![]()
Ảnh minh họa.
1. Đất bị Nhà nước thu hồi được tính tiền bồi thường như thế nào?
(LSVN) - Vừa qua, diện tích đất của gia đình tôi đang sử dụng bị Nhà nước thu hồi sử dụng cho mục đích khác. Vậy theo quy định của pháp luật hiện hành thì gia đình tôi sẽ được tính tiền bồi thường như thế nào? Bạn đọc K.Y. hỏi.
Điều 75 Luật Đất đai 2013 quy định điều kiện được bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng đối với từng đối tượng người sử dụng đất.
Trong đó, quy định rõ điều kiện đối với hộ gia đình, cá nhân là:
- Đất đang sử dụng đất không phải là đất thuê trả tiền thuê đất hàng năm.
- Đất được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định Luật Đất đai 2013 nhưng chưa được cấp.
Ngoài ra, một trường hợp dù không đủ điều kiện cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vẫn được bồi thường về đất là: Đất nông nghiệp đã sử dụng trước ngày 01/7/2004, mà người sử dụng đất là hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp.
Tiền bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi được tính theo giá đất cụ thể: Theo quy định của Luật Đất đai 2013, giá đất cụ thể được UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (cấp tỉnh) có thẩm quyền quyết định giá đất cụ thể. Cơ quan quản lý đất đai cấp tỉnh, thành phố có trách nhiệm giúp UBND cấp tỉnh, thành phố xác định giá đất cụ thể.
Việc xác định giá đất cụ thể phải dựa trên cơ sở điều tra, thu thập thông tin về thửa đất, giá đất, thông tin về giá đất trong cơ sở dữ liệu đất đai; áp dụng phương pháp định giá đất phù hợp. Căn cứ kết quả tư vấn xác định giá đất, cơ quan quản lý đất đai cấp tỉnh, thành phố trình Hội đồng thẩm định giá đất xem xét trước khi trình UBND cùng cấp quyết định.
Cách tính tiền bồi thường đất khi bị thu hồi
Theo điểm đ Khoản 4 Điều 114 Luật Đất đai 2013, Khoản 5 Điều 4 Nghị định 44/2014/NĐ-CP và Khoản 4 Điều 3 Nghị định 01/2017/NĐ-CP, giá đất cụ thể được xác định bằng phương pháp hệ số điều chỉnh. Giá đất áp dụng đối với trường hợp tính tiền bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi được tính như sau:
Giá trị của thửa đất cần định giá (m2) = Giá đất trong bảng giá đất x Hệ số điều chỉnh giá đất.
Trong đó:
- Giá đất trong bảng giá đất do Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành ban hành áp dụng theo từng giai đoạn 05 năm. Muốn biết chính xác người dân phải xem đúng địa chỉ, vị trí thửa đất (vị trí 1, vị trí 2, vị trí 3, vị trí 4),…
- Hệ số điều chỉnh giá đất khi tính tiền bồi thường do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định. Tuy nhiên, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh sẽ quyết định hệ số điều chỉnh giá đất cho từng dự án tại thời điểm Nhà nước quyết định thu hồi đất. Nói cách khác, hệ số điều chỉnh giá đất sẽ không công bố trước và áp dụng theo từng năm như đối với trường hợp tính tiền sử dụng đất khi cấp Sổ đỏ, Sổ hồng cho diện tích vượt hạn mức.
Căn cứ vào quy định trên, người dân có thể nắm rõ cách tính tiền bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất để tự tính được số tiền bồi thường nhận được/m2.
HỒNG HẠNH
Bộ GTVT báo cáo Thủ tướng Chính phủ về dự án thu phí tự động không dừng
2. Thủ tục áp giải người vi phạm theo quy định mới nhất
(LSVN) - Chính phủ vừa ban hành Nghị định 142/2021/NĐ-CP quy định hình thức xử phạt trục xuất, biện pháp tạm giữ người, áp giải người vi phạm theo thủ tục hành chính và quản lý người nước ngoài vi phạm pháp luật Việt Nam trong thời gian làm thủ tục xuất cảnh. Trong đó quy định cụ thể về thủ tục áp giải người vi phạm.
![]()
Cụ thể, người vi phạm không tự nguyện chấp hành yêu cầu của người có thẩm quyền mà không phải do trở ngại khách quan hoặc trường hợp bất khả kháng thì bị áp giải trong các trường hợp sau đây:
- Bị tạm giữ người theo thủ tục hành chính;
- Đưa vào hoặc đưa trở lại trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc theo quy định tại Điều 124 Luật xử lý vi phạm hành chính.
Những người sau đây đang thi hành công vụ thực hiện việc áp giải người vi phạm theo thủ tục hành chính:
- Người có thẩm quyền đang thi hành công vụ của lực lượng Công an nhân dân, Bộ đội Biên phòng, Cảnh sát biển, Hải quan, Kiểm lâm, cơ quan thuế, Quản lý thị trường, Cơ quan thanh tra, Thi hành án dân sự, Kiểm lâm, Thuế, Kiểm ngư, Quản lý thị trường, Thanh tra.
- Người có thẩm quyền đang thi hành công vụ khác theo quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính và các văn bản pháp luật khác có liên quan.
