TRỰC THỨ 4

13/07/2022 03:15 | 2 năm trước

1. Twitter khởi kiện tỷ phú Elon Musk, mở màn cuộc chiến pháp lý lớn nhất lịch sử Phố Wall

(LSVN) - Ngày 12/7, công ty Twitter Inc đã khởi kiện ông chủ Tesla, tỷ phú Elon Musk lên Tòa án bang Delaware với cáo buộc ông này vi phạm thỏa thuận trị giá 44 tỉ USD giữa hai bên liên quan đến tiến trình mua lại nền tảng mạng xã hội này. Twitter Inc cũng yêu cầu Tòa án ra phán quyết buộc nhà tỷ phú này hoàn tất thỏa thuận mua bán với mức giá đã thống nhất là 54,2 USD/cổ phiếu.

Tỷ phú Elon Musk và biểu tượng Twitter. Ảnh: Finnews24/TTXVN.

Trong đơn kiện, Twitter khiếu nại về việc ông Musk coi thường luật kinh doanh của bang Delaware, tự do thay đổi chủ ý, gây tổn hại cho công ty, làm gián đoạn hoạt động và hủy hoại giá trị cổ đông. 

Twitter cũng cáo buộc ông Elon Musk "bí mật" thâu tóm cổ phiếu của công ty trong giai đoạn từ tháng 1 đến tháng 3 mà không công khai các giao dịch mua đáng kể của mình với các cơ quan quản lý. 

Chốt phiên giao dịch ngày 12/7 tại thị trường New York, cổ phiếu của Twitter có giá 34,06 USD, tăng 4,3% so với phiên giao dịch trước đó, song lại thấp hơn nhiều so với mức trên 50 USD vào thời điểm hai bên đạt được thỏa thuận mua bán hồi cuối tháng 4/2022. 

Trong khi đó, tỷ phú Musk lấy lý do về việc Twitter đã không công khai những thông tin về các tài khoản giả mạo và tài khoản rác theo yêu cầu của ông, để hủy bỏ thỏa thuận mua bán này. Hôm 8/7, ông Musk đã chính thức tuyên bố chấm dứt kế hoạch mua Twitter. 

Vụ kiện này được đánh giá sẽ trở thành cuộc chiến pháp lý lớn nhất trong lịch sử Phố Wall liên quan đến một trong những doanh nghiệp có sự đa dạng nhất trong thế giới kinh doanh.

LAN PHƯƠNG/TTXVN

Xử lý nghiêm vi phạm trên thị trường trái phiếu, chứng khoán, tiền tệ

2. Những điểm thí sinh cần lưu ý trước khi biết điểm thi tốt nghiệp THPT

(LSVN) - Theo lịch tổ chức kỳ thi tốt nghiệp THPT, Bộ Giáo dục và Đào tạo yêu cầu các Sở Giáo dục và Đào tạo công bố kết quả tốt nghiệp THPT vào ngày 24/7/2022. Vậy, các thí sinh cần lưu ý gì trước khi biết điểm thi tốt nghiệp THPT?

Ảnh minh họa.

Theo hướng dẫn của Bộ Giáo dục và Đào tạo, việc đầu tiên là thí sinh phải rà soát kết quả điểm học bạ. Cụ thể, từ ngày 01 - 18/7, thí sinh (trừ các thí sinh đã và chưa tốt nghiệp các năm trước) sử dụng tài khoản đã được cấp để rà soát kết quả điểm học tập (học bạ) cấp THPT trên Hệ thống hỗ trợ tuyển sinh chung và phải phản ánh lại với thầy, cô có trách nhiệm nơi thí sinh học THPT để sửa sai (nếu có).  

Thí sinh đã tốt nghiệp THPT, trung cấp (thí sinh tự do), nhưng chưa thực hiện việc đăng ký thông tin cá nhân trên hệ thống phải thực hiện việc đăng ký để được cấp tài khoản sử dụng cho việc đăng ký nguyện vọng xét tuyển.  

Từ ngày 12 - 18/7, thí sinh phải tải mẫu phiếu đăng ký thông tin cá nhân (Phụ lục V) và kê khai thông tin trên phiếu; nộp phiếu tại điểm tiếp nhận (theo quy định và hướng dẫn của Sở Giáo dục và Đào tạo nơi thí sinh thường trú) để nhận thông tin tài khoản phục vụ công tác tuyển sinh.  

Đăng ký nguyện vọng xét tuyển bằng hình thức trực tuyến, thí sinh phải nộp lệ phí mới được chấp nhận. Lệ phí đăng ký xét tuyển năm nay là 20.000 đồng/nguyện vọng, giảm 5.000 đồng so với năm trước.  

Thí sinh từ Huế trở ra sẽ chuyển khoản lệ phí xét tuyển cho Trường đại học Bách khoa Hà Nội. Thí sinh từ Đà Nẵng trở vào chuyển khoản cho Học viện Bưu chính viễn thông tại TP .Hồ Chí Minh. Hai đơn vị này sẽ tiếp nhận và điều phối kinh phí cho bộ, sở và các trường đại học.  

Địa chỉ công bố điểm thi an toàn và uy tín nhất chính là trang quản lý thi của Bộ Giáo dục và Đào tạo: https://thisinh.thithptquocgia.edu.vn/Account/Login

Thí sinh đăng nhập trang quản lý thi bằng Căn cước công dân/Chứng minh nhân dân cùng mã đăng nhập (mật khẩu) được cấp hoặc đăng nhập bằng tài khoản Cổng dịch vụ công Quốc gia.

Theo Quyết định 1683/QĐ-BGDĐT, các thí sinh đã tốt nghiệp THPT, trung cấp chưa có tài khoản đăng ký xét tuyển trên Hệ thống sẽ được cấp tài khoản bổ sung từ ngày 12 - 18/7/2022.

HÀ ANH

Khi nào công bố điểm thi tốt nghiệp THPT 2022?

3. Bàn về pháp luật an sinh xã hội đối với người cao tuổi ở Nhật Bản – Một số kiến nghị cho Việt Nam

(LSVN) - Già hóa dân số đang là xu thế tất yếu đang diễn ra trên phạm vi toàn cầu với tốc độ ngày càng nhanh và tác động lên mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội của tất cả các quốc gia trên thế giới trong đó có Nhật Bản. Trong nhiều thập niên qua, Nhật Bản là một trong những quốc gia điển hình có hệ thống pháp luật an sinh xã hội đối với người cao tuổi khá thành công. Những kết quả đạt được trong thực hiện chính sách pháp luật an sinh xã hội đối với người cao tuổi  ở Nhật Bản có thể là những gợi ý hữu ích đối với thực hiện an sinh xã hội và phát triển bền vững ở Việt Nam hiện nay. Bài viết này tác giả phân tích quy định pháp luật an sinh xã hội đối với người cao tuổi ở Nhật Bản đã có kinh nghiệm đối mặt với thực trạng già hoá dân số, từ đó đưa ra các kiến nghị đối với pháp luật an sinh xã hội (ASXH) cho người cao tuổi ở Việt Nam.

Ảnh minh họa.

Người cao tuổi (NCT) là một trong những nhóm người yếu thế, “nhóm xã hội dễ bị tổn thương”. Bởi, theo quy luật sinh - lão - bệnh - tử thì đến độ tuổi nhất định, con người sẽ già yếu, tâm sinh lý rối loạn, sức khỏe suy giảm, bệnh tật phát
sinh... dẫn đến mất dần khả năng lao động và thu nhập. Trong khi đó, nhu cầu sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc, ở,… không giảm, thậm chí còn tăng cao do phải chi trả chi phí khám chữa bệnh khi thường xuyên bị ốm đau, bệnh tật. Nếu không có tiền bạc, của cải tích luỹ từ khi còn trẻ tuổi hoặc không được hỗ trợ từ nhà nước và cộng đồng, con cái, thì họ khó bảo đảm và duy trì được đời sống hàng ngày. Theo thống kê của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), hiện nay trên thế giới đã có 77,5% số người trên tuổi nghỉ hưu nhận được một số hình thức hưu trí tuổi già. [10] Tuy nhiên, cũng theo ILO, tỷ lệ này ở các quốc gia, khu vực có sự chênh lệch lớn. Chẳng hạn, tại Việt Nam, theo Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội, cuối năm 2020, cả nước mới có hơn 4,49 triệu người, tương đương với 35% số người sau độ tuổi nghỉ hưu được hưởng lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội hằng tháng và trợ cấp xã hội hằng tháng dành cho người hơn 80 tuổi,[10] con số chệnh lệch khá lớn

Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Chính phủ Nhật Bản nỗ lực duy trì và nâng cao đời sống cho người dân trên cơ sở bảo đảm phúc lợi xã hội và y tế công cộng. Hiến pháp Nhật Bản năm 1946 đã quy định cụ thể tại Điều 25 như sau: “Tất cả các công dân đều có quyền được hưởng cuộc sống với mức tối thiểu về văn hóa và sức khỏe”.[9] Đây chính là nền tảng pháp lý quan trọng đầu tiên cho sự hình thành hệ thống chính sách an sinh xã hội hiện đại của Nhật Bản. Trải qua các giai đoạn phát triển có thể nhận thấy trong mô hình bảo đảm an sinh xã hội của Nhật Bản, nhà nước luôn giữ vai trò quan trọng trong việc hoạch định và thực thi chính sách, can thiệp vào thị trường với những biện pháp khác nhau nhằm khắc phục những khiếm khuyết của thị trường, bảo đảm công bằng xã hội và để người dân được hưởng lợi nhiều hơn từ tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, không chỉ nhà nước mà cả xã hội và thị trường (mô hình hỗn hợp) Nhật Bản đều tham gia việc bảo đảm an sinh xã hội. Việc xác định đúng vai trò và chức năng của nhà nước trong việc thực hiện chính sách an sinh xã hội là rất cần thiết. Nhật Bản đề cao phương châm xã hội hóa hoạt động chế độ bảo đảm anh sinh xã hội, đặc biệt là các hoạt động chăm sóc trẻ em, người tàn tật, người cao tuổi…. Chính sách này được hình thành trên cơ sở Luật Bảo đảm cuộc sống hàng ngày của Nhật Bản năm 1946, sửa đổi năm 1950. Đây chính là những cơ sở thực tiễn, những bài học kinh nghiệm mà Việt Nam có thể học tập trong hoạt động bảo đảm an sinh xã hội nói chung và an sinh xã hội đối với người cao tuổi nói riêng.

Chính vì vậy, qua nghiên cứu tìm hiểu bài viết này tác giả hướng tới phân tích các khía cạnh pháp luật ASXH đối với người cao tuổi ở Nhật Bản nhằm tham khảo hàm ý cho chính sách, pháp luật giải quyết những vấn đề mà người cao tuổi ở Việt Nam đang phải đối mặt, từng bước thực hiện các mục tiêu nâng cao chất lượng cuộc sống của người cao tuổi, hướng tới “ Già hóa thành công”.

1. Một số thuật ngữ

Thuật ngữ “người cao tuổi” (older person/the eldrly trong tiếng Anh, personnes agee trong tiếng Pháp, Personas mayores trong tiếng Tây Ban Nha) được hiểu theo các ý khác nhau trên thế giới, theo CESCR thì người cao tuổi là “older persons” chỉ người từ 60 tuổi,[7] còn Luật Người cao tuổi năm 2009 của Việt Nam quy định người cao tuổi là người “từ đủ 60 tuổi trở lên”, trong khi về phương diện thuật ngữ. Có thể nhận thấy có lỗ hổng khoảng cách tuổi trong quan điểm về thuật ngữ “ từ đủ 60 tuổi trở lên” đến “chỉ từ 60 tuổi trở lên” của người cao tuổi giữa Việt Nam và quốc tế.

Khái niệm An sinh xã hội: Theo ILO, an sinh xã hội là sự bảo vệ mà xã hội cung cấp cho các thành viên của mình thông qua một loạt các biện pháp công cộng để chống lại tình cảnh khốn khó về kinh tế và xã hội gây ra bởi tình trạng bị ngưng hoặc giảm sút đáng kể về thu nhập do ốm đau, thai sản, thương tật trong lao động, thất nghiệp, tàn tật, tuổi già và tử vong; sự cung cấp về chăm sóc y tế và các khoản tiền trợ cấp giúp cho các gia đình đông con.

- Khái niệm “Pháp luật về an sinh xã hội đối với NCT” là tổng hợp những quy định của pháp luật điều chỉnh các mối quan hệ an sinh xã hội nhằm bảo vệ NCT được thiết lập trên cơ sở các quyền cơ bản của con người. Pháp luật về an sinh xã hội được xây dựng để bảo vệ một trong những nhóm yếu thế của xã hội đó là NCT có những đặc điểm riêng về suy giảm sức khoẻ, suy giảm khả năng thu nhập, thường xuyên bị ốm đau, bệnh tật....  Điều chỉnh các quan hệ pháp luật liên quan tới thu nhập, chính sách bảo hiểm thu nhập, chính sách chăm sóc y tế và chính sách trợ giúp xã hội đối với NCT có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, với mục đích nhằm bảo đảm đời sống cho NCT. Ngoài ra, chính sách ASXH đối với NCT còn bao gồm các nội dung về tiếp cận các dịch vụ xã hội khác như dịch vụ chăm sóc sức khỏe ban đầu, phòng ngừa bệnh tật, phục hồi chức năng tại cộng đồng, nhà ở, tham gia giao thông,...

Như vậy, ASXH đối với NCT được hiểu là sự bảo vệ của nhà nước và xã hội đối với NCT nhằm giảm thiểu rủi ro về kinh tế và sức khoẻ, bảo đảm mức sống và chống đói nghèo, góp phần phát triển ổn định, bền vững kinh tế xã hội của đất nước.

2. Một số cơ sở pháp lý về an sinh xã hội đối với người cao tuổi ở Nhật Bản

Pháp luật Nhật Bản về an sinh xã hội đối với người cao tuổi được thể hiện qua những dấu mốc đầu tiên đầu tiên về an sinh xã hội ở Nhật Bản, xuất hiện từ thời kỳ phong kiến với hình thức trợ giúp xã hội mang tính từ thiện cho những đối tượng khó khăn như người già cô đơn, trẻ em mồ côi, người bị ảnh hưởng bởi thiên tai, hoả hoạn,.. Sau chiến tranh, nhà nước nhìn thấy được mặt trái của chiến tranh đã đẩy mạnh hệ thống ASXH phát triển nhanh chóng.

Nền tảng pháp lý đầu tiên của an sinh xã hội được đề cập tại Điều 25, Hiến pháp 1947 của Nhật Bản, theo đó ghi nhận nguyên tắc về an sinh xã hội. Cùng với sự phát triển kinh tế nhanh chóng trong thời hậu chiến, hệ thống trợ cấp hưu trí công và bảo hiểm y tế dần được mở rộng để bao quát mọi đối tượng trong xã hội. Đạo luật về Dịch vụ Phúc lợi xã hội cho người già và Đạo luật về Phúc lợi cho Bà mẹ và trẻ em cũng lần lượt có hiệu lực từ năm 1963 và 1964, nhiều chế độ phúc lợi khác trong hệ thống cũng dần được nâng cao.

Khi kinh tế bước vào thời kỳ ổn định cuối thập niên 70, hệ thống an sinh xã hội bắt đầu được nghiên cứu xem xét lại để thích ứng với xã hội bắt đầu bước vào thời kỳ già hoá dân số. Từ cuối thập niên 90 của thế kỷ trước, hệ thống an sinh xã hội Nhật Bản một lần nữa đứng trước những cải cách nhằm cải thiện tỷ lệ sinh, cũng như thích nghi với già hoá dân số. Trong giai đoạn này, Đạo luật về bảo hiểm chăm sóc dài hạn cũng bắt đầu được áp dụng để hỗ trợ người cao tuổi và gia đình họ trong trường hợp cần hỗ trợ [1].

Như vậy, trong các chương trình an sinh cho đối tượng là người cao tuổi tại Nhật Bản, có các chương trình do tài chính bảo hiểm xã hội đảm bảo, bao gồm: Hưu trí công, Bảo hiểm y tế, Bảo hiểm chăm sóc dài hạn, Bảo hiểm việc làm và Bảo hiểm tai nạn lao động. Trong số này, mọi người dân đều có quyền tham gia 2 nhóm là Hưu trí công và Bảo hiểm y tế. Do vậy, Hưu trí công và Bảo hiểm y tế bao quát mọi đối tượng trong xã hội có thể coi là đặc điểm quan trọng nhất của an sinh xã hội Nhật Bản. Tài chính của hệ thống an sinh xã hội được bảo đảm bằng nguồn do các bên được bảo hiểm đóng góp, đồng thời cũng được bổ sung bởi nguồn thuế như một dạng trợ cấp. Phí bảo hiểm do các bên đóng góp căn cứ vào thu nhập của họ, điều này cũng nhằm đảm bảo nguyên tắc cơ bản của bảo hiểm là chia sẻ rủi ro và phân phối lại thu
nhập. Hệ thống pháp luật ASXH đối với NCT tại Nhật Bản được thể hiện qua các mặt như sau:

Một là, pháp luật bảo hiểm xã hội đối với NCT. Ở Nhật Bản, bảo hiểm xã hội luôn là nội dung chủ yếu của hệ thống an sinh xã hội. Các chế độ bảo hiểm xã hội, bao gồm: bảo hiểm xã hội (bảo hiểm hưu trí, bảo hiểm y tế) và bảo hiểm lao động (bảo hiểm việc làm, bảo hiểm bồi thường tai nạn cho người lao động).

