CHIỀU
1. Danh mục các ngành, nghề đào tạo chuyên môn đặc thù đáp ứng yêu cầu quốc phòng, an ninh
(LSVN) - Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đang dự thảo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ ban hành Danh mục các ngành, nghề đào tạo chuyên môn đặc thù đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh.
Ảnh minh họa.
Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội cho biết, trong bối cảnh thực hiện đổi mới giáo dục nghề nghiệp, một trong những nhiệm vụ quan trọng đó là tăng cường tính tự chủ của các cơ sở giáo dục nghề nghiệp, nhà nước chỉ có thể có các chính sách, đầu tư kinh phí đối với một số ngành, nghề đào tạo đặc thù chứ không thể bao cấp toàn bộ các ngành, nghề đào tạo.
Theo điểm c Khoản 2 Điều 62 của Luật Giáo dục nghề nghiệp, người học được miễn học phí khi học các ngành, nghề khó tuyển sinh nhưng xã hội có nhu cầu; các ngành, nghề chuyên môn đặc thù đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh theo quy định của Chính phủ.
Theo Khoản 19 Điều 15 của Nghị định số 81/2021/NĐ-CP ngày 27/8/2021 của Chính phủ quy định về cơ chế thu, quản lý học phí đối với cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân và chính sách miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập; giá dịch vụ trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo, đối tượng được miễn học phí là "Người học các ngành, nghề chuyên môn đặc thù đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh theo quy định của Luật Giáo dục nghề nghiệp. Các ngành, nghề chuyên môn đặc thù do Thủ tướng Chính phủ quy định."
Theo Điều 10 của Nghị định số 113/2015/NĐ-CP ngày 9/11/2015 của Chính phủ quy định phụ cấp đặc thù, phụ cấp ưu đãi, phụ cấp trách nhiệm công việc và phụ cấp nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm đối với nhà giáo trong các cơ sở giáo dục nghề nghiệp công lập, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quy định danh mục ngành, nghề nặng nhọc, độc hại. Danh mục này cũng nằm trong nhóm các ngành, nghề đặc thù.
Các Nghị định này đều đề cập tới các yêu cầu, điều kiện hỗ trợ chính sách của nhà nước đối với đầu tư, người học và nhà giáo trong giáo dục nghề nghiệp có liên quan tới danh mục ngành, nghề đào tạo chuyên môn đặc thù đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng an ninh. Tuy nhiên, hiện nay danh mục này chưa được ban hành. Vì vậy, để nhà nước có thể đầu tư trọng tâm, trọng điểm và có những cơ chế, chính sách phù hợp để thu hút, khuyến khích việc học tập, giảng dạy thì cần phải xác định được danh mục các ngành, nghề đào tạo chuyên môn đặc thù.
Việc ban hành Danh mục ngành, nghề đặc thù sẽ khuyến khích người học tăng cường vào học các ngành, nghề có tính đặc biệt, riêng biệt, có tính phức tạp cao, đòi hỏi chuyên môn sâu ở lĩnh vực ngành, nghề; có tính chất quan trọng, trọng điểm, phục vụ sự phát triển kinh tế - xã hội; ngành nghề nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm ảnh hưởng tới sức khỏe thể chất, tinh thần của người học; ngành nghề xã hội có nhu cầu hoặc cần bảo tồn nhưng khó tuyển sinh; ngành, nghề đòi hỏi đào tạo chuyên sâu trong thời gian dài, người học phải có năng khiếu hoặc năng lực chuyên biệt… Các doanh nghiệp sử dụng lao động qua đào tạo những ngành, nghề này sẽ góp phần tăng thu nhập của người lao động, ổn định cuộc sống.
Tại dự thảo, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đã đề xuất Danh mục các ngành, nghề đào tạo chuyên môn đặc thù, bao gồm:
- Mã số (thống nhất với Danh mục ngành, nghề đào tạo cấp IV trình độ trung cấp, trình độ cao đẳng ban hành kèm theo Thông tư số 26/2020/TT-BLĐTBXH ngày 30/12/2020 của Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội).
- Tên gọi ở trình độ trung cấp (thống nhất với Danh mục ngành, nghề đào tạo cấp IV trình độ trung cấp, trình độ cao đẳng ban hành kèm theo Thông tư số 26/2020/TT-BLĐTBXH ngày 30/12/2020 của Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội), bao gồm 454 ngành, nghề.
- Tên gọi ở trình độ cao đẳng (thống nhất với Danh mục ngành, nghề đào tạo cấp IV trình độ trung cấp, trình độ cao đẳng ban hành kèm theo Thông tư số 26/2020/TT-BLĐTBXH ngày 30/12/2020 của Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội), bao gồm 257 ngành, nghề.
PV
Những lưu ý thí sinh cần chuẩn bị trước ngày thi tốt nghiệp THPT 2022
2. Sửa đổi, bổ sung nhiều quy định quản lý hàng gia công, sản xuất xuất khẩu
(LSVN) - Đây là một trong những nội dung được đề xuất sửa đổi, bổ sung tại dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định số 08/2015/NĐ-CP.
Ảnh minh họa.
Cụ thể, về việc khai sửa đổi, bổ sung các thông tin về cơ sở sản xuất, tại Điều 37 Nghị định 08/2015/NĐ-CP quy định, khi có sự thay đổi về nội dung đã thông báo cơ sở sản xuất với cơ quan Hải quan thì tổ chức, cá nhân có trách nhiệm thông báo cho cơ quan Hải quan trước khi thực hiện.
Trên thực tế các doanh nghiệp, đặc biệt các doanh nghiệp lớn các nội dung về máy móc, lao động thường xuyên có sự thay đổi, vì vậy phát sinh bất cập phải thực hiện thường xuyên, liên tục thủ tục thông báo sửa đổi, bổ sung thông báo cơ sở sản xuất.
Do đó, để tháo gỡ vướng mắc, tại dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung quy định về thời gian khai sửa đổi, bổ sung về thông tin cơ sở sản xuất là chậm nhất vào ngày thứ mười tháng đầu tiên của quý kế tiếp kể từ ngày phát sinh thay đổi, tổ chức cá nhân có trách nhiệm thông báo cho cơ quan Hải quan. Riêng thay đổi về thông tin địa điểm sản xuất, nơi lưu giữ phải báo cáo cơ quan Hải quan trước khi thực hiện.
Đồng thời, bổ sung quy định cụ thể về các chứng từ tổ chức, cá nhân phải nộp cho cơ quan Hải quan khi thông báo cơ sở sản xuất để đồng bộ quy định với Điều 12 Nghị định số 134/2016/NĐ-CP được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 18/2021/NĐ-CP ngày 11/03/2021.
