tôi có xin nghỉ phép đến hết ngày 10/12/2021, tuy nhiên, ngày 08/12/2021 thì tôi sinh. Vậy, trường hợp này tôi sinh con trong thời gian nghỉ phép thì thời điểm nghỉ thai sản hưởng BHXH sẽ tính như thế nào?

Tại Khoản 1 Điều 34 Luật bảo hiểm xã hội định: Lao động nữ sinh con được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản trước và sau khi sinh con là 6 tháng.

Trường hợp lao động nữ sinh đôi trở lên thì tính từ con thứ hai trở đi, cứ mỗi con, người mẹ được nghỉ thêm 1 tháng.

Thời gian nghỉ hưởng chế độ thai sản trước khi sinh tối đa không quá 2 tháng.

Thời gian hưởng chế độ thai sản theo quy định này tính cả ngày nghỉ lễ, nghỉ Tết, ngày nghỉ hằng tuần.

Như vậy, trường hợp người lao động sinh con vào ngày 08/12/2021, thời gian nghỉ việc hưởng chế độ thai sản khi sinh con của người lao động được tính từ ngày 08/12/2021 đến hết ngày 07/6/2022 (nếu người lao động sinh 1 con).

Ngoài ra, luật cũng quy định rõ, lao động nam đang đóng bảo hiểm xã hội khi vợ sinh con được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản như sau:

- 05 ngày làm việc;

- 07 ngày làm việc khi vợ sinh con phải phẫu thuật, sinh con dưới 32 tuần tuổi;

- Trường hợp vợ sinh đôi thì được nghỉ 10 ngày làm việc, từ sinh ba trở lên thì cứ thêm mỗi con được nghỉ thêm 03 ngày làm việc;

- Trường hợp vợ sinh đôi trở lên mà phải phẫu thuật thì được nghỉ 14 ngày làm việc.

Thời gian nghỉ việc hưởng chế độ thai sản quy định tại khoản này được tính trong khoảng thời gian 30 ngày đầu kể từ ngày vợ sinh con.

NGỌC CHÂU

Áp dụng ‘án treo’: Khó khăn, vướng mắc và đề xuất, kiến nghị

4. Kỳ hạn cấp thẻ nhà báo là 05 năm

(LSVN) - Bộ Thông tin và Truyền thông (TT&TT) đã ban hành Thông tư số 31/2021/TT-BTTTT quy định chi tiết và hướng dẫn về hồ sơ, thủ tục cấp, đổi, cấp lại và thu hồi thẻ nhà báo, có hiệu lực thi hành từ ngày 15/02/2022, thay thế Thông tư số 49/2016/TT-BTTTT. Trong đó, quy định cụ thể về cấp thẻ nhà báo theo kỳ hạn mới.

Kỳ hạn cấp thẻ nhà báo là 05 năm.

Thông tư này quy định chi tiết và hướng dẫn về hồ sơ, thủ tục cấp, đổi, cấp lại và thu hồi thẻ nhà báo theo quy định tại Điều 28 Luật Báo chí. Thông tư áp dụng đối với cơ quan, đơn vị, cá nhân tham gia và có liên quan đến việc cấp, đổi, cấp lại và thu hồi thẻ nhà báo.

Thông tư 31/2021/TT-BTTTT có 11 điều, 7 biểu mẫu, đã bổ sung mới 02 điều, 04 biểu mẫu và sửa đổi, bổ sung đối với 03 điều so với Thông tư số 49/2016/TT-BTTTT.

Trong đó, về cấp thẻ nhà báo theo kỳ hạn mới, Thông tư quy định rõ, kỳ hạn cấp thẻ nhà báo là 05 năm, Bộ Thông tin và Truyền thông cấp thẻ nhà báo theo kỳ hạn mới vào ngày 01 tháng 01 của năm bắt đầu kỳ hạn mới.

Kỳ hạn của thẻ nhà báo hiện hành được tính từ ngày 01 tháng 01 năm 2021.

Người đứng đầu cơ quan, đơn vị liên quan trong việc đề nghị cấp, đổi, cấp lại thẻ nhà báo chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính chính xác, tính hợp pháp đối với các tài liệu, giấy tờ và nội dung thông tin xác nhận trong hồ sơ theo phạm vi thẩm quyền của cơ quan đó; bảo đảm các đối tượng đủ điều kiện, tiêu chuẩn, có hoạt động báo chí đúng với nội dung kê khai trong hồ sơ.