Về thủ tục áp giải, theo Điều 32 Nghị định, trước khi áp giải người vi phạm, người đang thi hành công vụ thực hiện việc áp giải phải giải thích cho người bị áp giải về quyền và nghĩa vụ của họ trong quá trình bị áp giải theo quy định của pháp luật, giải đáp thắc mắc của người bị áp giải.
Trong khi áp giải, phải đảm bảo an toàn tuyệt đối cho người đang thi hành công vụ thực hiện nhiệm vụ áp giải và cho người bị áp giải. Việc sử dụng vũ khí, công cụ hỗ trợ khi áp dụng biện pháp áp giải phải bảo đảm đúng nguyên tắc quy định tại khoản 4 Điều 20 Luật Xử lý vi phạm hành chính và quy định tại Nghị định này.
Trường hợp người bị áp giải có dấu hiệu bỏ trốn hoặc có hành vi chống người thi hành công vụ, người đang thi hành công vụ thực hiện nhiệm vụ áp giải phải báo cáo ngay người có thẩm quyền để ra quyết định tạm giữ người theo thủ tục hành chính đối với người đó.
Người đang thi hành công vụ thực hiện nhiệm vụ áp giải phải giám sát, quản lý chặt chẽ người bị áp giải, cảnh giác, chủ động, kịp thời xử lý những tình huống phức tạp có thể xảy ra; không được tùy tiện giải quyết các yêu cầu của người bị áp giải trong khi đang tiến hành áp giải.
Nghị định này có hiệu lực từ ngày 01/01/2022.
DUY ANH
Quy định về xử lý một số tình huống trong khi áp giải3.
3. Vướng mắc trích xuất, dẫn giải bị cáo để xét xử và thi hành án
(LSVN) - Hoạt động xét xử của Tòa án là giai đoạn tố tụng quan trọng, bản án, quyết định của Tòa án ảnh hưởng trực tiếp đến quyền cơ bản của công dân, bản án có hiệu lực pháp luật phải được đảm bảo thi hành. Các Tòa án quân sự phụ trách xét xử trên địa bàn rộng, vụ án thường được xét xử lưu động, công tác đảm bảo để xét xử là vấn đề quan trọng đặt ra cần phải giải quyết, nhất là các vụ án có bị cáo bị tạm giam. Các bị cáo đang bị tạm giam, đến ngày xét xử Tòa phải ra lệnh trích xuất, dẫn giải bị cáo từ Trại tạm giam đến địa điểm xét xử và xét xử xong trả lại bị cáo cho Trại tạm giam hoặc dẫn giải bị cáo chuyển đi Trại giam để đảm bảo thi hành án.
![]()
Ảnh minh họa.
Thời gian qua, công tác trích xuất, dẫn giải bị cáo để xét xử và chấp hành án đã thực hiện đúng quy định của pháp luật. Tuy nhiên, từng vụ án cụ thể việc trích xuất, dẫn giải bị cáo từ Trại tạm giam quân sự hoặc Nhà tạm giữ, Trại tạm giam, Trại giam Công an đến địa điểm xét xử và đi chấp hành án gặp những khó khăn, vướng mắc, cần được giải quyết, mặc dù Luật Thi hành án hình sự năm 2019 đã có hiệu lực pháp luật.
Trích xuất, dẫn giải bị cáo để xét xử và thi hành án được quy định cụ thể trong Luật Thi hành án hình sự 2019; Thông tư liên tịch số 04/3013/TTLT-BCA-BQP-TANDTC-VKSNDTC ngày 30/5/2013 của Bộ Quốc phòng, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn thực hiện trích xuất phạm nhân để phục vụ điều tra, truy tố, xét xử và một số văn bản khác có liên quan.
Thông thường các bị can khi bị khởi tố, truy tố, bắt tạm giam thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự, tạm giam tại Trại giam, Trại tạm giam quân sự. Khi Tòa án có quyết định đưa vụ án ra xét xử, đến ngày xét xử Tòa án ra lệnh trích xuất, dẫn giải bị cáo gửi cho Trại tạm giam hoặc Trại giam và gửi cho Cơ quan thi hành án hình sự, Trại tạm giam hoặc Trại giam có nhiệm vụ thi hành lệnh trích xuất, dẫn giải bị cáo đến địa điểm xét xử. Việc thực hiện lệnh trích xuất, dẫn giải trước đây do lực lượng cảnh vệ thuộc các đơn vị cảnh vệ của quân đội đảm nhận, hiện nay việc trích xuất, dẫn giải bị cáo để xét xử và thi hành án do Cơ quan thi hành án hình sự và Trại Tạm giam hoặc Trại giam phối hợp thực hiện; trường hợp xét xử trong Trại tạm giam do cán bộ quản giáo, cảnh vệ của Trại thực hiện. Vấn đề đặt ra, khó khăn về lực lượng, phương tiện đảm bảo, dẫn giải bị cáo đến địa điểm xét xử và thi hành án khi bản án có hiệu lực pháp luật với quãng đường xa và những tình huống phát sinh trên đường dẫn giải bị cáo thực hiện việc chuyển trại, cụ thể như sau:
Thứ nhất, trường hợp bị cáo vừa phạm tội do Tòa án nhân dân xét xử, vừa phạm tội thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự và đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ hoặc Trại tạm giam Công an. Tòa án quân sự xét xử trước, Tòa án nhân dân xét xử sau, bản án của Tòa án quân sự đã có hiệu lực pháp luật nhưng vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân đang trong giai đoạn điều tra, việc trích xuất, dẫn giải bị cáo để xét xử và thi hành án sẽ gặp khó khăn. Thẩm quyền trích xuất tại Điều 40 Luật Thi hành án hình sự năm 2019 quy định: “Thủ trưởng cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh ra lệnh trích xuất đối với phạm nhân đang chấp hành án tại Trại tạm giam hoặc phạm nhân do cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện trực tiếp quản lý”.