Bên cạnh đó, tại dự thảo Nghị định cũng sửa đổi, bổ sung quy định về thời gian thực hiện kiểm tra cơ sở sản xuất là chậm nhất sau 5 ngày làm việc kể từ ngày tổ chức, cá nhân nhận được quyết định kiểm tra thì cơ quan Hải quan phải thực hiện hoạt động kiểm tra cơ sở sản xuất và bổ sung thẩm quyền, nội dung kiểm tra cơ sở sản xuất.
Ngoài ra, dự thảo Nghị định cũng sửa đổi, bổ sung Điều 47 về thời hạn để sửa chữa, tái chế hàng tái nhập là 12 tháng và trường hợp đặc thù thì được quá 12 tháng; đồng thời quy định rõ chính sách thuế áp dụng đối với hàng hóa xuất khẩu phải tái nhập thực hiện theo quy định của pháp luật về thuế và chính sách thuế đối với sản phẩm tái chế không tái xuất được.
DUY ANH
Nếu chỉ thu hồi tài sản và kỷ luật thì tình hình tham nhũng sẽ càng phức tạp
3. Cần xem xét bổ sung quy định về việc vi phạm thời hạn giải quyết khiếu nại
(LSVN) - Người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại nếu để quá thời hạn giải quyết thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường hoặc bồi hoàn theo quy định của pháp luật.
Theo quy định Điều 28 Luật Khiếu nại năm 2011 quy định: “Thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu không quá 30 ngày, kể từ ngày thụ lý; đối với vụ việc phức tạp thì thời hạn giải quyết có thể kéo dài hơn nhưng không quá 45 ngày, kể từ ngày thụ lý. Ở vùng sâu, vùng xa đi lại khó khăn thì thời hạn giải quyết khiếu nại không quá 45 ngày, kể từ ngày thụ lý; đối với vụ việc phức tạp thì thời hạn giải quyết có thể kéo dài hơn nhưng không quá 60 ngày, kể từ ngày thụ lý”.
Điều 37 Luật Khiếu nại năm 2011 quy định: "Thời hạn giải quyết khiếu nại lần hai không quá 45 ngày, kể từ ngày thụ lý; đối với vụ việc phức tạp thì thời hạn giải quyết khiếu nại có thể kéo dài hơn nhưng không quá 60 ngày, kể từ ngày thụ lý. Ở vùng sâu, vùng xa đi lại khó khăn thì thời hạn giải quyết khiếu nại không quá 60 ngày, kể từ ngày thụ lý; đối với vụ việc phức tạp thì thời hạn giải quyết khiếu nại có thể kéo dài hơn, nhưng không quá 70 ngày, kể từ ngày thụ lý".
Pháp luật đặt ra thời hạn giải quyết khiếu nại với mục đích là để người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại xem xét, giải quyết trong thời hạn cho phép. Nếu quá thời hạn giải quyết thì người có thẩm quyền không được tiếp tục giải quyết khiếu nại hoặc không được phép ban hành quyết định giải quyết khiếu nại. Đồng thời, trong trường hợp này, người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại phải đình chỉ ngay việc giải quyết khiếu nại. Người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại phải có trách nhiệm tuân thủ thời hạn giải quyết khiếu nại một cách tuyệt đối, chặt chẽ và không được "phá vỡ" quy định.
Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn tình trạng người giải quyết khiếu nại vi phạm thời hạn giải quyết. Trong quá trình thụ lý, giải quyết khiếu nại, người có thẩm quyền phải ban hành quyết định gia hạn nhiều lần nhưng việc gia hạn vượt quá thời hạn giải quyết với nhiều lý do như: vụ việc phức tạp; liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành; cần phải xác minh, làm rõ các tình tiết vụ việc hoặc được người khiếu nại đồng ý;… Việc này sẽ vi phạm nguyên tắc giải quyết khiếu nại, đó là việc giải quyết khiếu nại phải bảo đảm chính xác, khách quan, công khai, dân chủ, kịp thời và đúng trình tự, thủ tục, thời hạn theo quy định của pháp luật.
Nếu người có thẩm quyền vi phạm thời hạn giải quyết khiếu nại thì pháp luật đặt ra thời hạn giải quyết để làm gì nếu nó không được tuân thủ một cách nghiêm túc.
Nếu vi phạm thời hạn giải quyết khiếu nại theo quy định tại Điều 28 và Điều 37 nêu trên thì quyết định giải quyết khiếu nại phải bị hủy bỏ. Người có thẩm quyền giải quyết lần hai hoặc Tòa án thụ lý vụ án hành chính khởi kiện quyết định giải quyết khiếu nại nếu thấy vi phạm thời hạn giải quyết thì phải hủy bỏ ngay quyết định giải quyết khiếu nại mà không cần thiết phải xem xét tới nội dung khiếu nại; đồng thời, phải khôi phục ngay quyền và lợi ích hợp pháp của người khiếu nại.
Từ những phân tích nêu trên, cho thấy cần thiết phải xem xét bổ sung Luật Khiếu nại năm 2011 với điều khoản quy định về xử lý trường hợp vi phạm thời hạn giải quyết khiếu nại, cụ thể: Quá thời hạn giải quyết khiếu nại (lần đầu hoặc lần hai), người có thẩm quyền đang thụ lý, giải quyết khiếu nại không được tiếp tục giải quyết hoặc không được ban hành quyết định giải quyết khiếu nại và phải thông báo ngay cho người khiếu nại được biết để thực hiện quyền khiếu nại lần hai (nếu vụ việc đang được thụ lý, giải quyết lần đầu) hoặc thực hiện quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật Tố tụng hành chính.
Người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại nếu để quá thời hạn giải quyết thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường hoặc bồi hoàn theo quy định của pháp luật.
Việc quy định như vậy sẽ khắc phục tình trạng người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tùy tiện trong việc vi phạm thời hạn giải quyết như hiện nay.
MINH ĐỨC
4. Thêm trường hợp chưa kỷ luật, không hoặc miễn kỷ luật đảng viên
(LSVN) - Vừa qua, ông Võ Văn Thưởng, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư đã thay mặt Bộ Chính trị ký ban hành Quy định số 69-QÐ/TW về kỷ luật tổ chức đảng, đảng viên vi phạm. Trong đó, quy định rõ những trường hợp đảng viên được chưa kỷ luật, không hoặc miễn kỷ luật.
Ảnh minh họa.
Cụ thể, tại khoản 14 Điều 2 Quy định số 69-QÐ/TW nêu rõ các trường hợp chưa kỷ luật, không hoặc miễn kỷ luật:
- Đảng viên là nữ giới đang trong thời gian mang thai, nghỉ thai sản, đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi hoặc đảng viên là nam giới (trường hợp vợ chết hoặc vì lý do khách quan, bất khả kháng khác) đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi thì chưa xem xét kỷ luật.
- Đảng viên bị bệnh nặng đang điều trị nội trú tại bệnh viện thì chưa xem xét kỷ luật, khi sức khỏe ổn định (được ra viện) mới xem xét kỷ luật.