Người đề nghị cấp, đổi, cấp lại thẻ nhà báo chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính chính xác, tính hợp pháp đối với các tài liệu, giấy tờ và nội dung thông tin kê khai của mình trong hồ sơ.

Trường hợp phát hiện hồ sơ đề nghị cấp, đổi, cấp lại thẻ nhà báo có nội dung thông tin hoặc tài liệu, giấy tờ không chính xác, không hợp pháp, Bộ Thông tin và Truyền thông từ chối cấp thẻ và xem xét, làm rõ trách nhiệm liên quan.

Việc ban hành Thông tư 31/2021/TT-BTTTT của Bộ TT&TT vừa bảo đảm thực hiện Nghị quyết số 16/NQ-CP của Chính phủ, đơn giản hoá thủ tục hành chính trong hoạt động cấp, đổi, cấp lại thẻ nhà báo. Đồng thời cũng thực hiện mục tiêu về quy định thực hiện thủ tục theo dịch vụ công trực tuyến cấp độ 4 bên cạnh hồ sơ giấy, tiến tới thực hiện hoàn toàn trên môi trường điện tử. Thông tư cũng hướng tới mục tiêu quy định chặt chẽ về hồ sơ nhằm hạn chế tình trạng cơ quan báo chí đề nghị cấp thẻ nhà báo cho những trường hợp không bảo đảm đối tượng, điều kiện.

DUY ANH

4 luật trong lĩnh vực tiền tệ - ngân hàng sẽ được sửa đổi trong năm 2022

5. 

 

 

 

CHIỀU

1. Việc đăng ký nhu cầu tuyển dụng theo vị trí việc làm chưa hợp lý

(LSVN) - Theo quy định hiện hành, căn cứ vào việc đăng ký nhu cầu tuyển dụng từ các cơ quan, tổ chức sử dụng công chức, viên chức (CCVC) thì cơ quan có thẩm quyền như UBND cấp tỉnh (Sở Nội vụ nếu được ủy quyền) ở địa phương hoặc bộ, ngành trung ương sẽ tổng hợp, xây dựng kế hoạch cụ thể để tổ chức thi tuyển, xét tuyển.

Việc cho phép các cơ quan, tổ chức có nhu cầu tuyển dụng được đăng ký tuyển dụng theo nhu cầu, cần thiết tại đơn vị mình đảm bảo các vị trí tuyển dụng được sát thực tế công việc chuyên môn, nghiệp vụ. Điều này hạn chế phần nào tình trạng tuyển dụng vào nhưng một số người không làm việc được, phải cử đi đào tạo lại ảnh hưởng đến hoạt động của cơ quan, tổ chức. 

Tuy vậy, mặt trái của việc này là khi được giao quyền tự chủ một số cơ quan, tổ chức tùy tiện, lạm dụng quyền này để đăng ký tuyển dụng các lĩnh vực đào tạo, ngành học theo ý chủ quan của mình. Đây còn là kẻ hở để một số người có chức, có quyền lợi dụng nhằm tuyển dụng con em, họ hàng hoặc người đang làm hợp đồng tại chỗ vào cơ quan, đơn vị do mình quản lý. 

Bất cập thể hiện rất rõ trong các thí dụ sau đây: Có trường hợp cùng vị trí việc làm là công tác tổ chức nhân sự cấp sở nhưng có cơ quan đăng ký tuyển cử nhân luật, cơ quan thì đăng ký tuyển cử nhân hành chính công... Thậm chí, cùng vị trí việc làm đó nhưng cơ quan thì đăng ký nhu cầu phải học ngành khoa học xã hội, cơ quan thì đăng ký nhu cầu tuyển các ngành kỹ thuật, đôi khi chẳng liên quan gì đến công việc tại vị trí cần tuyển dụng. Hay trường hợp có cơ quan tuyển dụng CCVC ở vị trí ngạch chuyên viên nhưng lại đòi hỏi phải có trình độ thạc sĩ, tiến sĩ, trong khi trình độ đại học là đủ.

Ngoài ra, có cơ quan còn đặt ra quy định điều kiện, tiêu chí phụ như phải có chứng chỉ chuyên môn, nghiệp vụ mà nếu không học trường đó thì không thể có được! Hoặc tự ý đưa ra các tiêu chí không cần thiết, không liên quan công việc cần làm.