Theo quy định tại Điều 5 Thông tư liên tịch số 04/2013/TTLT-BCA-BQP-TANDTC-VKSNDTC về thẩm quyền trích xuất thì Thủ trưởng Cơ quan thi hành án hình sự cấp Quân khu ra lệnh trích xuất hoặc đề nghị trích xuất: ‘‘Đề nghị thủ trưởng cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh ra lệnh trích xuất đối với phạm nhân thuộc Trại tạm giam, Nhà tạm giữ do Công an đia phương đó quản lý’’.
Tòa án quân sự làm công văn đề nghị Thủ trưởng Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh trích xuất bị cáo để xét xử, hoặc xét xử và đưa đi thi hành án đối với bị cáo phạm tội đã bị Tòa án nhân dân xét xử trước đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ của Công an cấp huyện. Thủ trưởng Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh ra lệnh trích xuất bị cáo từ Nhà tạm giữ Công an cấp huyện đến nơi Tòa án quân sự xét xử và dẫn giải đi chấp hành án sau khi xét xử xong. Vấn đề đặt ra ở đây, cơ quan đơn vị nào đảm nhận việc trích xuất, dẫn giải bị cáo? Cơ quan thi hành án hình sự Công an huyện, Nhà tạm giữ Công an huyện hay Cơ quan điều tra hình sự Khu vực điều tra vụ án đó đảm nhận việc trích xuất, dẫn giải bị cáo đi xét xử, chấp hành án.
Thực tế, đây là vấn đề vướng mắc, Tòa án quân sự không thể yêu cầu Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, Nhà tạm giữ của Công an cấp huyện thi hành lệnh trích xuất, dẫn giải bị cáo, Tòa án quân sự chỉ đề nghị các cơ quan này phối hợp để đảm bảo thuận lợi cho việc xét xử vụ án. Việc thi hành lệnh trích xuất, dẫn giải, Tòa án quân sự phối hợp nhờ Cơ quan hay đơn vị nơi có án xảy ra, đảm nhận nhiệm vụ trích xuất, dẫn giải bị cáo để xét xử và thi hành án. Việc này Tòa án đã vận dụng giải quyết tốt trong từng trường hợp cụ thể, tuy nhiên nếu có vấn đề sơ xuất xảy ra, ví dụ trên đường dẫn giải, bị cáo lợi dụng sơ hở của cán bộ dẫn giải trốn thoát, cá nhân, cơ quan nào chịu trách nhiệm? Tòa án đã ra lệnh trích xuất dẫn giải; cơ quan, đơn vị thi hành lệnh trích xuất, dẫn giải hay Cơ quan thi hành án hình sự, Nhà tạm giữ Công an huyện chịu trách nhiệm về việc để bị cáo trốn thoát.
Thứ hai, trường hợp bị cáo vừa phạm tội do Tòa án nhân dân xét xử, vừa phạm tội do Tòa án quân sự xét xử. Tòa án nhân dân đã xét xử trước, án chưa có hiệu lực pháp luật và bị cáo hiện đang bị tạm giam ở Nhà tạm giữ hoặc Trại tạm giam do Công an quản lý. Tòa án quân sự xét xử bị cáo sau, việc trích xuất, dẫn giải bị cáo để xét xử và đưa đi chấp hành án gặp khó khăn, vướng mắc: Cơ quan nào thi hành lệnh trích xuất, dẫn giải trong trường hợp bị cáo đang bị tạm giam ở nhà tạm giữ hoặc Trại tạm giam Công an cấp huyện? thời hạn trích xuất bị cáo; cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện nơi có Nhà tạm giữ đang tạm giam bị cáo; cơ quan điều tra hình sự Khu vực điều tra vụ án đó hay là cơ quan, đơn vị quân đội nơi xảy ra vụ án đảm nhiệm việc trích xuất, dẫn giải bị cáo đi xét xử và chấp hành án? đây là vướng mắc thường gặp, hiện chưa có văn bản hướng dẫn để thực hiện thống nhất.
Ví dụ: Phạm Năng V., phạm tội “Trộm cắp tài sản” và “Cướp tài sản” Tòa án quân sự xét xử sau tuyên phạt 10 năm 6 tháng tù. Trước đó, bị cáo V. bị Tòa án nhân dân xét xử 9 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, tổng hợp hình phạt của cả 2 bản án bị cáo V. phải chấp hành là 11 năm 3 tháng tù. Phạm Năng V. bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện N., tỉnh T. Tòa án quân sự làm Công văn đề nghị Cơ quan thi hành án hình sự Công an tỉnh T. trích xuất, dẫn giải bị cáo V. từ Nhà tạm giữ Công an huyện N., đến địa điểm xét xử là Công ty 732, xét xử xong dẫn giải bị cáo V. về Trại tạm giam Quân sự để đảm bảo thi hành án.