- Đảng viên vi phạm đã qua đời thì tổ chức đảng xem xét, kết luận nhưng không quyết định kỷ luật, trừ trường hợp có vi phạm đặc biệt nghiêm trọng.
- Đảng viên bị tuyên bố mất tích nếu phát hiện vi phạm vẫn phải xem xét, kết luận nhưng chưa xử lý kỷ luật, khi phát hiện đảng viên đó còn sống thì thi hành kỷ luật theo quy định.
- Đảng viên thực hiện đề xuất về đổi mới, sáng tạo theo Kết luận số 14-KL/TW, ngày 22/9/2021 của Bộ Chính trị, được cơ quan có thẩm quyền cho phép nhưng xảy ra thiệt hại thì cơ quan có thẩm quyền xác định rõ nguyên nhân khách quan, chủ quan, đánh giá khách quan, toàn diện; nếu đã thực hiện đúng chủ trương, có động cơ trong sáng, vì lợi ích chung thì miễn kỷ luật hoặc giảm nhẹ trách nhiệm.
- Vi phạm do chấp hành chủ trương, quyết định, mệnh lệnh sai trái của tổ chức, cấp trên hoặc do bị ép buộc nhưng đã chủ động, kịp thời báo cáo bằng văn bản với tổ chức, cơ quan có thẩm quyền biết ý kiến, đề xuất của mình trước khi thực hiện thì miễn kỷ luật.
Điều 5 Quy định 102-QĐ/TW chỉ đặt ra hai khoản quy định gồm: Đảng viên vi phạm đang trong thời gian mang thai, nghỉ thai sản, đang mắc bệnh hiểm nghèo hoặc mất khả năng nhận thức, bị ốm nặng đang điều trị nội trú trong bệnh viện được cơ quan y tế có thẩm quyền theo quy định của pháp luật (từ cấp huyện trở lên) xác nhận thì chưa xem xét, xử lý kỷ luật. Không kỷ luật đối với đảng viên vi phạm đã qua đời trừ trường hợp người này vi phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Như vậy, so với quy định cũ, Quy định 69-QĐ/TW về kỷ luật Đảng đã bổ sung và nêu cụ thể các trường hợp được miễn hoặc hoãn kỷ luật, chưa thi hành kỷ luật đảng viên.
THẾ ĐẠT
Tiếp tục giảm thuế bảo vệ môi trường với xăng, dầu từ 11/7/2022
5. Những đối tượng nào không được quyền hưởng di sản?
(LSVN) - Theo quy định của pháp luật hiện hành, những đối tượng nào không được quyền hưởng di sản?
Ảnh minh họa.
Căn cứ khoản 1 Điều 621 Bộ luật Dân sự 2015 quy định rõ về những người sau đây không được quyền hưởng di sản:
- Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó;
- Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản;
- Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng;
- Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc, che giấu di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản.
Những người quy định trên vẫn được hưởng di sản, nếu người để lại di sản đã biết hành vi của những người đó, nhưng vẫn cho họ hưởng di sản theo di chúc.
HỒNG HẠNH
Căn cước công dân có thời hạn bao lâu?
6.
SÁNG
1. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về hoạt động chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu tại Việt Nam
(LSVN) - Theo quy luật chung, sự phát triển của các mối quan hệ xã hội luôn đi trước các quy định của pháp luật, do đó các quy định pháp luật luôn phải được cập nhật, bổ sung và đổi mới liên tục để bắt kịp những thay đổi của cuộc sống xã hội ngày càng hiện đại và phức tạp. Các quy định về chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu cũng không phải ngoại lệ. Đất nước càng hội nhập sâu rộng với thế giới thì hoạt động chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu tại Việt Nam ngày càng được quan tâm nhiều hơn.
Ảnh minh họa.
Trong thời gian gần đây, Việt Nam đã gia nhập nhiều các điều ước quốc tế, trong đó có Hiệp định CPTPP. Điều này càng thúc đẩy các quy định pháp luật của Việt Nam phải thay đổi để phù hợp với thông lệ quốc tế, kịp thời điều chỉnh những quan hệ mới phát sinh trong xã hội và sửa chữa những quy định còn chưa hợp lý gây cản trở cho hoạt động phát triển hoạt động chuyển giao quyền sử dụng nói riêng và quá trình phát triển kinh tế, xã hội đất nước nói chung. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật có thể tham khảo cụ thể như sau:
Thứ nhất, học hỏi theo kinh nghiệm lập pháp của Liên minh châu Âu, pháp luật không nên định sẵn một hợp đồng khuôn mẫu bắt buộc các bên khi tham đàm phán phải tuân thủ mà nên mang tính gợi mở, tạo điều kiện cho các bên thỏa thuận theo chiến lược của mình. Do đó, nên thay thế cụm từ “phải có” tại khoản 1 Điều 144 Luật Sở hữu trí tuệ. Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên, đây là nguyên tắc chung của pháp luật dân sự, trong khi đó cụng từ “phải có” khiến nội dung của hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu bị bó buộc phải áp dụng một cách máy móc và cứng nhắc.
Thứ hai, đối với các quy định cấm các điều khoản hạn chế trong hợp đồng chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu. Theo các quy định tại khoản 2 Điều 144 Luật Sở hữu trí tuệ hiện hành, chủ sở hữu không được đưa các điều khoản hạn chế bất hợp lý quyền của bên nhận chuyển quyền, đặc biệt là những điều khoản không xuất phát từ quyền của bên chuyển giao đối với nhãn hiệu. Mặc dù vậy, các quy định này vẫn còn một số điểm bất cập. Do đó tác giả xin có một số kiến nghị như sau:
- Mở rộng quyền bị điều chỉnh tại điểm b khoản 2 Điều 144 Luật Sở hữu trí tuệ, không chỉ giới hạn tại quyền xuất khẩu. Bởi quyền sử dụng nhãn hiệu không chỉ có quyền lưu thông hàng hóa, xuất khẩu mà còn có các quyền khác như nhập khẩu, lưu thông, quảng cáo sản phẩm mang đối tượng sở hữu công nghiệp nói chung và nhãn hiệu nói riêng. Việc không cấm bên chuyển quyền hạn chế các quyền khác đối với bên nhận chuyển quyền thể hiện sự không công bằng với bên được chuyển quyền, mặc dù quy định này được đặt ra để đảm bảo quyền lợi của bên được chuyển quyền đó. Do đó, pháp luật nên chỉnh sửa điểm này theo hướng cấm bên chuyển quyền trực tiếp hoặc gián tiếp hạn chế bên được chuyển quyền thực hiện các quyền sở hữu công nghiệp đối với hàng hóa, dịch vụ được sản xuất hoặc cung cấp theo hợp đồng sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp đó sang thị trường nước ngoài.