Nguyên nhân chính của việc đăng ký nhu cầu tuyển dụng 'lộn xộn'; mỗi nơi, một kiểu như vậy là nhằm hạn chế sự cạnh tranh và mục đích cuối cùng là loại những thí sinh khác, ngành khác để tuyển "người nhà", người quen,... Điều này đã làm giảm cơ hội được vào làm việc trong các cơ quan nhà nước của những người thật sự có tài, có đức, dân gian thường gọi là bị loại ngay từ "vòng gửi xe". 

Do đó, nếu tình trạng này tiếp diễn không được ngăn chặn, xử lý kịp thời, triệt để sẽ hết sức nguy hiểm, ảnh hưởng tiêu cực đến việc tuyển dụng, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức thực sự có tài, có tâm để phục vụ đất nước, người dân. 

Thiết nghĩ, trong khi chưa xây dựng được vị trí việc làm "cứng" trong các cơ quan nhà nước, Bộ Nội vụ cần sớm ban hành quy định khung về tiêu chí, điều kiện, ngành học phù hợp với vị trí việc làm cụ thể. Trên cơ sở đó, các địa phương, bộ, ngành, cơ quan, đơn vị căn cứ vào đó để đăng ký nhu cầu tuyển dụng CCVC của địa phương đơn vị mình một cách hợp lý, khoa học, chặt chẽ. 

Điều này hạn chế tình trạng tùy tiện, tiêu cực khi một số cơ quan, đơn vị lợi dụng quyền đăng ký nhu cầu tuyển dụng để sắp xếp, đưa là những người là con cháu, thân quen vào các cơ quan nhà nước. Đồng thời, cũng là biện pháp nhằm góp phần chấn chỉnh, xử lý kịp thời những tồn tại, bất cập trong công tác tuyển dụng CCVC hiện nay./. 

Thạc sĩ PHẠM VĂN CHUNG

Sở Tư pháp tỉnh Kon Tum

Bộ Y tế cần có quy định thống nhất khi người dân về quê đón Tết

2. Vụ cướp ngân hàng ở Hải Phòng: Bạn gái của bị can có thể đối mặt với những tội danh nào?

(LSVN) - Theo Luật sư, trường hợp cơ quan điều tra có căn cứ thì Trần Thị Thu Thủy có thể sẽ bị xử lý hình sự với 2 tội danh là tội "Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có" theo khoản 3, Điều 323 Bộ luật Hình sự với hình phạt có thể đến 15 năm tù và tội "Che giấu tội phạm" theo khoản 2, Điều 389 Bộ luật Hình sự với hình phạt cao nhất có thể lên đến 07 năm tù. Khi đó cô gái này sẽ phải đối mặt với mức hình phạt cao nhất có thể lên đến 22 năm tù cho hai tội danh nêu trên.

Khởi tố, bắt tạm giam bạn gái đối tượng cướp ngân hàng tại Hải Phòng

Chiều 24/01, Phòng Cảnh sát hình sự, Công an TP. Hải Phòng thông tin, Cơ quan CSĐT Công an TP. Hải Phòng đã ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can và bắt tạm giam đối với Nguyễn Văn Nam (SN 1998, trú tại xã Nghĩa Lộ, huyện Cát Hải, TP. Hải Phòng) để điều tra về tội "Cướp tài sản".

Đồng thời, Cơ quan CSĐT Công an TP. Hải Phòng cũng ra quyết định khởi tố bị can, bắt tạm giam đối với bạn gái của Nguyễn Văn Nam là Trần Thị Thu Thủy (SN 2000, trú tại huyện Cát Hải, TP. Hải Phòng) để điều tra về hành vi "Che giấu tội phạm".

Theo cơ quan điều tra, Trần Thị Thu Thủy, bạn gái của Nguyễn Văn Nam khai nhận: Sau khi nhận số tiền Nam đưa, Thủy vào nội thành Hải Phòng mua 1 điện thoại iPhone 13 Pro max với giá 30,9 triệu đồng, 1 máy tính Macbook Air với giá 20,5 triệu đồng, 1 sạc iPhone hết 300 nghìn đồng, mua sắm các đồ trang sức (nhẫn, vòng), mỹ phẩm, tất cả hết gần 100 triệu đồng, gửi vào tài khoản cá nhân 20 triệu đồng; còn 1.240.000.000 đồng đem gửi bạn là Bùi Minh Anh.

Tối 07/01, Thủy sử dụng mạng xã hội thấy lan truyền thông tin vụ cướp ngân hàng cùng hình ảnh đối tượng Nam, nhưng Thủy không đến cơ quan công an trình báo.

Đến nay, Công an TP. Hải Phòng đã thu lại số tiền hơn 1,2 tỉ đồng từ người bạn của Thủy. Hiện, vụ việc đang được cơ quan chức năng tiếp tục điều tra, làm rõ và xử lý theo quy định pháp luật.