Chính phủ Nhật Bản quy định các chế độ bảo hiểm bắt buộc nhằm cung cấp tài chính cho người tham gia khi họ bị ốm đau, thương tật, tàn tật, sinh con, chết, tuổi già, thất nghiệp và các sự kiện được bảo hiểm khác. Hiện nay, bảo hiểm hưu trí là chế độ quan trọng nhất trong chính sách bảo hiểm xã hội của Nhật Bản, bảo đảm quyền lợi cho NCT. Đây là chế độ đa tầng, với hai dạng cơ bản là hưu trí nhà nước và hưu trí tư nhân; được phân chia, xác định theo ba dạng khác nhau:

- Hưu trí cơ bản (cung cấp mức tiền hưu như nhau đối với mọi đối tượng mà không căn cứ vào thu nhập, đóng góp hay quốc tịch);

- Hưu trí cho người làm công ăn lương (áp dụng đối với tất cả những người làm công ăn lương và mức thanh toán căn cứ vào thu nhập cũng như đóng góp của người đó);

- Hưu trí tự nguyện (do các công ty tư nhân đóng góp cho công nhân hoặc những quỹ hưu trí tập thể đóng cho những người làm ăn cá thể).

Hai là, pháp luật về bảo hiểm việc làm đối với NCT. Chức năng cơ bản của bảo hiểm việc làm này là hỗ trợ tiền (lợi ích thất nghiệp) cho người làm công ăn lương có đối tượng là NCT trong trường hợp bị mất việc làm và giúp duy trì việc làm ổn định trong xã hội.

Quỹ bảo hiểm việc làm ở Nhật Bản được hình thành trên cơ sở đóng góp của người lao động, chủ sử dụng lao động và ngân sách nhà nước. Trong những năm gần đây, do nền kinh tế bị suy thoái, quỹ bảo hiểm việc làm của Nhật Bản gặp nhiều khó khăn do phải đối mặt với tình trạng tỷ lệ thất nghiệp gia tăng, tình trạng mất cân đối giữa người đóng góp và người hưởng lợi, giữa người già thất nghiệp và người trẻ... Đối với NCT thù quỹ bảo hiểm về việc làm giúp họ có khả năng chống đỡ những rủi ro về thất nghiệp, bởi NCT là thế yếu trong xã hội, khả năng tìm được việc làm của họ cũng khó khăn hơn so với nhóm đối tượng là người trẻ.

Ba là, pháp luật về bảo hiểm chăm sóc sức khỏe. Chính phủ Nhật Bản thực hiện chính sách này thông qua hai hình thức chủ yếu: Chế độ bảo hiểm y tế phổ cập và chế độ bảo hiểm chăm sóc lâu dài. Nhà nước Nhật Bản quy định người dân phải tham gia một trong hai loại hình bảo hiểm này. Phí bảo hiểm được tính dựa vào mức lương và việc chi trả chế độ phải căn cứ vào từng loại hình bảo hiểm. Mức chi trả chăm sóc sức khỏe bình quân bằng khoảng 22% lương trung bình tháng, cộng thêm 1% chi phí nếu trên mức quy định đối với mỗi người bệnh. Chính phủ Nhật Bản cũng quy định mức đóng bảo hiểm thấp hơn đối với những gia đình có thu nhập thấp và cao hơn đối với những gia đình có thu nhập cao.[11]

Hiện nay, do những thay đổi về cơ cấu dân số, đặc biệt số lượng người cao tuổi. Nhật Bản là quốc gia có dân số “siêu già” hiện nay chiếm hơn 31% tổng dân số.[3] Tốc độ “ già hóa dân số” ngày càng tăng khiến chi phí hằng năm dành cho bảo hiểm chăm sóc sức khỏe của Nhật Bản tăng mạnh, ảnh hưởng đáng kể đến sự bền vững của hệ thống an sinh xã hội của nhà nước nói chung và sự an toàn của quỹ bảo hiểm y tế Nhật Bản nói riêng. Chính vì vậy, Nhật Bản đã chủ động nhận thức đầy đủ về việc bảo đảm quyền cà khả năng tiếp cận thụ hưởng chăm sóc sức khỏe, ASXH, an toàn và môi trường thân thiện với NCT, như thực hiện các chính sách khám bệnh định kỳ để có thế kịp thời phòng ngữa và chữa trị bệnh ở giai đoạn sớm. Đồng thời, chính phủ Nhật Bản thực hiện luật hoá chế độ bảo hiểm chăm sóc dài hạn cũng như các dịch vụ cho người cao tuổi thể hiện vai trò trụ cột của nhà nước trong đảm bảo an sinh cho người cao tuổi, vốn là một nhóm ngày càng chiếm tỷ lệ cao trong dân số

Bốn là, pháp luật về trợ giúp xã hội đối với người cao tuổi. Các quy định này được hình thành trên cơ sở Luật Bảo đảm cuộc sống hằng ngày của Nhật Bản năm 1946 (sửa đổi năm 1950), với hình thức chủ yếu là trợ giúp công cộng và các dịch vụ xã hội để tương trợ cho những người yếu thế trong xã hội trong đó có đối tượng là người cao tuổi khi họ không còn khả năng chống đỡ lại rủi ro trong cuộc sống. Mức độ trợ giúp được quy định dựa trên mức sống và bảo đảm tuân thủ pháp luật, do đó được Nhà nước điều chỉnh cho phù hợp với sự thay đổi mức sống dân cư. Cũng giống như nhiều quốc gia khác, Nhật Bản rất đề cao phương châm xã hội hóa hoạt động trợ giúp xã hội, đặc biệt là các hoạt động chăm sóc với đối tượng là người cao tuổi. Điển hình như trợ giúp công cộng, Chính sách gia đình, Chính sách cho người khuyết tật, Các dịch vụ cho NCT thì nguồn tài chính đảm bảo thực hiện thuộc về ngân sách nhà nước (thuế).

Những thành tựu đạt được trong xây dựng và tổ chức thực hiện pháp luật ASXH nói chung và đối với NCT nói riêng, trên cơ sở dựa vào cộng đồng đã góp phần quan trọng vào việc duy trì sự ổn định, thúc đẩy tiến bộ xã hội và qua đó tạo môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế Nhật Bản, trở thành một trong những hình mẫu cho nhiều quốc gia trên thế giới.

3. Một kiến nghị đối với Việt Nam trong việc quy định pháp luật an sinh xã hội cho người cao tuổi

Theo Báo cáo An sinh xã hội thế giới 2017-2019 của ILO, ở Việt Nam hiện nay, trong số hơn 11 triệu NCT (từ 60 tuổi trở lên), có 2.3 triệu người đang hưởng chế độ hưu trí, 1.3 triệu người hưởng trợ cấp xã hội, còn khoảng 6-7 triệu NCT không có thu nhập.[2] Trong đó phần lớn NCT ở Việt Nam sống ở nông thôn, số lượng chênh lệch quá lớn giữa nhóm người cao tuổi có thu nhập và nhóm người không có thu nhập. Có thể nói, Việt Nam hiện đang là một trong 10 quốc gia có tỷ lệ già hóa dân số nhanh nhất thế giới. Tỷ lệ NCT  tăng nhanh liên tục, dự báo đến năm 2030, tỷ trọng NCT Việt Nam chiếm 17% và năm 2050 là 25% dân số,[5] điều này cho thấy dân số Việt Nam đang già hóa với tốc độ chưa từng có.  Số lượng NCT càng lớn thì tỷ lệ thuận với đó là gánh nặng về bảo đảm đời sống, chăm sóc sức khoẻ, khám chữa bệnh tật, đáp ứng nhu cầu chăm sóc, nuôi dưỡng… càng lớn.

Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành TW Đảng khóa XII về công tác dân số trong tình hình mới nhấn mạnh: “Hoàn thiện chính sách pháp luật về bảo vệ, chăm sóc và phát huy vai trò của NCT; khuyến khích NCT tham gia hoạt động kinh tế - xã hội; xác định rõ trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền lợi của người sử dụng lao động và người lao động cao tuổi. Tích cực, chủ động xây dựng môi trường thân thiện với NCT; phát triển mạnh hệ thống chuyên ngành Lão khoa trong các cơ sở y tế. Khuyến khích phát triển cơ sở chăm sóc NCT; cung cấp các loại hình dịch vụ đáp ứng nhu cầu sinh hoạt, văn hóa, giải trí của NCT. Mục tiêu đến năm 2030, tuổi thọ bình quân đạt 75 tuổi, trong đó thời gian sống khỏe mạnh đạt tối thiểu 68 năm; 100% NCT có thẻ bảo hiểm y tế, được quản lý sức khỏe, được khám chữa bệnh, được chăm sóc tại gia đình, cộng đồng, cơ sở chăm sóc tập trung”[4] và quyền của người cao tuổi được ghi nhận thông qua các bản Hiến pháp, đặc biệt là Hiến pháp năm 2013 – văn bản pháp lý cao nhất của Nhà nước ta. Khoản 3 Điều 37 Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “ Người cao tuổi được Nhà nước, gia đình và xã hội tôn trọng, chăm sóc và phát huy vai trò trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc”. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng thể hiện đường lối chủ trương của Đảng ta trong mối quan tâm chăm sóc đặc biệt hướng tới bảo đảm tối đa quyền của người cao tuổi trong đời sống vật chất, tinh thần, trong đó có lĩnh vực ASXH của người cao tuổi. Tuy nhiên, đối với những quốc gia đang phát triển như Việt Nam, do bề dày của quỹ an sinh còn hạn chế, nên chưa thể đảm bảo được thu nhập cho mọi đối tượng người cao tuổi thuộc tầng thứ nhất. Mức trợ giúp xã hội cũng chỉ đáp ứng được một phần mức sống tối thiểu của người cao tuổi hiện nay và thực tế thụ hưởng cũng cần phải cân đối với những nhóm đối tượng yếu thế khác trong xã hội. Điều này cũng phù hợp với xu hướng chung trên thế giới, đó là tỷ lệ người cao tuổi được hưởng trợ cấp hưu trí đã tăng lên ở các quốc gia có thu nhập thấp và trung bình, nhưng mức hưởng hiện nay ở khu vực này còn chưa cao và chưa đảm bảo được đời sống của người cao tuổi. Tìm hiểu thực trạng an sinh xã hội tại Nhật Bản đã và đang trải qua quá trình già hóa dân số, có thể đưa ra một số khuyến nghị cho pháp luật ASXH đối với người cao tuổi tại Việt Nam như sau:

Thứ nhất, coi trọng việc phát triển hệ thống ASXH cho người cao tuổi, bảo đảm thực hiện ngày càng tốt hơn các quyền cơ bản của con người, phù hợp với thu nhập bình quân của quốc gia, đáp ứng chuẩn mực quốc tế mà Việt Nam là thành viên.

Tại Điều 34 Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung quy định các quyền về ASXH của người dân: “Công dân có quyền được bảo đảm an sinh xã hội” và Điều 59 đề ra trách nhiệm: “ Nhà nước tạo bình đẳng về cơ hội công dân được thụ hưởng phúc lợi xã hội, phát triển hệ thống ASXH”.

Do đó, dựa vào những gì Nhật Bản đã thực hiện về ASXH đối với người cao tuổi thì Việt Nam cần phải hoàn thiện thể chế chính sách, pháp luật bảo đảm ASXH cho người cao tuổi thông qua việc cải cách pháp luật an sinh xã hội cần tiến hành đồng bộ với những cải cách về phát triển việc làm, mở rộng sự tham gia vào hệ thống pháp luật bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, cải cách chính sách trợ giúp xã hội và giảm nghèo bền vũng. Bên cạnh đó là các quy định pháp lý về pháp luật thuế, pháp luật cạnh tranh, luật doanh nghiệp và thương mại thể hiện sự đồng bộ tiềm lực của quỹ ASXH. Vì có thể thấy rằng, tiềm lực quỹ ASXH tại Nhật Bản đều dựa trên hai nguồn: đóng góp của người tham gia (người lao động, người sử dụng lao động,..) và nguồn thuế do nhà nước hỗ trợ. Với mục tiêu mở rộng lưới an sinh bền vững cho tất cả các chủ thể trong xã hội, rõ ràng, tăng nguồn đóng góp từ các bên là không thể tránh khỏi.

Thứ hai, nhà nước cần tiếp tục giữ vai trò chủ đạo và thống nhất quản lý an sinh xã hội cho người cao tuổi. Với mô hình an sinh của Nhật Bản thì Nhà nước luôn giữ vai trò quan trọng trong việc hoạch định và thực thi chính sách, can thiệp vào thị trường với những biện pháp khác nhau nhằm khắc phục những khiếm khuyết của thị trường, bảo đảm công bằng xã hội và để người dân được hưởng lợi nhiều hơn từ tăng trưởng kinh tế. Việt Nam, với việc thiết kế mô hình hình an sinh xã hội như hiện nay, cần tiếp tục đảm bảo vai trò chủ đạo của nhà nước trong quy định và thực hiện an sinh.

Thứ ba, qua hệ thống pháp luật ASXH của Nhật Bản cũng gợi mở một vài hàm ý chính sách đối với ba mảng của an sinh xã hội cho người cao tuổi ở Việt Nam trong tương lai, đó là Bảo hiểm hưu trí, Bảo hiểm y tế và Bảo hiểm chăm sóc sức khoẻ dài hạn.

Đối với Bảo hiểm hưu trí, mặc dù nhà nước giữ vai trò chủ đạo nhưng do ngân sách của Việt Nam còn hạn chế, nên cần có những chính sách thúc đẩy hưu trí tư nhân phát triển. Cụ thể, cần có chính sách giảm thuế cho những doanh nghiệp phát triển quỹ hưu trí tại doanh nghiệp cho người lao động. Bảo hiểm xã hội tự nguyện ở Việt Nam hiện nay chưa thu hút được nhiều người tham gia, có lẽ vì mức đóng góp lớn, quyền lợi hưởng chưa cao, cộng với tình trạng lạm phát. Nhà nước có thể xem xét hỗ trợ cho quỹ bảo hiểm xã hội tự nguyện để kích thích sự tham gia của nhóm lao động tự do, nông dân, thợ thủ công,…

Nghị quyết số 28-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội, đó là phấn đấu số người sau độ tuổi nghỉ hưu được hưởng lương hưu, bảo hiểm xã hội hằng tháng và trợ cấp hưu trí xã hội đạt khoảng 55% vào năm 2025 và khoảng 60% vào năm 2030, nhiều giải pháp đã được tính đến trong quá trình xây dựng Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi).[5] Trong đó, một giải pháp được tính đến là mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc và tự nguyện; giảm điều kiện thời gian đóng bảo hiểm xã hội tối thiểu để được hưởng chế độ hưu trí; điều chỉnh quy định điều kiện hưởng bảo hiểm xã hội một lần để hạn chế số người rời khỏi “lưới an sinh”; giảm độ tuổi hưởng trợ cấp hưu trí xã hội (trợ cấp xã hội hằng tháng dành cho người cao tuổi) phù hợp với khả năng của ngân sách nhà nước trong từng thời kỳ.

Đối với Bảo hiểm y tế, hiện nay chúng ta đặt ra lộ trình y tế toàn dân, đồng thời cho phép những gói dịch vụ bảo hiểm y tế tư nhân tồn tại với hệ thống bảo hiểm y tế công lập. Do vậy, đối với nhiều bộ phận người dân, họ buộc phải tham gia đồng thời hai hệ thống bảo hiểm công tư. Để hạn chế lãng phí, chính phủ có thể xem xét quy định cho phép người tham gia chuyển từ hệ thống bảo hiểm y tế tư nhân sang hệ thống công lập. Hơn nữa, về mặt nhân lực, chúng ta cũng cần có lộ trình tăng tỷ lệ bác sĩ trên tổng số dân, ở các địa phương khác nhau.