- Sửa điểm c Khoản 2 Điều 144 Luật Sở hữu trí tuệ theo hướng cấm bên chuyển quyền buộc bên nhận chuyển quyền phải mua toàn bộ hoặc một tỉ lệ nhất định các nguyên liệu, linh kiện, thiết bị của bên chuyển quyền hoặc của bên thứ ba do bên chuyển quyền chỉ định theo những điều kiện bất hợp lý. Những điều kiện bất hợp lý này sẽ được bên nhận chuyển quyền - bên trực tiếp chịu tác động của điều khoản này chứng minh trong trường hợp các bên xảy ra tranh chấp.
Thứ ba, về vấn đề giải quyết tranh chấp trong quan hệ hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu: Thực tiễn cho thấy, một vụ việc về quyền sở hữu công nghiệp thương liên quan tới rất nhiều vấn đề như hành chính, kinh tế, dân sự và còn có thể là hình sự, đòi hỏi cần phải giải quyết vụ việc trong một tổng thể. Ở nhiều nước như Hoa kỳ, Pháp, Đức, Nhật Bản, Thái Lan,… đều đã thành lập các tòa chuyên trách về sở hữu trí tuệ để giải quyết mọi vấn đề liên quan trong cùng một vụ việc và rất có hiệu quả. Lý do đó là gần như các thẩm phán hiện nay đều chưa được trang bị kịp thời và đầy đủ các kiến thức liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ chứ chưa tính đến việc kiến thức của họ chưa chuyên sâu. Mặc dù chúng ta còn có cơ chế trọng tài, thế nhưng trong nhiều trường hợp Tòa án vẫn là lựa chọn cần thiết để kết quả xét xử có thể công khai, đòi lại danh tiếng, cải chính những thông tin sai lệch trên thị trường. Do đó, trong thời gian tới, việc thành lập tòa chuyên trách về sở hữu trí tuệ ở nước ta là rất cần thiết.
Thứ tư, về quy định kiểm soát chất lượng hàng hóa, dịch vụ của bên chuyển quyền đối với bên nhận chuyển quyền. Như đã giới thiệu và phân tích ở trên, từ lâu pháp luật của Trung Quốc, Liên minh châu Âu hay Mỹ để đã có những quy định rất cụ thể về việc kiểm soát chất lượng hàng hóa, dịch vụ trong hoạt động chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu. Thế nhưng, hiện nay trong Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam chưa hề có quy định điều chỉnh vấn đề này. Để đảm bảo hàng hóa, dịch vụ khi chuyển quyền sử dụng vẫn đảm bảo được chất lượng như khi bên chuyển quyền cung cấp, theo người viết đòi hỏi pháp luật cần có những quy định rõ ràng về trách nhiệm của bên nhận chuyển quyền trong việc đảm bảo chất lượng hàng hóa, dịch vụ.
Bên cạnh đó, bên nhận chuyển quyền cũng phải có trách nhiệm tạo điều kiện thuận lợi cho bên chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu tiến hành kiểm tra, giám sát. Những quy định như vậy sẽ giúp thể hiện rõ quyền luôn đi kèm với nghĩa vụ đối với bên nhận chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu. Đồng thời, bên chuyển quyền cũng phòng tránh được các rủi ro khi bên nhận chuyển quyền lợi dụng uy tín của nhãn hiệu để bán những hàng hóa, cung cấp dịch vụ kém chất lượng từ đó gây thiệt hại cho người tiêu dùng cũng như gây thiệt hại cho chính chủ sở hữu nhãn hiệu đó.
NGÔ ANH DŨNG
Tòa án Quân sự khu vực Thủ đô Hà Nội
Nếu chỉ thu hồi tài sản và kỷ luật thì tình hình tham nhũng sẽ càng phức tạp
2. Các phần di sản nào được áp dụng chia thừa kế theo pháp luật
(LSVN) - Theo quy định hiện hành, các phần di sản nào được áp dụng chia thừa kế theo pháp luật?
Ảnh minh họa.
Thừa kế theo pháp luật là thừa kế theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật quy định.
Căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 650, thừa kế theo pháp luật cũng được áp dụng đối với các phần di sản sau đây:
- Phần di sản không được định đoạt trong di chúc;
- Phần di sản có liên quan đến phần của di chúc không có hiệu lực pháp luật;
- Phần di sản có liên quan đến người được thừa kế theo di chúc nhưng họ không có quyền hưởng di sản, từ chối nhận di sản, chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; liên quan đến cơ quan, tổ chức được hưởng di sản theo di chúc, nhưng không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.
Luật cũng quy định rõ những trường hợp thừa kế theo pháp luật. Theo đó, thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong trường hợp sau đây:
- Không có di chúc;
- Di chúc không hợp pháp;
- Những người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế;
- Những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc mà không có quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.
HỒNG HẠNH
Từ ngày 01/7/2022 sẽ chuyển đổi sang hệ thống đấu thầu mới
3. VKSND Cấp cao tại Đà Nẵng thông báo rút kinh nghiệm về kiểm sát giải quyết vụ án 'Tranh chấp hợp đồng tín dụng'
(LSVN) - Qua công tác kiểm sát việc giải quyết vụ án kinh doanh thương mại theo thủ tục giám đốc thẩm, VKSND Cấp cao tại Đà Nẵng nhận thấy việc giải quyết vụ án kinh doanh thương mại về: “Tranh chấp hợp đồng tín dụng" giữa nguyên đơn Ngân hàng TMCP A với bị đơn Công ty TNHH VT và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập bà Hà Thị Hải Y. tại Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 02/2020/KDTM-PT ngày 20/7/2020 của TAND tỉnh QB có vi phạm, cần thông báo rút kinh nghiệm.
Ảnh minh họa.
Nội dung vụ án
Ngày 13/5/2016, Ngân hàng TMCP A - Chi nhánh QB (viết tắt là Ngân hàng) đã ký kết với Công ty TNHH VT (viết tắt là Công ty) 03 Hợp đồng tín dụng và được giải ngân với tổng số tiền là 3.520.000.000 đồng. Các khoản vay này được đảm bảo bằng các biện pháp bảo đảm:
+ Hợp đồng thế chấp tài sản số QBLBĐDN.07.220415 được ký kết giữa ông Hà Công D., bà Phạm Thị Q. với Ngân hàng ngày 27/4/2015, thế chấp quyền sử dụng đất tại thửa đất số 19, tờ bản đồ số 52 tại phường ĐP, thành phố ĐH, tỉnh QB thuộc quyền sở hữu của ông Hà Công D. và bà Phạm Thị Q. theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số Y 347176 do UBND thị xã ĐH cấp ngày 04/12/2003.