Vấn đề vướng mắc là cơ quan, đơn vị nào thi hành lệnh trích xuất, dẫn giải bị cáo: Cơ quan thi hành án hình sự Công an huyện N. nơi có Nhà tạm giữ đang tạm giam bị cáo hay Cơ quan điều tra hình sự Khu vực đã điều tra vụ án thực hiện dẫn giải bị cáo? Thực tiễn, Tòa án quân sự đã vận dụng nhờ Công ty 732 nơi xảy ra vụ án thi hành lệnh trích xuất, dẫn giải bị cáo. Vấn đề đặt ra, nếu trên đường dẫn giải bị cáo từ Nhà tạm giữ đến địa điểm xét xử và đưa đi chấp hành án lợi dụng sơ xuất của cán bộ dẫn giải bị cáo trốn thoát thì ai là người chịu trách, bởi theo quy định của pháp luật, Công ty 732 không có chức năng dẫn giải bị cáo.
Thứ ba, trường hợp khi Tòa án quân sự xét xử bị cáo là phạm nhân đang chấp hành án về một tội khác Tòa án nhân dân đã xét xử giam tại Trại giam Công an, vấn đề đặt ra bị cáo bị xử phạt tù giam, xét xử xong, khi bản án của Tòa án quân sự có hiệu lực pháp luật có phải trích xuất, dẫn giải bị cáo để chuyển Trại giam quân sự chấp hành án không? để bị cáo chấp hành 02 bản án tù tại Trại giam của Công an hay Trại giam quân sự.
Thứ tư, trường hợp bị cáo A. phạm tội do Cơ quan điều tra hình sự khu vực Quân khu K điều tra, Viện Kiểm sát quân sự khu vực Quân khu K truy tố, Tòa án quân sự xét xử tuyên phạt bị cáo A 7 năm tù, nhưng bị cáo A đang được gửi tại Trại tạm giam Quân đoàn. Theo quy định Trại tạm giam Quân đoàn chỉ quản lý, cải tạo các phạm nhân có mức án 5 năm tù trở xuống, mức án trên 5 năm tù phải làm thủ tục chuyển trại, về nguyên tắc khi chuyển trại phải ra lệnh trích xuất, dẫn giải bị cáo. Vấn đề đặt ra là Tòa án ra lệnh trích xuất, dẫn giải thì cơ quan, đơn vị nào thực hiện lệnh trích xuất, dẫn giải của Tòa án để đưa phạm nhân chuyển trại. Cơ quan điều tra hình sự hay Trại tạm giam thực hiện? Thực tế Cơ quan điều tra cử lực lượng, phương tiện dẫn giải bị cáo chuyển trại, nhưng lại yêu cầu có cán bộ Tòa án cùng tham gia dẫn giải bị cáo. Pháp luật không quy định Tòa án thực hiện nhiệm vụ dẫn giải, vì vậy Tòa án không đảm nhận việc dẫn giải bị cáo.
Đề xuất, kiến nghị
Qua những vướng mắc Tòa án quân sự gặp phải khi thực hiện trích xuất, dẫn giải bị cáo để xét xử và thi hành án, đề nghị cơ quan có thẩm quyền cần sớm có văn bản hướng dẫn, giải quyết những vướng mắc về lực lượng, phương tiện đảm bảo cho việc trích xuất dẫn giải bị cáo để xét xử và thi hành án được thuận lợi, tạo sự thống nhất thực hiện giữa Cơ quan thi hành án hình sự, Trại giam, Trại tạm giam trong và ngoài Quân đội.
THẠC SĨ LÊ ĐÌNH NGHĨA
Tòa án quân sự Khu vực 1 Quân khu 5
Ban hành bộ Tiêu chí ứng xử trong gia đình
4. Thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính về xây dựng
(LSVN) - Chính phủ đã ban hành Nghị định 16/2022/NĐ-CP ngày 28/01/2022 quy định xử phạt vi phạm hành chính về xây dựng. Trong đó, quy định về thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính về xây dựng.
![]()
Nghị định này quy định về hành vi vi phạm hành chính, hình thức và mức phạt, biện pháp khắc phục hậu quả, thẩm quyền lập biên bản và xử phạt vi phạm hành chính về xây dựng.
Vi phạm hành chính về xây dựng quy định xử phạt tại Nghị định này bao gồm: hoạt động xây dựng, sản xuất vật liệu xây dựng, quản lý công trình hạ tầng kỹ thuật, kinh doanh bất động sản, quản lý, phát triển nhà.
Điều 5 Nghị định quy định rõ về thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính. Cụ thể, thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính là 01 năm đối với hoạt động kinh doanh bất động sản, quản lý công trình hạ tầng kỹ thuật, sản xuất vật liệu xây dựng.
Thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính là 02 năm đối với hoạt động xây dựng, quản lý, phát triển nhà.
Thời điểm để tính thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính quy định tại khoản 1 Điều này được quy định như sau:
- Thời điểm chấm dứt hành vi vi phạm để tính thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính đối với hoạt động xây dựng (trừ Điều 9, Điều 10, Điều 19, Điều 20, Điều 21 Nghị định này) và các hành vi quy định tại khoản 2 Điều 41, điểm b khoản 4 Điều 44, điểm a khoản 2 Điều 45, khoản 1 Điều 47, điểm a khoản 2 Điều 48, điểm a khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 55, khoản 3 Điều 57, điểm b khoản 1, điểm c, điểm đ, điểm e, điểm h, điểm i khoản 2 Điều 63 được tính từ ngày bàn giao công trình, hạng mục công trình theo quy định.