Đối với Bảo hiểm chăm sóc dài hạn, từ kinh nghiệm của Nhật Bản, chúng ta cần xây dựng hệ thống Bảo hiểm chăm sóc dài hạn để chuẩn bị cho thế hệ tương lai. Việt Nam đã chuyển dịch dần từ cấu trúc gia đình truyền thống đa thế hệ sang cấu trúc gia đình hạt nhân, hơn thế nữa, với chính sách giảm sinh thực hiện trong một thời gian dài (từ năm 1961 ở miền Bắc, được đẩy mạnh vào năm 1991), khả năng con cái trực tiếp chăm sóc cha mẹ trong tương lai sẽ giảm đi rất nhiều. Do vậy, Việt Nam cần xây dựng hệ thống Bảo hiểm chăm sóc dài hạn, với những loại trợ cấp hoặc dịch vụ khác nhau, tuỳ theo nhu cầu của người thụ hưởng. Đó có thể là trợ cấp chăm sóc, hoặc chăm sóc tại nhà tính theo giờ, hoặc chăm sóc tại các cơ sở dưỡng lão. Nguồn tài chính cho Bảo hiểm chăm sóc dài hạn sẽ Nhà nước đầu tư ban đầu, cùng với đóng góp từ người lao động và người sử dụng lao động , trong đó người lao động độc thân đóng góp ở mức cao hơn. Đi cùng với nội dung này, phát triển nguồn nhân lực chăm sóc người cao tuổi trong tương lai cũng cần có định hướng cụ thể.

Thứ tư, hoàn hiện pháp luật trợ giúp xã hội cho NCT. Nhà nước triển khai và  thực hiện tốt các quy định pháp luật vể bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tại nạn lao động và bệnh nghề nghiệp cho NCT. Việt Nam cần tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp luật tạo khuôn khổ cho toàn bộ người lao động khi đến tuổi nghỉ hưu đều được tham gia bảo hiểm xã hội và bảo hiểm thất nghiệp như: Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014, sửa đổi bổ sung năm 2015, mở rộng diện tham gia bảo hiểm xã hội đối với người làm việc theo hợp đồng từ một tháng trở lên; hoàn thiện chế độ bảo hiểm xã hội tự nguyện theo hướng linh hoạt và phù hợp với điều kiện về việc làm và thu nhập của lao động trong khu vực phi chính thức.

Nhật Bản coi trọng việc hoàn thiện pháp luật trong việc xây dựng và thực hiện quy định pháp luật bảo đảm ASXH người cao tuổi luôn đi trước quan hệ xã hội cần điều chỉnh. Tạo hành lang pháp lý cho việc giải quyết các vấn đề ASXH thống nhất, hiệu lực và bảo đảm sự công bằng trong xã hội. Điều này khẳng định tầm quan trọng của hoạt động bảo đảm ASXH cho người cao tuổi, ghi nhận quyền hưởng ASXH cho người dân, vừa tạo cơ sở pháp lý cho người dân trong việc bảm vệ quyền lợi chính đáng của mình. Nhật Bản xây dựng mô hình ASXH theo văn hóa phương Đông. Việt Nam cũng là nước thuộc nền văn hóa phương Đông coi trọng NCT, do vậy, có thể áp dụng và rút ra được nhiều bài học từ Nhật Bản trong việc xây dựng ASXH cho người cao tuổi. Như việc đề cao trách nhiệm của cá nhân, trợ giúp của con cháu trong gia đình, tiếp đó là các tổ chức tư nhân và sau cùng mới đến Nhà nước. Nhà nước chỉ có chính sách tổng thể trong hoạt động phúc lợi xã hội. Pháp luật ASXH cho người cao  tuổi phải được xây dựng và thực hiện ngang tầm với hệ thống pháp luật kinh vế và phải thực hiện đồng bộ với phát triển kinh tế đất nước.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. An sinh xã hội Nhật Bản (ISSN 2186 – 0297), Viện Nghiên cứu quốc gia về Dân số và An sinh xã hội, 2014.

2. Báo cáo An sinh xã hội thế giới 2017 - 2019: Phổ cập an sinh xã hội để đạt mục tiêu phát triển bền vững.

3. Ban Tuyên giáo trung ương, Vụ các vấn đề xã hội: Đề án An sinh xã hội cho người cao tuổi, TLđd. Tr 26.

4. Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 22-11-2012 của Bộ Chính trị về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế giai đoạn 2012 - 2020”.

5. Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 23/5/2018 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội.

6. Aya K. Abe, “Low-income people in social security systems in Japan”, The Japanese Journalof Social Security Policy2 (2)(2003), p. 59 – 70.

7. CESCR, General Comment No.6 (1995): The economic, social and cultral rights of older persons, đoạn 9.

8. https://tuoitre.vn/nguoi-cao-tuoi-tham-gia-lao-dong-nhat-ban-va-viet-nam-1535809.htm truy cập 07/7/2022.

9.http://japan.kantei.go.jp/constitution_and_government_of_japan/constitution_e.html truy cập 07/7/2022.

10. https://www.pressreader.com/vietnam/nhan-dan-newspaper/20220704/281573769393245 truy cập 07/7/2022.

11.https://tcnn.vn/news/detail/37891/Chinh_sach_an_sinh_xa_hoi_o_Nhat_Banall.html truy cập 07/7/2022

Thạc sĩ TRẦN THỊ LỆ HẰNG

Trường Đại học Thủ đô Hà Nội

Pháp luật về tuyển dụng, sử dụng người lao động chưa thành niên theo BLLĐ 2019

4. Thay đổi số căn cước công dân có phải làm lại hộ chiếu?

(LSVN) - Kể từ ngày 01/7/2022, Cục Quản lý xuất nhập cảnh, Bộ Công an thực hiện cấp hộ chiếu phổ thông không gắn chíp điện tử theo mẫu mới cho công dân; riêng hộ chiếu phổ thông có gắn chíp điện tử sẽ thực hiện cấp từ Quý IV năm 2022. Vậy, đối với trường hợp thay đổi số căn cước công dân có phải làm lại hộ chiếu?

Liên quan đến vấn đề này, theo Cục Quản lý xuất nhập cảnh, trường hợp thay đổi số căn cước công dân, công dân không bắt buộc phải cấp đổi lại hộ chiếu (trừ trường hợp Cơ quan đại diện nước ngoài yêu cầu đổi lại để cấp visa).

Cục Quản lý xuất nhập cảnh và Công an các địa phương đã chính thức thực hiện dịch vụ công trực tuyến mức độ 4 đối với thủ tục cấp hộ chiếu phổ thông không gắn chíp điện tử.

Do đó, công dân có thể truy cập vào Cổng Dịch vụ công Quốc gia: https://dichvucong.gov.vn, Cổng Dịch vụ công Bộ Công an: https://dichvucong.bocongan.gov.vn để thực hiện nộp hồ sơ cấp hộ chiếu trực tuyến theo hướng dẫn mà không cần phải trực tiếp đến cơ quan quản lý xuất nhập cảnh nộp hồ sơ.

Cục Quản lý xuất nhập cảnh Bộ Công an cho biết, kể từ ngày 01/7/2022, Cục Quản lý xuất nhập cảnh thực hiện cấp hộ chiếu phổ thông không gắn chíp điện tử theo mẫu mới cho công dân; Riêng hộ chiếu phổ thông có gắn chíp điện tử sẽ thực hiện cấp từ Quý IV năm 2022.

Đối với hộ chiếu phổ thông mẫu cũ được cấp trước ngày 01/7/2022 sẽ tiếp tục được sử dụng cho đến hết thời hạn ghi trong hộ chiếu.

PV

Hộ chiếu phổ thông mẫu cũ được cấp trước ngày 01/7/2022 có phải làm lại không?

5. Hồ sơ mời thầu theo Hiệp định CPTPP không được đưa ra yêu cầu về hàng mẫu

(LSVN) - Thông tư số 12/2022/TT-BKHĐT quy định rõ về hàng hóa mẫu, hồ sơ mời thầu không được đưa ra yêu cầu về hàng mẫu. Trường hợp cần yêu cầu về hàng mẫu để đánh giá về kỹ thuật thì chủ đầu tư phải trình người có thẩm quyền xem xét, quyết định trong quá trình phê duyệt hồ sơ mời thầu. 

Ảnh minh họa.

Bộ Kế hoạch và Đầu tư vừa ban hành Thông tư số 12/2022/TT-BKHĐT quy định chi tiết về lập hồ sơ mời thầu mua sắm hàng hóa đối với gói thầu thuộc phạm vi điều chỉnh của Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định Thương mại tự do giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Liên minh Châu Âu (EVFTA), Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ireland (UKVFTA) được tổ chức đấu thầu rộng rãi theo phương thức một giai đoạn một túi hồ sơ, một giai đoạn hai túi hồ sơ.