+ Hợp đồng thế chấp tài sản số QBI.BDDN.03.050314 ngày 11/3/2014, thế chấp quyền sử dụng đất tại thửa đất số 15, tờ bản đồ số 15 tại phường HĐ, thành phố ĐH thuộc quyền sở hữu của ông Lê Quang C. và bà Trần Thị H. theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AC 186571 do UBND thành phố ĐH cấp ngày 09/8/2005.
+ Chứng thư bảo lãnh của ông Lê M. và bà Trần Thị G. bảo lãnh toàn bộ nghĩa vụ trả nợ của bên được cấp tín dụng với Ngân hàng.
Quá trình thực hiện các hợp đồng tín dụng, Công ty vi phạm nghĩa vụ cam kết trả nợ. Do đó, ngày 20/8/2018 Ngân hàng khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết:
1. Buộc Công ty thanh toán cho Ngân hàng tổng số dư nợ còn thiếu tính đến ngày 16/12/2019 là 4.849.554.305 đồng (gồm nợ gốc 3.520.000.000 đồng; nợ lãi trong hạn 918.102.657 đồng; lãi quá hạn 375.579.965 đồng; lãi chậm trả 35.871.683 đồng).
2. Nếu Công ty không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ thì cơ quan có thẩm quyền xử lý tài sản bảo đảm thế chấp để thu hồi nợ.
Quá trình giải quyết vụ án
Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 27/2019/KDTM-ST ngày 16/12/2019 của TAND thành phố ĐH, tỉnh QB quyết định: “1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng A...
4. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng, về yêu cầu xử lý tài sản thế chấp của ông D., bà Q. để thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho Công ty.
5. Chấp nhận yêu cầu của người có quyền lợi, nghĩa vụ có yêu cầu liên quan độc lập chị Hà Thị Hải Y., tuyên bố Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số QBLBĐDN.07.220415 ngày 27/4/2015 được ký kết giữa bên thế chấp ông Hà Công D., bà Phạm Thị Q.; bên nhận thế chấp Ngân hàng A đối với tài sản thế chấp là thửa đất số 19, tờ bản đồ số 52, diện tích 248.8m2, tại phường ĐP, thành phố ĐH, tỉnh QB theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số Y 347167 do UBND thị xã ĐH cấp ngày 04/12/2003 mang tên hộ ông Hà Công D., bà Phạm Thị Q. là vô hiệu.”.
Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 02/2020/KDTM-PT ngày 20/7/2020 của TAND tỉnh QB sửa Bản án sơ thẩm, tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng A, bác yêu cầu độc lập của bà Hà Thị Hải Y.
Sau khi xét xử phúc thẩm, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập là bà Hà Thị Hải Y. có đơn đề nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm, VKSND Cấp cao tại Đà Nẵng có Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm đối với Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm nêu trên đề nghị TAND cấp cao tại Đà Nẵng xét xử giám đốc thẩm vụ án theo hướng hủy Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm, giữ nguyên Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm.
Tại Quyết định giám đốc thẩm số 21/2021/KDTM-GĐT ngày 30/11/2021, Ủy ban Thẩm phán TAND Cấp cao tại Đà Nẵng quyết định hủy toàn bộ Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 02/2020/KDTM-PT ngày 20/7/2020 của TAND tỉnh QB, giữ nguyên Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 27/2019/KDTM-ST ngày 16/12/2019 của TAND thành phố ĐH, tỉnh QB.
Những vấn đề cần rút kinh nghiệm
Hợp đồng thế chấp số QBIBĐDN.07.220415 ký kết giữa ông Hà Công D., bà Phạm Thị Q. với Ngân hàng ngày 27/4/2015 thể hiện tại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số Y 347167 ngày 04/12/2003 đứng tên Hộ gia đình ông Hà Công D. và bà Phạm Thị Q., hồ sơ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất... đều thể hiện là cấp đất cho hộ gia đình ông Hà Công D., bà Phạm Thị Q. Tuy nhiên, khi ký kết Hợp đồng thế chấp chỉ có ông D. và bà Q. ký vào hợp đồng thế chấp, các thành viên trong hộ không ký, không có ủy quyền hoặc có văn bản đồng ý là trái quy định quy định tại khoản 1, 2 Điều 111; khoản 1, 2 Điều 146 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29 tháng 10 năm 2004 của Chính phủ và khoản 2 Điều 109, khoản 2 Điều 223, khoản 2 Điều 217 Bộ luật Dân sự năm 2005; khoản 29 Điều 3, Điều 179 Luật Đất đai năm 2013 và khoản 1 Điều 64 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ.
Mặt khác, tại thời điểm ký hợp đồng thế chấp ngày 27/4/2015, ông D. là người bị mù lòa nhưng chỉ có một người làm chứng là trái quy định của khoản 3 Điều 36 Nghị định số 23/2015/NĐ-CP ngày 16/02/2015 của Chính phủ.
Bên cạnh đó, theo Biên bản xem xét thẩm định của Tòa án cấp phúc thẩm ngày 28/4/2020, thể hiện tại thửa đất số 19, tờ bản đồ số 52 đem thế chấp có 02 ngôi nhà: 01 ngôi nhà của bà Q. và ông D.; 01 ngôi nhà của bố mẹ ông D. là cụ Hà Công T. (chết năm 1978) và cụ Nguyễn Thị L. (chết năm 1999) để lại và hiện tại ông Hà Công Đ. đang quản lý, sử dụng, nhưng hồ sơ thế chấp không có tài liệu, chứng cứ chứng minh ông Hà Công Đ. biết việc thế chấp tài sản này, không có giấy tờ chứng minh ông D. đã được thừa kế; Tòa án cấp phúc thẩm nhận định cho rằng: “Về mặt pháp lý thì nhà ở này thuộc quyền sở hữu hợp pháp của ông D. nhận thừa kế của bố mẹ” để hợp pháp hóa chủ quyền nhà đất thế chấp là chưa phù hợp với các chứng cứ có tại hồ sơ vụ án, không đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của ông Đ. và những người thừa kế của cụ Hà Công T., cụ Nguyễn Thị L.
Tòa án cấp sơ thẩm tuyên bố Hợp đồng thế chấp số QBI.BĐDN.07.220415 ngày 27/4/2015 bị vô hiệu là có căn cứ, Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận việc xử lý tài sản thế chấp thửa đất số 19, tờ bản đồ số 52 tọa lạc tại phường ĐP, thị xã ĐH, tỉnh QB là không đúng quy định của pháp luật.