Đối với nhà ở riêng lẻ, thời điểm chấm dứt hành vi vi phạm là ngày hoàn thành công trình được ghi hợp đồng thi công xây dựng công trình (nếu có) hoặc ngày đưa công trình vào sử dụng.
- Các hành vi quy định tại khoản 1 Điều 44, điểm đ, điểm g khoản 2 Điều 47, khoản 1 Điều 48, khoản 1 Điều 53, điểm d khoản 1, điểm đ khoản 3 Điều 55, điểm b khoản 1 Điều 58, điểm c khoản 2 Điều 59, điểm a khoản 1 Điều 60, điểm b, điểm c, điểm d khoản 1 Điều 61, điểm a khoản 1 Điều 63, điểm c khoản 5 Điều 64, điểm d khoản 1 Điều 67, điểm b, điểm c khoản 1 Điều 68, điểm d khoản 2 Điều 69 thì thời điểm chấm dứt hành vi vi phạm được tính từ thời điểm đã thực hiện xong các hoạt động của hành vi vi phạm đó.
- Các hành vi quy định tại điểm b khoản 5 Điều 44, khoản 2 Điều 46, điểm a khoản 2 Điều 47, điểm b khoản 1 Điều 55, điểm c, điểm đ khoản 1, điểm a, điểm b khoản 2, điểm a, điểm d, điểm đ, điểm e, điểm h, điểm i khoản 3, điểm a, điểm b khoản 4 Điều 58, điểm b, điểm đ khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 59, điểm a, điểm b khoản 1, khoản 3, khoản 4, điểm a, điểm b khoản 5 Điều 64, điểm b, điểm h khoản 2 Điều 67, điểm a khoản 1 Điều 68 thì thời điểm chấm dứt hành vi vi phạm được tính từ ngày các bên thực hiện xong các nghĩa vụ theo hợp đồng hoặc văn bản giao dịch đã ký kết hoặc ngày thanh lý hợp đồng;
- Các hành vi quy định tại khoản 1 Điều 46, điểm a khoản 1 Điều 49, khoản 1 Điều 50, điểm a khoản 1 Điều 51, điểm a khoản 2 Điều 53 thì thời điểm chấm dứt hành vi vi phạm được tính từ ngày phải định kỳ thực hiện công việc định kỳ kiểm tra, đánh giá theo quy định.
- Các hành vi quy định tại điểm c khoản 3 Điều 58, khoản 3 Điều 63 thì thời điểm chấm dứt hành vi vi phạm được tính từ ngày dự án đầu tư phải hoàn thành ghi trong quyết định đầu tư hoặc văn bản chấp thuận chủ trương đầu tư hoặc quyết định gia hạn tiến độ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; hành vi quy định tại điểm a, điểm b khoản 2 Điều 63 thì thời điểm chấm dứt hành vi vi phạm được tính từ ngày dự án xây dựng nhà ở có quyết định hoặc chấp thuận chủ trương đầu tư của cơ quan có thẩm quyền.
- Hành vi quy định tại điểm d khoản 2 Điều 67 thì thời điểm chấm dứt hành vi vi phạm được tính từ ngày bàn giao đầy đủ kinh phí bảo trì cho Ban quản trị nhà chung cư.
- Các hành vi quy định tại điểm e khoản 2, điểm d khoản 3 Điều 67, điểm c, điểm d khoản 1 Điều 69 thì thời điểm chấm dứt hành vi vi phạm được tính từ ngày Ban quản trị gửi văn bản đề nghị chuyển giao kinh phí bảo trì; hành vi quy định tại điểm d khoản 4 Điều 67 thì thời điểm chấm dứt hành vi vi phạm được tính từ ngày bàn giao hồ sơ nhà chung cư theo quy định; hành vi quy định tại điểm b khoản 1 Điều 69 thì thời điểm chấm dứt hành vi vi phạm được tính từ ngày ban quản trị có văn bản đề nghị Ủy ban nhân dân cấp huyện yêu cầu chủ đầu tư phải bàn giao hồ sơ;
h) Hành vi quy định tại điểm b khoản 2 Điều 45 thì thời điểm chấm dứt hành vi vi phạm được tính từ ngày phê duyệt kế hoạch cấp nước.
- Các hành vi quy định tại điểm a, điểm d khoản 1, điểm b, điểm c khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 61, khoản 1 Điều 62 thì thời điểm chấm dứt hành vi vi phạm được tính từ ngày cấp giấy chứng nhận hoàn thành khóa học theo quy định.
- Hành vi quy định tại điểm b khoản 2 Điều 44 thì thời điểm chấm dứt hành vi vi phạm được tính từ ngày bàn giao thiết bị đưa vào sử dụng; hành vi quy định tại điểm b khoản 2 Điều 53 thì thời điểm chấm dứt hành vi vi phạm được tính từ ngày hoàn thành việc sửa chữa, thay thế, lắp đặt mới nguồn sáng và các thiết bị chiếu sáng.
- Hành vi quy định tại điểm a khoản 1 Điều 56 thì thời điểm chấm dứt hành vi vi phạm được tính từ ngày khởi công công trình.