Về lập hồ sơ mời thầu, Thông tư nêu rõ, việc lập, thẩm định, phê duyệt hồ sơ mời thầu gói thầu mua sắm hàng hóa phải căn cứ vào quy mô, tính chất của từng gói thầu cụ thể để đưa ra các yêu cầu phù hợp trên cơ sở bảo đảm nguyên tắc cạnh tranh, công bằng, minh bạch và hiệu quả kinh tế; căn cứ nhu cầu sử dụng của hàng hóa để đưa ra các yêu cầu về kỹ thuật bảo đảm đáp ứng về công năng, phù hợp với nhu cầu sử dụng thực tế và điều kiện của thị trường.

Đồng thời, không được đưa ra các điều kiện nhằm hạn chế sự tham gia của nhà thầu hoặc nhằm tạo lợi thế cho một hoặc một số nhà thầu gây ra sự cạnh tranh không bình đẳng (như nêu nhãn hiệu, xuất xứ cụ thể của hàng hóa, kể cả việc nêu tên nước, nhóm nước, vùng lãnh thổ gây ra sự phân biệt đối xử, trừ trường hợp đấu thầu nội khối theo quy định tại Điều 15 của Nghị định số 95/2020/NĐ-CP); không đưa ra yêu cầu nhà thầu đã từng ký kết thực hiện một hoặc nhiều hợp đồng với cơ quan mua sắm của một quốc gia, vùng lãnh thổ cụ thể hoặc nhà thầu phải có kinh nghiệm cung cấp hàng hóa hoặc dịch vụ trong lãnh thổ của quốc gia, vùng lãnh thổ đó như là tiêu chí để loại bỏ nhà thầu.

Trường hợp chỉnh sửa các quy định nêu trong Mẫu hồ sơ mời thầu thì tổ chức, cá nhân thực hiện việc lập, thẩm định, phê duyệt hồ sơ mời thầu phải bảo đảm việc chỉnh sửa đó là phù hợp, chặt chẽ hơn so với quy định nêu trong Mẫu hồ sơ mời thầu và không trái với quy định của Hiệp định CPTPP, Hiệp định EVFTA và Hiệp định UKVFTA. Trong tờ trình đề nghị phê duyệt hồ sơ mời thầu phải nêu rõ các nội dung chỉnh sửa so với quy định trong Mẫu hồ sơ mời thầu và lý do chỉnh sửa để chủ đầu tư xem xét, quyết định.

Về giấy phép bán hàng, trường hợp hàng hóa của gói thầu là hàng hóa thông thường, thông dụng, sẵn có trên thị trường, đã được tiêu chuẩn hóa và được bảo hành theo quy định của nhà sản xuất, hồ sơ mời thầu không được yêu cầu nhà thầu phải nộp giấy phép bán hàng của nhà sản xuất hoặc giấy chứng nhận quan hệ đối tác hoặc tài liệu khác có giá trị tương đương.

Về hàng hóa mẫu, hồ sơ mời thầu không được đưa ra yêu cầu về hàng mẫu. Trường hợp cần yêu cầu về hàng mẫu để đánh giá về kỹ thuật thì chủ đầu tư phải trình người có thẩm quyền xem xét, quyết định trong quá trình phê duyệt hồ sơ mời thầu. Trong tờ trình phải nêu rõ lý do yêu cầu về hàng mẫu và trình bày chi tiết tiêu chí đánh giá kỹ thuật của hàng mẫu. Chủ đầu tư, bên mời thầu phải bảo đảm việc yêu cầu cung cấp hàng mẫu không làm tăng chi phí của gói thầu, hạn chế sự tham gia của nhà thầu hoặc nhằm tạo lợi thế cho một hoặc một số nhà thầu gây ra sự cạnh tranh không bình đẳng. Trường hợp hồ sơ mời thầu có yêu cầu cung cấp hàng mẫu, nhà thầu có thể nộp bổ sung hàng mẫu trong vòng 5 ngày làm việc sau thời điểm đóng thầu.

Về yêu cầu về nhân sự chủ chốt, đối với phần công việc cung cấp hàng hóa, hồ sơ mời thầu không được đưa ra yêu cầu về huy động nhân sự chủ chốt; đối với hàng hóa thông dụng, sẵn có trên thị trường, không đòi hỏi nhân sự thực hiện dịch vụ liên quan phải có trình độ cao thì không yêu cầu về nhân sự chủ chốt.

Về hợp đồng, loại hợp đồng áp dụng chủ yếu cho gói thầu mua sắm hàng hóa là hợp đồng trọn gói. Trường hợp hàng hóa có tính đặc thù, phức tạp, quy mô lớn và có khả năng cao sẽ biến động giá thì có thể áp dụng loại hợp đồng theo đơn giá điều chỉnh.

Hợp đồng ký kết giữa chủ đầu tư với nhà thầu phải lấy theo Mẫu hợp đồng, các điều kiện hợp đồng quy định trong hồ sơ mời thầu và các hiệu chỉnh, bổ sung do nhà thầu đề xuất được chủ đầu tư chấp thuận trong quá trình thương thảo, hoàn thiện hợp đồng nhưng bảo đảm không trái với quy định của pháp luật về đấu thầu, quy định của Hiệp định CPTPP, Hiệp định EVFTA, Hiệp định UKVFTA và quy định khác của pháp luật có liên quan.

Thông tư có hiệu lực thi hành kể từ ngày 25/8/2022.

DUY ANH

Đề xuất quy định cụ thể hơn về việc kê khai giá

6. Đề xuất sửa đổi nhóm chính sách liên quan đến hiệp thương giá

(LSVN) - Đây là một trong những đề xuất đáng chú ý tại dự thảo Luật Giá (sửa đổi). Theo đó, Bộ Tài chính đề xuất sửa đổi nhóm chính sách liên quan đến hiệp thương giá nhằm mục tiêu hài hòa lợi ích, đảm bảo giao dịch được diễn ra minh bạch, phù hợp với quy luật kinh tế thị trường.

Ảnh minh họa.

Dự thảo đề xuất điều chỉnh các quy định hiện hành về phạm vi áp dụng hiệp thương giá chỉ thực hiện giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp với vai trò trọng tài của Nhà nước. Trên cơ sở đó, quy định rõ hơn tính pháp lý của kết quả hiệp thương và trách nhiệm của các đơn vị trong tổ chức thực hiện.

Dự thảo Luật đã quy định rõ hơn về phạm vi, nguyên tắc hiệp thương giá. Cụ thể, hiệp thương giá là phương thức thỏa thuận giữa các doanh nghiệp về giá mua, bán hàng hóa, dịch vụ và được cơ quan nhà nước có thẩm quyền làm trung gian hỗ trợ các bên thỏa thuận. Việc hiệp thương chỉ thực hiện giữa các đối tượng là doanh nghiệp trong việc mua, bán hàng hóa, dịch vụ đáp ứng điều kiện hiệp thương giá; các doanh nghiệp đề nghị hiệp thương trên cơ sở tự nguyện và bình đẳng về quyền và nghĩa vụ và khi 2 bên đều phải có văn bản đề nghị hiệp thương.

Như vậy, các trường hợp thực hiện hiệp thương giữa một bên là Nhà nước với một bên là doanh nghiệp sẽ được loại bỏ và thực hiện theo quy định của pháp luật về đấu thầu, đấu giá.

Đồng thời, việc tổ chức hiệp thương cũng được điều chỉnh, quy định rõ ràng hơn. Theo đó, khi nhận được văn bản đề nghị hiệp thương giá của cả bên mua, bên bán hàng hóa, dịch vụ; cơ quan hiệp thương rà soát đánh giá để làm rõ hàng hóa, dịch vụ đề nghị hiệp thương. Trường hợp cần thiết yêu cầu các bên có văn bản bổ sung các thông tin về hàng hóa dịch vụ.

Cơ quan hiệp thương tổ chức hội nghị hiệp thương để bên mua và bên bán thương lượng với nhau về mức giá trên cơ sở hợp tác, hài hòa lợi ích giữa các bên. Cơ quan hiệp thương có vai trò trung gian, không được can thiệp vào mức giá thương lượng giữa các bên.

Khi bên mua và bên bán thỏa thuận được với nhau về mức giá thì hội nghị hiệp thương kết thúc. Mức giá hiệp thương chỉ được áp dụng cho đúng vụ việc mua, bán và khối lượng hàng hóa, dịch vụ đã được các bên thống nhất tại văn bản đề nghị hiệp thương; mức giá hiệp thương không có giá trị để áp dụng cho các trường hợp khác. Các bên chịu trách nhiệm về mức giá hiệp thương, việc tổ chức thực hiện mức giá hiệp thương.