Ngoài ra, theo thỏa thuận tại Điều 3 của Hợp đồng thế chấp số QBI.BĐDN.07.220415 ngày 27/4/2015 thì ông Hà Công D., bà Phạm Thị Q. chỉ bảo đảm cho khoản vay cao nhất là 1.830.000.000 đồng nhưng Tòa án cấp phúc thẩm lại tuyên: “Trường hợp khi bản án có hiệu lực pháp luật mà Công ty TNHH VT không trả được nợ, ông Lê M và bà Trần Thị G không thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay cho Công ty TNHH VT thì Ngân hàng TMCP A có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền phát mại tài sản để đảm bảo thu hồi nợ theo các hợp đồng thế chấp tài sản số QBI.BĐDN.07.220415 ngày 27/4/2015 được ký kết giữa ông Hà Công D., bà Phạm Thị Q. với bên nhận thế chấp Ngân hàng TMCP A theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số Y 347167 ngày 04/12/2003...” có nghĩa là tài sản thế chấp của ông Hà Công D., bà Phạm Thị Q. bảo đảm cho toàn bộ số nợ gốc 3.520.000.000 đồng và lãi phát sinh của Công ty TNHH VT là không đúng theo thỏa thuận và không phân định rõ trách nhiệm bảo đảm của ông Hà Công D, bà Phạm Thị Q là không đúng. Do đó, Quyết định giám đốc thẩm số 21/2021/KDTM-GĐT ngày 30/11/2021 của Ủy ban Thẩm phán TAND Cấp cao tại Đà Nẵngđã chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng VKSND Cấp cao tại Đà Nẵng, hủy toàn bộ Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 02/2020/KDTM PT ngày 20/7/2020 của TAND tỉnh QB, giữ nguyên Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 27/2019/KDTM-ST ngày 16/12/2019 của TAND thành phố ĐH, tỉnh QB.
PV
Thời gian công bố điểm thi tốt nghiệp THPT 2022
4. Khó khăn, vướng mắc trong việc chuyển đổi số trong lĩnh vực hộ tịch
(LSVN) –
Ngày 06/01/2022, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 06/QĐ-TTg ban hành phê duyệt triển khai Đề án “Phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022-2025, tầm nhìn đến năm 2030” (sau đây gọi là Đề án).
Đề án ứng dụng cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, hệ thống định danh và xác thực điện tử để phục vụ 05 nhóm tiện ích. Đề án xác định rõ đối tượng phục vụ là người dân và doanh nghiệp được hưởng các tiện ích tốt nhất thông qua các dịch vụ hành chính công, an sinh xã hội và tiếp cận các dịch vụ thương mại thông qua định danh điện tử. Trong đó, dữ liệu dân cư là dữ liệu gốc, là nền tảng để kết nối, chia sẻ với các hệ thống dữ liệu của các bộ, ngành nhằm đơn giản hóa thủ tục hành chính (TTHC), giúp người dân và doanh nghiệp tiết kiệm thời gian, chi phí khi thực hiện các TTHC theo nguyên tắc không phải cung cấp lại các thông tin, giấy tờ về dân cư đã có trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư.
Bên cạnh những kết quả đạt được trong quá trình triển khai Đề án trong lĩnh vực hộ tịch như về cung cấp dịch vụ công thiết yếu trong lĩnh vực hộ tịch; việc kiểm tra, rà soát, đối chiếu, cập nhật dữ liệu hộ tịch và việc số hóa dữ liệu hộ tịch, phục vụ kết nối, chia sẽ với dự liệu quốc gia về dân cư,… thì vẫn còn những khó khăn, vướng mắc trong quá trình tổ chức thực hiện, cụ thể:
Thứ nhất, ngoại trừ Hệ thống thông tin quản lý hộ tịch của Bộ Tư pháp đã được kết nối liên thông với Hệ thống quản lý và trả kết quả giải quyết TTHC của BHXH Việt Nam đối với trường hợp cấp thẻ BHYT cho trẻ em dưới 6 tuổi và được triển khai thống nhất từ Trung ương đến cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã. Các hệ thống còn lại đều hoạt động độc lập, không có sự kết nối, chia sẻ để có thể khai thác, tận dụng dữ liệu hồ sơ, kết quả giải quyết TTHC của nhau vì vậy gây khó khăn cho cán bộ thực hiện TTHC.
Thứ hai, việc cấp số định danh cho trẻ khi đăng ký khai sinh đôi khi còn chậm, lỗi... dẫn đến việc không hoàn thành được dữ liệu đăng ký trên Hệ thống thông tin quản lý hộ tịch dùng chung của Bộ Tư pháp để chuyển dữ liệu điện tử sang Phần mềm Bảo hiểm y tế. Để đảm bảo quyền lợi của người dân, công chức thực hiện phải xử lý hồ sơ giấy.
Thứ ba, khi thực hiện đăng ký dịch vụ công trực tuyến, một số công dân gặp trở ngại do chưa được đăng ký tài khoản và chưa có ví điện tử.
Thứ tư, khoản 4 Điều 2 của Luật Cư trú năm 2020 quy định: “Cơ quan đăng ký thường trú là Công an xã, phường, thị trấn; Công an huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương ở nơi không có đơn vị hành chính cấp xã”. Tuy nhiên, Thông tư liên tịch số 05/2015/TTLT-BTP-BCA-BYT ngày 15/5/2015 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Bộ trưởng Bộ Công an và Bộ trưởng Bộ Y tế về việc hướng dẫn thực hiện liên thông các TTHC về đăng ký khai sinh, đăng ký thường trú, cấp thẻ bảo hiểm y tế cho trẻ em dưới 06 tuổi (Thông tư liên tịch số 05) hiện nay vẫn còn hiệu lực. Do đó, vẫn còn chồng chéo về quy định, ảnh hưởng đến quy trình thực hiện liên thông các TTHC: đăng ký khai sinh, đăng ký thường trú và cấp thẻ bảo hiểm y tế cho trẻ em dưới 6 tuổi.
Để nâng cao hiệu quả trong việc chuyển đổi số trong lĩnh vực hộ tịch trong thời gian tới, cần triển khai thực hiện đồng bộ các giải pháp: sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế Thông tư liên tịch số 05, đảm bảo triển khai thống nhất việc thực hiện liên thông đăng ký thường trú, xóa thường trú theo quy định của Luật Cư trú năm 2020; cần có phương án nâng cấp, hoàn thiện Hệ thống công nghệ thông tin tiếp nhận, giải quyết hồ sơ thủ tục hành chính cũng như Phần mềm đăng ký, quản lý hộ tịch điện tử dùng chung phục vụ công tác tiếp nhận và giải quyết hồ TTHC trong lĩnh vực hộ tịch, đảm bảo chính xác và kịp thời cho công dân. Đồng thời, cần kết nối đồng bộ các hệ thống để khai thác, tận dụng dữ liệu hồ sơ, kết quả giải quyết TTHC và hướng dẫn để người dân đăng ký dịch vụ công trực tuyến một cách thuận lợi, dễ dàng.