- Hành vi quy định tại điểm d khoản 2 Điều 63 thì thời điểm chấm dứt hành vi vi phạm được tính từ ngày phương án tái định cư được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt.
- Hành vi quy định tại điểm c khoản 2 Điều 67 thì thời điểm chấm dứt hành vi vi phạm được tính từ ngày gửi kinh phí bảo trì theo quy định.
- Các hành vi vi phạm về xây dựng quy định tại nghị định này mà không thuộc trường hợp quy định tại điểm a, điểm b, điểm c, điểm d, điểm đ, điểm e, điểm g, điểm h, điểm i, điểm k, điểm l, điểm m, điểm n khoản này thì người có thẩm quyền xử phạt căn cứ vào Luật Xử lý vi phạm hành chính và các hồ sơ tài liệu có liên quan để xác định thời điểm tính thời hiệu xử phạt.
HỒNG HẠNH
Không chủ quan, lơ là trong phòng dịch
5. Kinh nghiệm của một số quốc gia về tổ chức phiên tòa trực tuyến
(LSVN) - Trên thế giới, Tòa án trực tuyến vẫn đang là vấn đề mới, nhận được sự quan tâm của các chuyên gia cũng như các nhà nghiên cứu, bởi lẽ, những thách thức khi tổ chức phiên tòa trực tuyến là không nhỏ. Trong nội dung bài viết, tác giả cung cấp thông tin cũng như kinh nghiệm của các quốc gia Áo, Đức và Ý về tổ chức phiên tòa trực tuyến.
![]()
Phương cách tương tác giữa Thẩm phán, các bên đương sự và Luật sư trong phiên tòa trực tuyến cũng cần phải thay đổi trong bối cảnh mới khác với phòng xử án truyền thống khi việc thiết kế và bố trí tạo ra sự khác biệt giữa phiên tòa trực tiếp với phiên tòa trực tuyến. Phiên tòa trực tiếp tạo ra tính nghiêm minh, không khí nghiêm túc, trong khi đó, thực tiễn tại phiên tòa trực tuyến có phần nào khác biệt.
Thực tế, pháp luật một số quốc gia đã quy định về xét xử trực tuyến từ những năm 1990 hoặc đầu những năm 2000 để hiện đại hóa trình tự và thủ tục tố tụng dân sự hoặc để tổ chức phiên tòa hình sự một cách an toàn hơn. Vào năm 2009, trong khuôn khổ một chương trình có tên gọi “Xét xử trực tuyến/điện tử châu Âu”, các nước thuộc Hội đồng châu Âu đã xây dựng một chương trình xét xử trực tuyến/qua video.
1. Áo
Năm 2004, tại Áo đã áp dụng quy định cho phép nghe các bên, chuyên gia và người làm chứng trong tố tụng dân sự; bị cáo và người làm chứng trong tố tụng hình sự trình bày qua video. Trong lĩnh vực tố tụng dân sự, việc tổ chức phiên tòa trực tuyến/qua video đã được quy định tại Điều 589(3) của Bộ luật tố tụng dân sự, Luật quản lý Tòa án và Đạo luật phòng chống Covid. Mặc dù Hiến pháp của Áo[1] đã quy định các bên trong tranh chấp phải có mặt tại phiên tòa, các phiên tòa dân sự và hình sự phải được mở công khai, tuy nhiên hệ thống pháp luật của Áo cho phép một số ngoại lệ cho phép các bên có thể tham gia phiên tòa trực tuyến. Đồng thời, việc sử dụng phương tiện thông tin điện tử để tương tác giữa Tòa án và các bên với tư cách là một bộ phận của trình tự tố tụng được coi là một đặc điểm quan trọng của hệ thống tư pháp của Áo.
Điều 171 và Điều 277 của Bộ luật tố tụng dân sự của Áo cũng quy định việc sử dụng nền tảng họp/xét xử trực tuyến như sau: “Nếu kỹ thuật cho phép, Tòa án có thể thu nhận chứng cứ thông qua phương tiện kỹ thuật để chuyển hóa chữ và hình ảnh, trừ trường hợp việc thu nhận chứng cứ trực tiếp tại tòa án là thích hợp hoặc cần thiết hơn vì lý do đặc biệt có xem xét đến nguyên tắc kinh tế mang tính thủ tục…”. Trong Bộ luật tố tụng hình sự[2], cũng có một điều khoản liên quan đến việc xét xử trực tuyến theo đó để tạo điều kiện cho việc xét xử trực tuyến, tất cả Tòa án, cơ quan công tố và nhà tù được trang bị nền tảng/hệ thống họp trực tuyến[3]. Tuy nhiên trong thực tiễn, việc sử dụng công nghệ trong các vụ xử dân sự và hình sự trong thực tiễn cũng bị hạn chế trong một số tình huống ngoại lệ.
Ngày 16/3/2020, Đạo luật chống Covid có hiệu lực đã tạo ra cơ sở pháp lý cho việc thực thi các biện pháp nhằm ngăn chặn việc lây lan của dịch bệnh Covid -19. Cân nhắc xu hướng sử dụng các phương tiện điện tử và các nền tảng họp trực tuyến trong các phiên xét xử trực tiếp, Đạo luật phòng chống Covid - 19 chủ yếu mở rộng việc sử dụng các công cụ hiện có để thúc đẩy chức năng quản lý hệ thống Tòa án từ xa. Nói một cách cụ thể hơn, các bên có thể thỏa thuận lựa chọn phương án xét xử trực tuyến mà không cần phải đến Tòa [4]. Sự chấp thuận của các bên là bắt buộc, việc xét xử trực tuyến mà không có sự chấp thuận của các bên được coi là vi phạm quyền xét xử công bằng. Tại Áo, luật yêu cầu sự chấp thuận của các bên và bị can trong tố tụng dân sự và hình sự.