Đối tượng Nguyễn Văn Nam cùng bạn gái bị khởi tố liên quan đến vụ cướp ngân hàng.

Bạn gái của bị can có thể đối mặt với những tội danh nào?

Trao đổi với Tạp chí Luật sư Việt Nam, Luật sư Đặng Văn Cường, Trưởng văn phòng Luật sư Chính pháp cho biết cô gái trẻ này thực hiện hành vi phạm tội vì lòng tham và thiếu hiểu biết pháp luật. Việc cô gái này đã thỏa sức tiêu xài số tiền do đối tượng cướp ngân hàng và cất giữ số tiền lớn, che giấu tội phạm thì có thể bị xử lý với 2 tội danh là tội "Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có" và tội "Che giấu tội phạm".

"Với kết quả điều tra ban đầu cho thấy Trần Thị Thu Thủy đã biết được bạn trai mình chính là đối tượng cướp tài sản nhưng vẫn nhận tiền, vẫn sử dụng số tiền do phạm tội mà có. Vì vậy, đây là hành vi vi phạm pháp luật có dấu hiệu của tội "Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có" theo quy định tại Điều 323 Bộ luật Hình sự năm 2015. Cụ thể, với số tiền trên 1.000.000.000 đồng, cô gái này sẽ phải đối mặt với khung hình phạt là phạt tù từ 10 năm đến 15 năm theo khoản 3, Điều 323", Luật sư Cường phân tích.

Luật sư Đặng Văn Cường, Trưởng văn phòng Luật sư Chính pháp.

Về hành vi che giấu tội phạm, Luật sư cho rằng sau khi sử dụng một phần số tiền để mua vàng, đồ trang sức, tư trang cá nhân, số tiền còn lại hơn 1,2 tỉ đồng, Thủy đã gửi bạn cất giữ mà không khai báo với cơ quan chức năng. Che giấu tội phạm là hành vi của một người không hứa hẹn trước, nhưng sau khi biết tội phạm được thực hiện, đã che giấu người phạm tội, các dấu vết, tang vật của tội phạm hoặc có hành vi khác cản trở việc phát hiện, điều tra, xử lý người phạm tội. Hành vi cất giấu số tiền hơn 1.000.000.000 đồng của Trần Thị Thu Thủy sau khi đã biết số tiền này cho đối tượng Nam cướp từ ngân hàng đã gây khó khăn cho hoạt động điều tra. Hành vi che giấu tội phạm sẽ bị xử lý theo quy định tại Điều 389 Bộ luật Hình sự năm 2015 với khung hình phạt lên đến 07 năm tù.

Luật sư cho biết thêm, như vậy trường hợp cơ quan điều tra có căn cứ thì Trần Thị Thu Thủy có thể sẽ bị xử lý hình sự với 2 tội danh là tội "Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có" theo khoản 3, Điều 323 Bộ luật Hình sự với hình phạt có thể đến 15 năm tù và tội "Che giấu tội phạm" theo khoản 2, Điều 389 Bộ luật Hình sự với hình phạt cao nhất có thể lên đến 07 năm tù. Khi đó cô gái này sẽ phải đối mặt với mức hình phạt cao nhất có thể lên đến 22 năm tù cho hai tội danh nêu trên.

Vụ án này có lẽ sẽ là bài học đáng quý cho giới trẻ hiện nay. Các đối tượng vi phạm cũng sẽ phải chịu các chế tài nghiêm khắc của pháp luật.

DUY ANH

Vụ cướp ngân hàng ở Hải Phòng: Chiếc xe máy sẽ xử lý như thế nào?

3. Đơn giản hồ sơ chuyển trường THCS, THPT từ 15/02/2022

(LSVN) - Ngày 31/12/2021, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Thông tư 50/2021/TT-BGDĐT về Quy định chuyển trường và tiếp nhận học sinh học tại các trường trung học cơ sở (THCS) và trường trung học phổ thông (THPT).

Theo đó, Thông tư này đã bỏ 05 loại giấy tờ trong thành phần hồ sơ chuyển trường của học sinh THCS, THPT theo quy định cũ tại Điều 5 Quyết định số 51/2002/QĐ-BGDĐT. Cụ thể:

- Bằng tốt nghiệp cấp học dưới (bản công chứng);

- Bản sao giấy khai sinh;

- Các giấy tờ hợp lệ để được hưởng chế độ ưu tiên, khuyến khích trong học tập, thi tuyển sinh, thi tốt nghiệp (nếu có);

- Hộ khẩu hoặc Giấy chứng nhận tạm trú dài hạn hoặc quyết định điều động công tác của cha hoặc mẹ hoặc người giám hộ tại nơi sẽ chuyển đến với những học sinh chuyển nơi cư trú đến từ tỉnh, thành phố khác;

- Giấy xác nhận học sinh có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn.