MINH ANH
5. Hành vi dàn cảnh bắt cóc để tống tiền có thể bị xử lý như thế nào?
(LSVN) - Vừa qua, Công an TP. Thủ Đức đã tạm giữ Vũ Quốc Sơn (22 tuổi, ngụ TP. Thủ Đức, TP. HCM) để điều tra về hành vi dàn cảnh bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác. Tại cơ quan Công an, Sơn bước đầu khai nhận Trần Ngọc Kim Trang thuê Sơn dàn cảnh vụ "bắt cóc" để chiếm đoạt tài sản của mẹ ruột là bà L. Vậy, theo quy định của pháp luật, hành vi dàn cảnh bắt cóc để tống tiền có thể bị xử lý như thế nào?
Ảnh minh họa.
Dưới góc độ pháp lý, Tiến sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường, Trưởng Văn phòng Luật sư Chính pháp cho biết hành vi dàn cảnh bắt cóc để tống tiền trên đã đe dọa uy hiếp tinh thần của bà L. nhằm chiếm đoạt tài sản nên đây là hành vi nguy hiểm cho xã hội. Trong vụ việc này cơ quan điều tra có thể khởi tố các đối tượng về tội "Cưỡng đoạt tài sản" theo quy định tại Điều 170 Bộ luật Hình sự bởi hành vi bắt cóc chỉ là dàn dựng.
Tội "Bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản" là hành vi bắt giữ người khác nhằm chiếm đoạt tài sản của người thân người bị bắt giữ. Hành vi bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản không chỉ xâm phạm đến quyền tự do thân thể của công dân (bắt giữ người trái pháp luật) mà còn xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản. Mục đích thực hiện hành vi xâm phạm đến quyền tự do thân thể của công dân là để nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác. Hành vi bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự, an toàn xã hội, xâm phạm đến nhiều khách thể mà pháp luật hình sự bảo vệ. Đối tượng bắt cóc không chỉ xâm phạm đến tự do thân thể của công dân, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản mà hành vi này cũng có thể xâm phạm đến sức khỏe, tính mạng của nạn nhân. Bởi vậy hành vi này liền một lúc xâm hại đến nhiều khách thể mà pháp luật hình sự bảo vệ, có tính chất nguy hiểm cao đối với xã hội.
Nếu hành vi bắt cóc nhằm chiếm đoạt số tiền là thật thì đối tượng vi phạm sẽ có thể phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 169 Bộ luật Hình sự.
Tuy nhiên, trong vụ việc này thì hành vi bắt cóc chưa xâm phạm đến quyền tự do thân thể của cháu bé mà chỉ là dàn dựng, giả mạo để đe dọa uy hiếp tinh thần của bà cháu bé nhằm chiếm đoạt tài sản. Vì vậy hành vi này có dấu hiệu của tội "Cưỡng đoạt tài sản" được quy định tại Điều 170 Bộ luật Hình sự. Cụ thể tội danh và hình phạt được Bộ luật Hình sự quy định như sau:
Điều 170. Tội cưỡng đoạt tài sản 1. Người nào đe dọa sẽ dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm: a) Có tổ chức; b) Có tính chất chuyên nghiệp; c) Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu hoặc người không có khả năng tự vệ; d) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng; đ) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội; e) Tái phạm nguy hiểm. 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm: a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng; b) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh. 4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm: a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên; b) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp. 5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. |
Theo quy định của pháp luật thì tội "Cưỡng đoạt tài sản" có cấu thành hình thức, chỉ cần có hành vi đe dọa, uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản là hành vi thỏa mãn dấu hiệu cấu thành của tội danh này, chưa cần phải chiếm đoạt được tài sản của nạn nhân.
Tuy nhiên, trong vụ việc này đối tượng chưa chiếm đoạt được tài sản nên được áp dụng quy định của pháp luật về phạm tội chưa đạt khi tòa án lượng hình. Điều 15 Bộ luật Hình sự quy định: "Phạm tội chưa đạt là cố ý thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội. Người phạm tội chưa đạt phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm chưa đạt".
Điều 57 Bộ luật Hình sự quy định về việc quyết định hình phạt với hành vi phạm tội chưa đạt như sau: Hình phạt đối với hành vi phạm tội chưa đạt được quyết định theo các điều của Bộ luật này về các tội phạm tương ứng tùy theo tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, mức độ thực hiện ý định phạm tội và những tình tiết khác khiến cho tội phạm không thực hiện được đến cùng.
Nếu điều luật được áp dụng có quy định hình phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình thì áp dụng hình phạt tù không quá 20 năm; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt không quá 3/4 mức phạt tù mà điều luật quy định.
TIẾN HƯNG
6. Nội dung chi cho các hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật và hoàn thiện hệ thống pháp luật
(LSVN) - Đây là một trong những nội dung được sửa đổi, bổ sung tại Thông tư 42/2022/TT-BTC mà Bộ trưởng Bộ Tài chính vừa ban hành quy định lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí ngân sách nhà nước bảo đảm cho công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật và hoàn thiện hệ thống pháp luật.
Theo đó, Thông tư 42/2022/TT-BTC sửa đổi, bổ sung Điều 3 Thông tư số 338/2016/TT-BTC về nội dung chi cho các hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật và hoàn thiện hệ thống pháp luật.
Căn cứ tính chất của từng hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật và hoàn thiện hệ thống pháp luật được ngân sách nhà nước bố trí kinh phí quy định tại khoản 1 Điều 2 Thông tư này, cơ quan, đơn vị được giao chủ trì nhiệm vụ thực hiện chi theo những nội dung sau:
- Tổng kết việc thi hành pháp luật hiện hành, đánh giá thực trạng quan hệ xã hội; tập hợp, rà soát các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan.
- Điều tra, khảo sát, đánh giá thực trạng quan hệ xã hội có liên quan phục vụ quá trình nghiên cứu, lập đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, dự kiến chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật.
- Dịch, hiệu đính tài liệu dịch, văn bản tiếng nước ngoài, tiếng dân tộc thiểu số sang tiếng Việt; dịch, hiệu đính tài liệu dịch, văn bản tiếng Việt sang tiếng nước ngoài, tiếng dân tộc thiểu số.
- Lập đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật; lập đề nghị của Chính phủ về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh.
- Tổ chức soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật.
- Đánh giá tác động của chính sách trong đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật; đánh giá tác động của chính sách trong dự án; dự thảo văn bản quy phạm pháp luật; xây dựng báo cáo lồng ghép vấn đề bình đẳng giới (nếu có quy định liên quan đến vấn đề bình đẳng giới); xây dựng bản đánh giá thủ tục hành chính (nếu có quy định thủ tục hành chính).
- Tổ chức Hội đồng tư vấn thẩm định, Hội đồng thẩm định, Hội đồng thẩm tra; lấy ý kiến của các các chuyên gia, nhà khoa học (trong trường hợp cần thiết).
- Xây dựng báo cáo thẩm định, thẩm tra, báo cáo giải trình, tiếp thu ý kiến thẩm định; văn bản góp ý.