Theo Đạo luật này, bên cạnh một số biện pháp khác đã điều chỉnh trình tự và thủ tục của Tòa án trong các vụ án dân sự để ứng phó với dịch bệnh đảm bảo quyền được xét xử kịp thời của các bên đương sự. Luật ứng phó đại dịch Covid[5] cho phép, trong một khoảng thời gian giới hạn, các phiên xét xử được tổ chức trực tuyến với sự đồng ý của các bên trong tố tụng dân sự. Luật cũng cho phép tổ chức các phiên xét xử trực tuyến trong các vụ án hình sự, đặc biệt là liên quan đến việc giam giữ các nghi phạm hoặc bị can. Tuy nhiên, các phiên tòa xét xử có bồi thẩm đoàn chỉ có thể được tổ chức trực tuyến trong những trường hợp đặc biệt. Trong tố tụng hành chính, luật chỉ quy định rằng các bên “có thể” được xét xử trực tuyến. Tuy nhiên, trong quyết định ngày 08/10/2020, Tòa án Hiến pháp nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xét xử trực tuyến - để bảo vệ quyền của họ đối với một phiên tòa công bằng.
Nền tảng công nghệ chính được Tòa án ở Áo sử dụng là Zoom (các quốc gia như: Bang Michigan của Hoa Kỳ, Tây Ban Nha (tòa án Madrid), Vương quốc Anh, Ba Lan, Thụy Sĩ (tòa án thương mại Zurich), Singapore, Tòa án tối cao của Victoria, New Zealand cũng sử dụng nền tảng công nghệ này). Việc sử dụng công nghệ mới phụ thuộc vào sự hợp tác của các Thẩm phán và tình hình tại từng Tòa án. Quy mô của các phòng xử án - trong các phòng lớn, vẫn có thể thực hiện các phiên xét xử trực trực tuyến với các thiết bị kỹ thuật có sẵn. Các Tòa án nơi các Thẩm phán đã làm việc với các hồ sơ điện tử thường có thiết bị kỹ thuật tốt hơn. Tuy nhiên, ở một số quốc gia châu Âu, Zoom và các hệ thống thuộc sở hữu tư nhân khác bị coi là không đáng tin cậy vì lý do bảo vệ dữ liệu, mặc dù chúng ổn định và thân thiện với người dùng.
2. Đức
Đầu những năm 2000, việc xét xử qua video đã được đưa ra áp dụng tại Đức. Các phiên xét xử video tại các Tòa án đã được giới thiệu vào năm 1998 để bảo vệ nhân chứng trong các phiên tòa hình sự. Điều 128a của Bộ luật Tố tụng dân sự đã tạo ra cơ sở pháp lý, các quy định tương tự đã được quy định trong các Luật Tố tụng Hành chính và Gia đình. Tuy nhiên, trong thủ tục tố tụng hình sự, chỉ có nhân chứng mới có thể tham gia trực tuyến từ xa, một cách tiếp cận khá khác so với các quy định ở các nước châu Âu khác. Mặc dù đã có cơ sở pháp lý, nhưng các cuộc xét xử trực tuyến không được sử dụng nhiều trước đại dịch Covid ở Đức, tuy nhiên, quốc gia này có một số kinh nghiệm về các phiên xét xử trực tuyến tại các Tòa án thuế khi các bên và Tòa án sử dụng nền tảng “Máy chủ Truyền thông Video của Cisco (VCS)”.
Ở Đức không yêu cầu sự chấp thuận về mặt pháp lý (tương tự như ở Ireland, San Marino và Tây Ban Nha), Tòa án có thể quyết định tổ chức một phiên xét xử từ xa theo đơn của một bên hoặc thậm chí chính thức. Tuy nhiên, trên thực tế, một cuộc xét xử trực tuyến không được tiến hành trái với mong muốn của các bên. Trong tố tụng hình sự, các phiên xét xử trực tuyến được giới hạn trong việc nghe các nhân chứng trình bày. Ngoài ra, thường có những quy tắc đặc biệt trong tố tụng hình sự và mong muốn của các bên được cân nhắc.
Nền tảng công nghệ chính được Tòa án ở Đức sử dụng là CISCO Webex. Tại Diễn đàn Thường trực Quốc tế về các Tòa án Thương mại đã đưa ra một bản ghi nhớ vào tháng 5/2020 để hỗ trợ các Tòa án trong việc lựa chọn và sử dụng các nền tảng kỹ thuật. Trong việc chọn một nền tảng cho các cuộc xét xử video, bảo mật dữ liệu có tầm quan trọng đặc biệt. Do đó, ở Đức các hệ thống này được sử dụng trên các máy chủ riêng của Tòa án (tại cơ sở). Các Tòa án đã tuân thủ cách hiểu truyền thống về “phiên xét xử công khai” liên quan đến phiên xét xử trực tuyến. Các Thẩm phán chỉ có thể tiến hành các phiên xét xử trực tuyến từ phòng xử án của họ, phòng xử án phải được công khai. Về mặt kỹ thuật, có thể dễ dàng phát trực tiếp các phiên xét xử và do đó cho phép một số lượng lớn công dân quan tâm đến xem. Việc sử dụng các ứng dụng được quản lý tại Đức hoặc Liên minh Châu Âu là khuyến khích, vì các ứng dụng này trực tiếp tuân theo các quy định bảo vệ dữ liệu của Liên minh Châu Âu.