Trong trường hợp bên mua và bên bán không thương lượng thỏa thuận được mức giá thì cơ quan hiệp thương lập biên bản để ghi nhận nội dung hội nghị và tiến hành ban hành Quyết định mức giá hiệp thương để 2 bên thực hiện. Việc ban hành Quyết định giá hiệp thương được thực hiện tương tự như việc ban hành Quyết định giá hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá. Các đơn vị có trách nhiệm cung cấp đầy đủ hồ sơ, tài liệu để cơ quan hiệp thương thực hiện định giá theo quy định. Quyết định giá hiệp thương chỉ được áp dụng cho đúng đối tượng đề nghị hiệp thương và không có giá trị để áp dụng cho các trường hợp khác.

Theo Bộ Tài chính, việc quy định như trên thể hiện rõ tính chất của biện pháp hiệp thương giá hướng đến đề cao việc thỏa thuận giữa các bên trong đó có vai trò trung gian của cơ quan tổ chức nhằm hướng đến mục tiêu hài hòa lợi ích, đảm bảo giao dịch được diễn ra minh bạch, phù hợp với quy luật kinh tế thị trường. Mặt khác, cũng quy định rõ phạm vi áp dụng giá hiệp thương nhằm tránh các trường hợp lợi dụng mức giá hiệp thương để sử dụng cho các mục đích khác, không đúng với yêu cầu hiệp thương và vụ việc mua bán.

PHƯƠNG NGUYỄN

Đề xuất quy định cụ thể hơn về việc kê khai giá

sáng

7. Bộ Công an khuyến cáo học sinh, sinh viên cảnh giác trước nạn mua bán người

(LSVN) - Trước tình trạng hằng năm có hàng nghìn nạn nhân là học sinh, sinh viên bị lừa bán ra nước ngoài, Bộ Công an đã đưa ra các kỹ năng để học sinh, sinh viên không trở thành nạn nhân của những đối tượng mua bán người.

Ảnh minh họa.

Theo đó, để không trở thành nạn nhân của tội phạm mua bán người, trước hết bản thân cần nêu cao tinh thần cảnh giác, tự bảo vệ mình và người thân. Đây là yếu tố cần thiết trong công tác phòng ngừa, tránh tạo môi trường thuận lợi để bọn tội phạm hoạt động. Luôn cảnh giác, đề phòng người lạ hoặc cả người thân đi làm ăn xa trở về hứa hẹn tìm việc hoặc rủ hợp tác làm ăn. Cảnh giác với những lời hứa hẹn, dụ dỗ tìm việc làm có thu nhập cao trong các nhà máy, cửa hàng, quán bar, giúp việc trong nước, nước ngoài hoặc lấy chồng nước ngoài giàu có.

Từ chối mọi sự giúp đỡ về tiền bạc, lợi ích vật chất của người khác, nhất là từ người lạ mới quen biết. Tìm hiểu thật kỹ về địa danh, địa điểm mà mình định đến và đặc điểm, nhân thân của những người bạn đi cùng mình như thế nào. Trước khi đi hãy tham khảo ý kiến mọi người và thông báo, nhắn gửi cho gia đình, người thân biết bạn sẽ đi đâu, đi với ai trước khi quyết định đi xa.

Thường xuyên tìm hiểu để nâng cao trình độ văn hoá, pháp luật, kỹ năng tự bảo vệ, có thể đảm bảo an toàn cho bản thân và giúp cho người thân khỏi bị mua bán.

Quan trọng luôn nhớ địa chỉ và số điện thoại tin cậy, có thể là của chính quyền, cơ quan, tổ chức, người thân,… để có thể liên hệ giúp đỡ khi cần thiết. Đồng thời, tuyên truyền cho những người thân trong gia đình, bạn bè biết và cảnh giác với tội phạm mua bán người. 

Ngoài ra, các cơ quan, tổ chức cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, tập trung vào nhóm có nguy cơ cao trở thành nạn nhân để có các biện pháp và hình thức tuyên truyền phù hợp với đặc điểm của từng nhóm đối tượng, nội dung tập trung tuyên truyền chính sách pháp luật về phòng, chống mua bán người, phương thức thủ đoạn của tội phạm, kỹ năng phòng ngừa phát hiện… để nâng cao nhận thức, chủ động phòng tránh để không trở nạn nhân của tội phạm mua bán người.

Về trách nhiệm của gia đình và nhà trường trong công tác đấu tranh, phòng ngừa mua bán người, theo Bộ Công an Luật Phòng, chống mua bán người đã quy định trách nhiệm của cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức trong đấu tranh phòng, chống mua bán người. Theo đó, trách nhiệm của gia đình được quy định tại Điều 13, gồm:

- Cung cấp thông tin cho thành viên trong gia đình về thủ đoạn mua bán người và các biện pháp phòng, chống mua bán người;

- Phối hợp với nhà trường, cơ quan, tổ chức và các đoàn thể xã hội trong phòng, chống mua bán người;

- Chăm sóc, giúp đỡ nạn nhân là thành viên của gia đình để họ hoà nhập cuộc sống gia đình và cộng đồng;

- Động viên nạn nhân là thành viên của gia đình hợp tác với cơ quan có thẩm quyền trong phòng, chống mua bán người.

Trách nhiệm của nhà trường và các cơ sở giáo dục, đào tạo tham gia phòng, chống mua bán người được quy định tại Điều 14 như sau:

- Quản lý chặt chẽ việc học tập và các hoạt động khác của học sinh, sinh viên, học viên

- Tổ chức tuyên truyền, giáo dục ngoại khoá về phòng, chống mua bán người phù hợp với từng cấp học, ngành học;

- Tạo điều kiện thuận lợi để học sinh, sinh viên, học viên là nạn nhân học văn hoá, học nghề, hoà nhập cộng đồng;

- Phối hợp với gia đình, cơ quan, tổ chức thực hiện các biện pháp phòng, chống mua bán người.

PV

Xử lý nghiêm vi phạm trên thị trường trái phiếu, chứng khoán, tiền tệ

8. Nếu chỉ thu hồi tài sản, kỷ luật và bỏ qua thì tình hình tham nhũng sẽ càng phức tạp

(LSVN) - Đấu tranh phòng chống tham nhũng là nhiệm vụ lâu dài, cam go, phức tạp của đảng và nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay. Việc nghiên cứu các giải pháp phòng chống tham nhũng trên cơ sở học tập kinh nghiệm quốc tế, tổng kết thực tiễn, đánh giá tình hình kinh tế xã hội trong từng giai đoạn để đưa ra những giải pháp phù hợp với từng giai đoạn, hoàn thiện hệ thống chính sách pháp luật nói chung và chính sách pháp luật về phòng chống tham nhũng nói riêng là rất cần thiết.

Ảnh minh họa.

Viện trưởng VKSND Tối cao: Ưu tiên thu hồi tài sản, giảm xử lý hình sự

Vừa qua, phát biểu tại hội nghị tổng kết 10 năm phòng chống tham nhũng, Viện trưởng VKSND Tối cao Lê Minh Trí cho rằng chống tham nhũng là nhiệm vụ phức tạp, cần lắng nghe ý kiến nhiều chiều để bổ sung quan điểm, cách làm mới đạt hiệu quả tốt. Một trong những nhiệm vụ cần đặc biệt quan tâm là thu hồi tài sản nhà nước bị tham nhũng, chiếm đoạt, thất thoát; tăng tính phòng ngừa và giảm xử lý hình sự với người vi phạm.

Kinh nghiệm của Trung Quốc là khi phát hiện vi phạm của cơ quan hành chính, VKSND sẽ kiến nghị khắc phục. Nếu cơ quan nào không khắc phục thì VKSND khởi kiện ra tòa để yêu cầu tòa phán quyết. Ông Trí cho rằng Việt Nam cũng nên tăng phòng ngừa, giảm xử lý hình sự, tạo điều kiện cho người sai phạm khắc phục hậu quả. Cách làm này sẽ thu hồi được phần lớn tài sản thất thoát do người vi phạm chủ động khắc phục để không bị xử lý. 

Theo ông Trí, hoạt động nghiệp vụ của các cơ quan tố tụng, đi đôi với yêu cầu tiến công tội phạm, phải đảm bảo nguyên tắc suy đoán vô tội, không hình sự hóa quan hệ dân sự, kinh tế. Những vấn đề phức tạp phải tìm hiểu sâu lĩnh vực chuyên môn, lắng nghe giải trình, đảm bảo tính khách quan, toàn diện.