- Chỉnh lý, hoàn thiện các loại đề cương, tờ trình, báo cáo, dự thảo văn bản.
- Chi mua văn phòng phẩm, in ấn, sao chụp tài liệu phục vụ trực tiếp cho công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật và hoàn thiện hệ thống pháp luật.
Thông tư này có hiệu lực thi hành từ ngày 01/9/2022.
HÀ ANH
Lãi suất chậm thanh toán trong tranh chấp hợp đồng xây dựng: Thực tiễn xét xử và hướng giải quyết
7. Kịp thời cảnh báo các hành vi phạm pháp là rất cần thiết!
(LSVN) - Thời gian gần đây, thông qua mạng xã hội đã xuất hiện nhiều thủ đoạn lừa đảo chiếm đoạt tài sản của người dân như giả danh công an tra hù dọa về vi phạm pháp luật buộc nạn nhân chuyển tiền để dàn xếp, thông báo trúng giải thưởng lớn để lừa nạn nhân chuyển tiền làm thủ tục rồi chiếm đoạt; lừa tìm được "việc nhẹ, lương cao" rồi bán ra nước ngoài.
Ảnh minh họa.
Mới đây công an Bình Dương cảnh báo tình trạng dùng tiền âm phủ lừa nạn nhân chuyển tiền thật rồi chiếm đoạt hay Công an Hà Nội cảnh bảo về việc lợi dụng việc chia sẻ hình ảnh căn cước công dân, chứng minh nhân dân của một số người dân để đánh cắp thông tin cá nhân chiếm đoạt tiền trong tài khoản ngân hàng của họ...
Nguyên nhân để các đối tượng có cơ hội giả danh, lừa đảo tài sản người dân là do sự "nhẹ dạ cả tin" của một số người dân. Bên cạnh đó, nhiều người thiếu hiểu biết, không muốn dính dáng đến pháp luật nên nghe những đối tượng xấu mạo danh, giả danh cơ quan pháp luật dọa dẫm đã vội vàng chuyển tiền cho bọn chúng mà không kiểm chứng, xác minh hoặc báo cơ quan chức năng. Đặc biệt việc thiếu thông tin về các thủ đoạn lừa đảo mới hoặc mạo danh, giả danh đã tạo cơ hội cho các đối tượng xấu liên tiếp gây án và danh sách nạn nhân dài thêm.
Do đó, việc tuyên truyền, cảnh báo cho mọi người dân và toàn xã hội kịp thời biết được các âm mưu, thủ đoạn lừa đảo nhằm chiếm đoạt tài sản của những kẻ phạm tội là rất quan trọng, rất cần thiết. Thông qua đó, giúp người dân có thể nắm bắt được các thủ đoạn lừa đảo của những kẻ phạm tội để chủ động phòng tránh có hiệu quả. Mặt khác, từ những thông tin, cảnh báo còn giúp cho các cơ quan chức năng có thể nhanh chóng triệt phá, bắt giữ các đối tượng phạm tội khi được người dân trình báo ngay khi có hành vi lừa đảo, giả mạo xảy ra.
Có thể nói, việc kịp thời cảnh báo, thông tin tuyên truyền sâu rộng đến mọi người dân về các thủ đoạn phạm tội mới là rất quan trọng, rất cần thiết. Điều này không những giúp người dân tự bảo vệ được tài sản của mình mà qua đó còn góp phần đấu tranh phòng chống tội phạm đạt kết quả cao hơn.
Thiết nghĩ, các cơ quan chức năng cần tăng cường công tác thông tin, cảnh báo rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng, qua mạng xã hội… về các hành vi vi phạm pháp luật, nhất là những thủ đoạn mới để người dân có thể phòng ngừa, bảo vệ tốt hơn quyền, lợi ích chính đáng, hợp pháp của mình.
Như vậy, không những góp phần đảm bảo tình hình trật tự an toàn xã hội được giữ vững, bảo vệ cuộc sống bình yên cho nhân dân mà các loại tội phạm, nhất là tội phạm công nghệ cao sẽ không còn đất sống và dần sẽ bị ngăn chặn, loại bỏ.
Thạc sĩ PHẠM VĂN CHUNG
Sở Tư pháp tỉnh Kon Tum
Không nên quy định chỉ được chuyển nhượng biển số trúng đấu giá kèm theo xe ôtô
Sử dụng Internet để môi giới việc làm nhằm lừa đảo chiếm đoạt tài sản sẽ bị xử lý như thế nào?
(LSVN) - Thời gian gần đây, do nhu cầu tìm kiếm việc làm của người dân tăng cao, nhiều đối tượng đã lợi dụng tình hình này để lừa đảo, chiếm đoạt tài sản của người dân. Vậy, hành vi sử dụng Internet để môi giới việc làm nhằm lừa đảo chiếm đoạt tài sản sẽ bị xử lý như thế nào? Để tránh bị lừa đảo, chiếm đoạt tài sản thì người dân cần có những kỹ năng gì để nhận diện những hành vi của các đối tượng lừa đảo?
Liên quan đến vấn đề này, theo Bộ Công an, hành vi sử dụng mạng Internet để môi giới việc làm nhằm lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hành vi vi phạm pháp luật Việt Nam. Hành vi này sẽ bị xử lý theo Điều 290 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) về tội "Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản".
Thời gian qua, Cơ quan Công an đã phát hiện và xử lý rất nhiều những vụ việc liên quan đến hành vi này. Các đối tượng lừa đảo thường lợi dụng lòng tham, ham muốn kiếm tiền một cách dễ dàng hay tâm lý e ngại đối với việc liên quan đến vi phạm pháp luật để hù dọa người dân nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản.
Vì vậy, người dân cần tỉnh táo trước các lời mời gọi việc nhẹ lương cao, chiết khấu hoa hồng cao, mời tham gia các kênh đầu tư lợi nhuận lớn hơn 20% một năm. Đồng thời hết sức cảnh giác đối với các cuộc gọi, thông báo từ người tự xưng là người trong cơ quan pháp luật.
Để tránh bị lừa đảo chiếm đoạt tài sản, người dân cần chủ động nâng cao nhận thức, kiến thức thông qua các phương tiện truyền thông về các phương thức, thủ đoạn phạm tội mới. Nếu nhận được thông tin liên quan đến vi phạm pháp luật thì phải đến Cơ quan Công an, văn phòng luật sư hoặc người hiểu biết pháp luật để trao đổi, cung cấp thông tin.
Cơ quan Công an không đưa ra các yêu cầu qua điện thoại mà sẽ có văn bản, quyết định gửi đến công dân trong trường hợp công dân có liên quan đến vụ việc cần giải quyết.
TIẾN HƯNG
Vi phạm hợp đồng theo quy định của Luật Thương mại 2005 và Bộ nguyên tắc PICC