Theo đó, từ ngày 15/02/2022 - khi Thông tư 50/2021/TT-BGDĐT có hiệu lực, hồ sơ chuyển trường của học sinh THCS, THPT chỉ cần có: 

- Đơn xin chuyển trường do cha hoặc mẹ hoặc người giám hộ ký.

- Học bạ (bản chính).

- Giấy chứng nhận trúng tuyển vào lớp đầu cấp trung học phổ thông quy định cụ thể loại hình trường được tuyển.

- Giấy giới thiệu chuyển trường do Hiệu trưởng nhà trường nơi đi cấp.

- Giấy giới thiệu chuyển trường do Trưởng phòng Giáo dục và Đào tạo (đối với cấp trung học cơ sở); Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo (đối với cấp trung học phổ thông) nơi đi cấp (trường hợp xin chuyển đến từ tỉnh, thành phố khác).

Ngoài ra, học sinh Việt Nam ở nước ngoài về nước thì năm xin học sẽ được gia hạn thêm 03 tuổi so với tuổi quy định của từng cấp học. Học sinh người nước ngoài trong năm xin học tại Việt Nam cũng được gia hạn thêm 03 tuổi so với tuổi quy định của từng cấp học (quy định cũ là 01 tuổi).

Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15/02/2022.

MAI HUỆ

Một số vấn đề về phiên hòa giải nhưng bị đơn vắng mặt

4. Cựu trưởng Công an quận Tây Hồ Phùng Anh Lê sẽ đối mặt với chế tài nào của pháp luật?

(LSVN) – Theo Luật sư trường hợp bị truy tố về hai tội danh là “Tha trái pháp luật người bị bắt, người đang bị tạm giữ, tạm giam” và “Nhận hối lộ” thì vị cựu Trưởng Công an quận Tây hồ này sẽ phải đối mặt với hình phạt cao nhất lên tới 18 năm tù.

Đề nghị truy tố cựu Đại tá Phùng Anh Lê

Mới đây, Cơ quan điều tra Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao đã hoàn tất kết luận điều tra, đề nghị Vụ 6 của Viện này truy tố ông Phùng Anh Lê (cựu Trưởng phòng Cảnh sát kinh tế Công an Hà Nội) về tội "Tha trái pháp luật người bị bắt, người đang bị tạm giữ, tạm giam, người đang chấp hành án phạt tù" theo quy định tại Điều 378 Bộ luật Hình sự.

Liên quan vụ án này, nhóm cựu cán bộ Công an quận Tây Hồ, Hà Nội, gồm: Nguyễn Đức Châu, Vũ Công Ngọc và Lê Đình Trung bị đề nghị truy tố với vai trò đồng phạm của ông Phùng Anh Lê.

Theo cáo buộc, ngày 19/9/2016, Nguyễn Công Thành (ở quận Hoàn Kiếm, Hà Nội) đến Công an phường Yên Phụ, quận Tây Hồ, tố cáo một nhóm người bắt giữ anh này trái pháp luật rồi hành hung. Sau khi Công an phường tiếp nhận thông tin, trực ban đã báo cáo Trưởng Công an quận Phùng Anh Lê và Phó trưởng Công an quận khi đó là ông Phạm Quý Hải. Vụ việc sau đó được Đội cảnh sát hình sự Công an quận Tây Hồ thụ lý để xác minh.

Theo kết luận điều tra, Đội Cảnh sát hình sự đã xác minh và làm rõ Nguyễn Hữu Tài (trú quận Ba Đình) cùng một số người khác liên quan vụ tấn công Nguyễn Công Thành. Ngày 22/9/2016, Tài đến Công an quận Tây Hồ trình diện về hành vi liên quan đơn tố cáo của anh Thành. Quá trình củng cố hồ sơ, cán bộ Đội Cảnh sát hình sự đề xuất tạm giữ Tài để điều tra và bắt những người liên quan khác.