Trao đổi với Tạp chí Luật sư Việt Nam về quan điểm pháp lý liên quan đến vấn đề này, Tiến sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường, Trưởng Văn phòng Luật sư Chính pháp chia sẻ: "Tôi hoàn toàn nhất trí với quan điểm của Viện trưởng VKSND Tối cao về việc cần tăng cường các giải pháp phòng ngừa tội phạm về tham nhũng và tích cực thu hồi tài sản. Chính sách pháp luật của Việt Nam hiện nay đối với tội phạm về tham nhũng là xử lý nghiêm minh và chú trọng việc thu hồi tài sản. Thời gian qua chúng ta đã làm rất tốt chủ trương xử lý nghiêm minh, kịp thời phát hiện vi phạm và công tác thu hồi tài sản từng bước đạt hiệu quả. Vì vậy, thời gian tới đây tiếp tục duy trì chính sách kịp thời phát hiện, xử lý nghiêm minh, tăng cường công tác thu hồi tài sản và thực hiện các giải pháp phòng ngừa tội phạm. Nếu chị thu hồi tài sản và "hành chính hóa", "dân sự hóa" hành vi tham nhũng thì sẽ không đảm bảo hiệu quả mà cần phải tiếp tục phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh với mọi hành vi tham nhũng dù là tham nhũng vặt hay tham nhũng lớn".

Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, có nhiều hành vi được xác định là hành vi tham nhũng như: Tham ô tài sản; nhận hối lộ; lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản; lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi; lạm quyền trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi; lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi; giả mạo trong công tác vì vụ lợi; đưa hối lộ, môi giới hối lộ để giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc địa phương vì vụ lợi; lợi dụng chức vụ, quyền hạn sử dụng trái phép tài sản công vì vụ lợi; nhũng nhiễu vì vụ lợi; Không thực hiện, thực hiện không đúng hoặc không đầy đủ nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi; lợi dụng chức vụ, quyền hạn để bao che cho người có hành vi vi phạm pháp luật vì vụ lợi; cản trở, can thiệp trái pháp luật vào việc giám sát, kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án vì vụ lợi.

Về mặt lý luận, tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, được quy định trong Bộ luật Hình sự do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý xâm phạm đến khách thể mà pháp luật hình sự bảo vệ. Hành vi cấu thành tội phạm kể từ thời điểm thực hiện các hành vi theo điều luật mô tả. Phần lớn các hành vi tham nhũng ở Việt Nam được xác định là tội phạm và được quy định trong Bộ luật Hình sự. Người thực hiện hành vi tham nhũng phải chịu trách nhiệm trước pháp luật phải bị áp dụng chế tài hình sự, trong đó có nhiều tội danh quy định mức hình phạt cao nhất là tử hình.

"Pháp luật cũng quy định rõ không xét xử oan sai, không bỏ lọt tội phạm. Không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội là hành vi xâm phạm hoạt động tư pháp. Kết án oan người vô tội cũng là hành vi vi phạm pháp luật. Do vậy việc xử lý tội phạm hay không xử lý tội phạm không thể tùy tiện mà phải căn cứ vào quy định pháp luật. Khi hành vi tham nhũng đã thỏa mãn các dấu hiệu cấu thành tội phạm thì phải xử lý. Nếu không đề cao nhiệm vụ phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh mà chỉ chú trọng đến việc thu hồi tài sản thì có thể còn làm tăng nguy cơ tham nhũng. Nếu những người có chức vụ quyền hạn tham nhũng mà bị phát hiện, chỉ phải nộp lại tài sản mà không bị xử lý hình sự thì họ sẽ không sợ, sẽ càng cũng cố quyết tâm thực hiện hành vi tham nhũng đến cùng", Luật sư Cường bày tỏ quan điểm.

Theo quy định của pháp luật thì hành vi chiếm đoạt tài sản của nhà nước thỏa mãn dấu hiệu cấu thành một trong các tội danh trong nhóm tội về tham nhũng thì người vi phạm phải chịu trách nhiệm hình sự, việc bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả chỉ là tình tiết giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự. Khuyến khích người phạm tội bồi thường khắc phục để được hưởng khoan hồng là việc cần làm và phải có những giải pháp để đảm bảo hiệu quả. Để phòng chống tham nhũng hiệu quả thì phải hướng đến những mục tiêu làm sao cho người có chức vụ quyền hạn không cần tham nhũng, không muốn tham nhũng, không thể tham nhũng và không dám tham nhũng.

Theo Luật sư Cường, việc học tập kinh nghiệm phòng chống tham nhũng ở các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là các nước trong khu vực châu Á và Đông Nam Á là rất quan trọng và cần thiết. Tuy nhiên, vẫn phải trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam, trong đó có nguyên tắc là mọi hành vi vi phạm pháp luật đều phải chịu trách nhiệm pháp lý. Người có chức vụ quyền hạn thực hiện hành vi vi phạm pháp luật đến mức phải xử lý hình sự thì phải xử lý hình sự chứ không thể thỏa thuận với họ về việc nộp tài sản thì sẽ miễn truy cứu trách nhiệm hình sự.

Việc học hỏi kinh nghiệm quốc tế trong việc mở rộng các vụ kiện hành chính, gắn trách nhiệm với cơ quan nhà nước trong việc quản lý tài sản công là cần thiết. Tuy nhiên nếu để thất thoát tài sản công, tham ô tài sản, thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng, vi phạm quy định về quản lý sử dụng tài sản nhà nước gây thất thoát lãng phí mà thỏa mãn các dấu hiệu cấu thành tội phạm thì phải xử lý đối với các cá nhân sai phạm. Còn trách nhiệm tập thể, trách nhiệm về phần dân sự thì có thể giải quyết trong vụ án hình sự hoặc giải quyết trong quan hệ dân sự hành chính khác mà không loại trừ trách nhiệm hình sự với cá nhân.

"Trong đấu tranh "phòng - chống" tham nhũng thì "phòng" và "chống" là hai nhiệm vụ khác nhau, có mối liên quan, quan hệ biện chứng với nhau. Tuy nhiên, đề cao các giải pháp phòng tham nhũng là đúng hướng và tích cực, phù hợp với xu hướng phát triển văn minh của xã hội. Phòng tham nhũng không có nghĩa là không chống hoặc chống tham nhũng một cách hời hợt. Cần phải kết hợp hài hòa giữa phòng và chống, hoạt động phòng tham nhũng không thể thay thế cho hoạt động chống tham nhũng. Với hành vi tham nhũng đã thỏa mãn các dấu hiệu cấu thành tội phạm thì phải chống, phải xử lý chứ không thể áp dụng các giải pháp phòng tham nhũng, "hành chính hóa" hay "dân sự hóa" để xử lý với các hành vi đã vi phạm", Luật sư Cường nói.

TIẾN HƯNG

Hướng dẫn sử dụng biên lai điện tử theo quy định mới

9. Thủ tướng chỉ đạo đẩy nhanh hỗ trợ tiền thuê nhà cho người lao động

(LSVN) - Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính yêu cầu Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính và các cơ quan, địa phương liên quan khẩn trương có giải pháp đẩy nhanh việc hỗ trợ tiền thuê nhà cho người lao động.

Ảnh minh họa.

Văn phòng Chính phủ vừa ban hành Văn bản số 4379/VPCP-KGVX ngày 13/7/2022 truyền đạt ý kiến của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính về thực hiện chính sách hỗ trợ tiền thuê nhà cho người lao động quy định tại Quyết định số 08/2022/QĐ-TTg ngày 28/3/2022 của Thủ tướng Chính phủ.

Cụ thể, việc thực hiện chính sách hỗ trợ tiền thuê nhà cho người lao động còn rất chậm. Thủ tướng Chính phủ yêu cầu Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính và các cơ quan, địa phương liên quan khẩn trương kiểm tra, xác định nguyên nhân, có giải pháp đẩy nhanh việc hỗ trợ tiền thuê nhà cho người lao động.

Trước đó, theo Quyết định số 08/2022/QĐ-TTg ngày 28/3/2022 của Thủ tướng Chính phủ quy định về việc thực hiện chính sách hỗ trợ tiền thuê nhà cho người lao động, hai đối tượng được nhận hỗ trợ là người lao động đang làm việc trong doanh nghiệp và người lao động quay trở lại thị trường lao động, với mức 500.000 đồng/người/tháng và 1.000.000 đồng/người/tháng.

PV

Hộ chiếu phổ thông mẫu cũ được cấp trước ngày 01/7/2022 có phải làm lại không?