Cơ quan điều tra làm rõ bị can Vũ Công Ngọc (cựu Đội phó Đội hình sự Công an quận Tây Hồ) đã đồng ý với đề xuất của điều tra viên. Sau đó, ông Ngọc báo cáo đội trưởng Nguyễn Đức Châu rồi mang hồ sơ đến nhà riêng của ông Phạm Quý Hải để báo cáo. Sau khi ông Hải chấp thuận đề xuất và ký quyết định tạm giữ Nguyễn Hữu Tài để làm rõ hành vi bắt giữ người trái pháp luật, nghi phạm bị đưa vào nhà tạm giữ Công an quận Tây Hồ tối 22/9/2016. Quá trình Tài bị tạm giữ, vợ và người nhà của nghi phạm đã nhờ người quen kết nối đến Công an quận Tây Hồ để nhờ giúp đỡ.

Theo cáo buộc, qua quan hệ trung gian, anh Phùng Văn Bảy là người quen đã nhờ ông Lê giúp đỡ trường hợp của Tài. Sau khi đồng ý, ông Phùng Anh Lê nhắn người trung gian thông báo gia đình Tài chuẩn bị tiền để hòa giải với nạn nhân. Khuya 22/9/2016, anh Bảy nhận 110 triệu đồng từ gia đình Tài rồi đưa cho ông Lê.

Cơ quan điều tra cho rằng sau khi nhận tiền, cựu Trưởng Công an quận Tây Hồ yêu cầu cấp dưới cung cấp hồ sơ vụ án để xem xét. Sau đó, ông Lê nói rằng chứng cứ để tạm giữ Tài còn yếu nên chỉ đạo đưa nghi phạm ra khỏi nhà tạm giữ, cho viết cam kết để tránh tự sát.

Thực hiện chỉ đạo của ông Lê, bị can Ngọc cùng một số cảnh sát đã đưa Tài ra khỏi nhà tạm giữ và cho các bên hòa giải vụ hành hung. Sau 2 lần hòa giải tại trụ sở Công an quận, Tài đồng ý bồi thường 15 triệu đồng và sửa điện thoại cho anh Thành. Ngày 22/1/2021, Công an Hà Nội đã rà soát và lật lại hồ sơ vụ án. Sau khi củng cố hồ sơ, Công an thành phố ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can với Nguyễn Hữu Tài và 5 bị can khác về tội "Cướp tài sản".

Cơ quan điều tra đánh giá bị can Phùng Anh Lê nhiều lần không thừa nhận hành vi và có lời khai đổ lỗi những bị can khác. Trong khi đó, Nguyễn Đức Châu, Phùng Công Ngọc và Lê Đình Trung thành khẩn khai báo.

Ngoài ra, bị can Phùng Anh Lê không thừa nhận đã nhận 110 triệu đồng nên cơ quan điều tra tách hành vi có dấu hiệu đưa, nhận và môi giới hối lộ để tiếp tục làm rõ. Đối với vai trò của ông Phạm Quý Hải và một số cán bộ Công an quận Tây Hồ, cơ quan điều tra cũng tách hồ sơ để điều tra.

Oan sai và bỏ lọt tội phạm là mối nguy hiểm cho xã hội

Trao đổi với Tạp chí Luật sư Việt Nam về một số vấn đề pháp lý liên quan đến vụ việc này, Luật sư Đặng Văn Cường – Trưởng Văn phòng Luật sư Chính pháp cho rằng đây là một vụ án khá bất ngờ với nhiều người bởi những người bị khởi tố trong vụ án này đều là những cán bộ, cựu cán bộ Công an có chức vụ cao trong Công an quận Tây hồ. Trước đó thì một loạt cán bộ, lãnh đạo Công an quận Đồ Sơn, thành phố Hải Phòng cũng bị xử lý đối với những hành vi tương tự như vụ án này.

Theo Luật sư Cường, những vụ án này là một câu chuyện rất đáng buồn về công tác cán bộ, đồng thời cũng cho thấy quyết tâm của Đảng và nhà nước ta trong việc đấu tranh với những sai trái, tiêu cực, không có vùng cấm trong việc đấu tranh với tội phạm. Đối với công tác đấu tranh phòng chống tội phạm thì oan sai và bỏ lọt tội phạm đều nguy hiểm cho xã hội. Nếu những án oan sai thường có nguyên nhân là do chủ quan, nóng vội, do trình độ năng lực hạn chế thì hiện tượng bỏ lọt tội phạm là do suy thoái đạo đức, tha hóa về nhân cách của cán bộ, vì lợi ích vật chất, vì bị mua chuộc mà thỏa hiệp với tội phạm, tiếp tay cho tội phạm khiến pháp luật bị khinh nhờn, tội phạm lộng hành, ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự, an toàn xã hội, ảnh hưởng đến uy tín của đảng và nhà nước đối với nhân dân.

Hành vi gây oan sai có thể do lỗi vô ý, do chủ quan, do năng lực trình độ hạn chế nhưng hành vi bỏ lọt tội phạm, dung túng cho tội phạm là hành vi cố ý và thể hiện sự suy thoái nghiêm trọng của cán bộ, không chỉ của một người mà thường là sẽ có nhiều người cùng vi phạm, làm suy yếu hệ thống cơ quan bảo vệ pháp luật.

Cựu trưởng Công an quận Tây Hồ Phùng Anh Lê sẽ đối mặt với mức hình phạt nào?

Luật sư Cường phân tích, tội "Tha trái pháp luật người bị bắt, người đang bị tạm giữ, tạm giam, người đang chấp hành án phạt tù" theo quy định tại Điều 378 Bộ luật Hình sự là một trong những tội danh xâm phạm hoạt động tư pháp.

Hành vi phạm tội đối với tội danh này xâm phạm đến hoạt động đúng đắn của các cơ quan tư pháp, gây ảnh hưởng xấu đến dư luận xã hội, làm giảm uy tín của cơ quan bảo vệ pháp luật nói chung, lực lượng Công an nhân dân nói riêng. Bởi vậy, người phạm tội sẽ phải chịu mức chế tài nghiêm khắc của pháp luật.

Tội danh này áp dụng với người có chức vụ, quyền hạn, đã lợi dụng chức vụ quyền hạn, lạm quyền để tha người bị bắt, bị tạm giữ trái pháp luật dẫn đến bỏ lọt tội phạm. Người phạm tội sẽ phải đối mặt với khung hình phạt là cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

Trường hợp tha trái pháp luật người bị bắt, bị tạm giữ về tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng; tha trái pháp luật từ 02 người đến 05 người thì phải đối mặt với khung hình phạt từ 02 năm đến 07 năm tù.

Việc quyết định hình phạt cụ thể sẽ do Tòa án có thẩm quyền xác định dựa trên căn cứ trên cơ sở kết quả tranh tụng, đánh giá tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội và các tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mức hình phạt theo quy định của Bộ luật Hình sự.

Luật sư Đặng Văn Cường, Trưởng văn phòng Luật sư Chính pháp.

Vì sao phải tách hành vi có dấu hiệu "Nhận hối lộ" để điều tra, làm rõ?

Luật sư Cường cũng cho biết thêm, theo kết quả điều tra của cơ quan điều tra Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao thì bị can Lê đã nhận số tiền 110 triệu đồng từ gia đình Tài. Tuy nhiên, đến nay bị can Lê không thừa nhận hành vi này và chưa đủ căn cứ pháp lý vững chắc nên cơ quan điều tra tạm thời tách rút để xử lý sau.

“Rất có thể do hết thời hạn điều tra nên sẽ xử lý tội danh "Tha trái pháp luật người bị bắt, người đang bị tạm giữ, tạm giam, người đang chấp hành án phạt tù" trước, sau đó sẽ tiếp tục khởi tố thêm tội “Đưa hối lộ”, tội “Nhận hối lộ” và tội “Môi giới hối lộ” đối với những người có liên quan khi tài liệu được củng cố thêm”, vị Luật sư cho biết.

Theo quy định tại Điều 354 Bộ luật Hình sự năm 2015, người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn trực tiếp hoặc qua trung gian nhận hoặc sẽ nhận bất kỳ lợi ích nào sau đây cho chính bản thân người đó hoặc cho người hoặc tổ chức khác để làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ thì sẽ bị xử lý về tội danh này.

Với của hối lộ là tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác trị giá từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng thì hình phạt với người phạm tội sẽ là phạt tù từ 07 năm đến 15 năm tù.

Đối với người đưa hối lộ số tiền trên 100.000.000 đồng thì sẽ bị xử lý theo khoản 2, Điều 364 Bộ luật Hình sự năm 2015 với chế tài là phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

Với người môi giới hối lộ thì sẽ bị xử lý theo khoản 2 Điều 365 Bộ luật Hình sự năm 2015 với mức chế tài là từ 02 năm đến 07 năm tù.

Như vậy, trong trường hợp Cơ quan điều tra có thêm các tài liệu chứng cứ để chứng minh đã có hành vi đưa hối lộ, nhận hối lộ và môi giới hối lộ thì cả người đưa, người nhận và người môi giới sẽ đều bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Vấn đề này cơ quan điều tra sẽ tiếp tục làm rõ để xử lý theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bị truy tố về 02 tội danh là “Tha trái pháp luật người bị bắt, người đang bị tạm giữ, tạm giam” và “Nhận hối lộ” thì vị cựu Trưởng Công an quận Tây hồ này sẽ phải đối mặt với hình phạt cao nhất lên tới 18 năm tù.

Luật sư Cường bày tỏ, dù bị xử lý về một tội danh hay hai tội danh, mức án ở mức độ nào chăng nữa thì đây cũng là một vụ án hết sức đau lòng về công tác cán bộ, cho thấy sự suy thoái nghiêm trọng về đạo đức, tư tưởng, phẩm chất của một số cán bộ thực hiện nhiệm vụ bảo vệ pháp luật. Việc phát hiện, xử lý các vụ việc vi phạm như vậy là cần thiết, phần nào cho thấy quyết tâm phòng chống tham nhũng, tiêu cực của đảng và nhà nước ta đang thực hiện rất quyết liệt, không có vùng cấm, không có ngoại lệ và từng bước để duy trì, củng cố niềm tin của người dân đối với chính quyền.

DUY ANH

Đề nghị truy tố cựu Đại tá Phùng Anh Lê

4. Sửa đổi, bổ sung quy định về đầu tư xây dựng dự án nhà ở thương mại

(LSVN) - Đây là một trong những nội dung đáng chú ý tại Luật số 03/2022/QH15 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu tư công, Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư, Luật Đầu tư, Luật Nhà ở, Luật Đấu thầu, Luật Điện lực, Luật Doanh nghiệp, Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt và Luật Thi hành án dân sự được thông qua ngày 11/01/2022.

Ảnh minh họa.

Luật cơ cấu thành 11 điều, gồm: 9 điều sửa đổi, bổ sung một số điều của 9 luật hiện hành, 1 điều quy định về điều khoản chuyển tiếp và 1 điều quy định về hiệu lực thi hành. Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01/3/2022.

Trong đó tại Điều 4 của Luật sửa đổi, bổ sung khoản 1, Điều 23 Luật Nhà ở. Cụ thể, có quyền sử dụng đất hợp pháp thuộc một trong các trường hợp quy định tại điểm a, điểm b khoản này mà việc sử dụng đất để thực hiện dự án đầu tư xây dựng nhà ở thương mại phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt theo quy định của pháp luật về đất đai, trừ trường hợp thuộc diện Nhà nước thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh, thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng và các trường hợp thu hồi khác theo quy định của pháp luật:

- Có quyền sử dụng đất ở;

- Có quyền sử dụng đất ở và đất khác không phải là đất ở đáp ứng điều kiện cho phép chuyển mục đích sử dụng đất để thực hiện dự án đầu tư.

Như vậy, so với hiện hành, Luật số 03/2022/QH15 đã có quy định cụ thể hơn về hình thức sử dụng đất của nhà đầu tư để thực hiện dự án đầu tư xây dựng nhà ở thương mại. Trước đây, khoản 1 Điều 23 Luật Nhà ở 2014 (được sửa đổi, bổ sung bởi điểm c khoản 1 Điều 75 Luật Đầu tư 2020) chỉ quy định hình thức sử dụng đất để thực hiện dự án đầu tư xây dựng nhà ở thương mại như sau: "Có quyền sử dụng đất ở hợp pháp và các loại đất khác được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép chuyển mục đích sử dụng đất sang làm đất ở".

Đồng thời, để bảo đảm tính minh bạch, chặt chẽ, không thất thoát ngân sách nhà nước, Luật bổ sung quy định, sau khi đã được cơ quan có thẩm quyền chấp thuận chủ trương đầu tư, đồng thời chấp thuận nhà đầu tư theo quy định của pháp luật về đầu tư, nhà đầu tư có trách nhiệm thực hiện việc chuyển mục đích sử dụng đất đối với dự án có yêu cầu chuyển mục đích sử dụng đất và thực hiện các nghĩa vụ tài chính có liên quan theo quy định của pháp luật về đất đai.

Trước đó, khoản 1 Điều 23 Luật Nhà ở 2014 (được sửa đổi, bổ sung bởi điểm c khoản 1 Điều 75 Luật Đầu tư 2020) không đề cập đến nội dung này.

PHƯƠNG HOA

Được gia hạn tập sự hành nghề Luật sư tối đa không quá 02 lần

5.

 

Admin