3. Ý
Ở Ý, sự nguy hiểm của các phiên tòa xét xử Mafia những năm 1990 đã ảnh hưởng đáng kể đến việc phát triển và sử dụng các phiên xử trực tuyến qua video tại các Tòa án. Các quy định pháp luật khác nhau cho phép xét xử trực tuyến qua video đã được sử dụng trong cơ quan tư pháp Ý trong hơn 20 năm. Bộ Tư pháp Ý cung cấp các hệ thống nghe nhìn an toàn phục vụ cho hoạt động của Tòa án.
Kể từ năm 1992, Điều 147 Bộ luật Tố tụng hình sự Ý quy định “cộng tác viên”, các đặc vụ chìm và những người khác có thể phải đối mặt với nguy cơ gây áp lực hoặc nguy hiểm cho sự an toàn của họ và gia đình, do vậy họ có thể làm chứng thông qua công nghệ trực tuyến. Trong trường hợp này, Thẩm phán sau khi cân nhắc mọi mặt có thể quyết định xét xử video mà không cần sự đồng ý của họ. Tại nơi nhân chứng có mặt, một cán bộ sẽ được bố trí để đảm bảo tính thường xuyên của việc kiểm tra chéo.
Tòa án Hiến pháp được kêu gọi để ra phán quyết về tính hợp pháp của phương pháp thẩm tra chéo (từ xa) này, cho rằng quy định của luật phù hợp với Hiến pháp và các nguyên tắc của thủ tục tố tụng[6]. Cuộc chiến chống tội phạm có tổ chức trong các phiên tòa xét xử Mafia những năm 1990 không chỉ cho thấy sự cần thiết phải bảo vệ nhân chứng mà còn cho thấy lợi thế của việc không chuyển tội phạm nguy hiểm từ nhà tù an toàn đến phòng xử án. Từ năm 1998, Luật tố tụng hình sự của Ý đã quy định rằng trong các phiên tòa xét xử tội phạm có tổ chức hoặc khủng bố, các bị cáo bị giam trong tù được tham gia bằng hội nghị truyền hình[7]. Hội nghị truyền hình được thực hiện bằng cách kích hoạt đường truyền truyền hình giữa nơi giam giữ bị can và phòng xử án. Hơn nữa, một bị can bị giam giữ ở nước ngoài không thể được chuyển đến Ý cũng có thể tham dự phiên xét xử hình sự thông qua hội nghị truyền hình [8].
Cơ sở pháp lý cho các cuộc xét xử trực tuyến đã được đưa ra trước đại dịch, luật đã được sửa đổi để thích ứng trong thời gian đại dịch Covid-19. Các quy tắc tố tụng được áp dụng sau trường hợp khẩn cấp về y tế trong đại dịch Covid-19 đã mở rộng khả năng sử dụng xét xử trực tuyến trong các phiên tòa hình sự. Đặc biệt, Luật 27/2020 quy định rằng từ ngày 09/3/2020 đến ngày 30/6/2020 (thời hạn sau đó kéo dài đến ngày 31/7/2020), các phiên xét xử hình sự không có sự tham gia của nhân chứng mà không phải là cảnh sát tư pháp thì có thể được tổ chức thông qua các kết nối từ xa được do Bộ Tư pháp quyết định.
Nếu không có sự đồng ý của người bị buộc tội, những quy định này không áp dụng đối với các phiên xét xử chung thẩm và đối với những phiên tòa mà nhân chứng, các bên, nhà tư vấn và chuyên gia cần được thẩm tra lời khai. Trong đợt đại dịch thứ hai, các quy định tương tự đã được thông qua vào cuối tháng 10/2020 có hiệu lực cho đến ngày 31/1/2021. Nếu cần thiết, các quy tắc này có thể được gia hạn thêm. Tại Tòa Giám đốc thẩm Tối cao hầu hết các phiên tòa xét xử, dân sự và hình sự, đều được tổ chức trực tuyến. Các vụ án dân sự vẫn được xét xử trực tiếp, nhưng các phiên xét xử công khai về hình sự thường được tổ chức trực tuyến trên cơ sở kháng cáo được nộp và kết tội bằng văn bản của công tố viên, trừ khi Bộ trưởng Tư pháp hoặc người bào chữa yêu cầu một phiên xét xử trực tiếp.
Kết luận
Cho đến nay, những trải nghiệm tích cực đã được báo cáo từ các quốc gia khác nhau, hều hết đều đồng ý rằng các cuộc xét xử trực tuyến đã tăng lên đáng kể vì đại dịch. Các Thẩm phán đồng tình rằng sự sẵn có của thiết bị kỹ thuật phù hợp và kết nối internet tốt là yếu tố quan trọng quyết định sự thành công của các phiên xét xử trực tuyến. Tuy nhiên, ngoài các vấn đề kỹ thuật, các mối đe dọa tiềm ẩn đối với chất lượng của phiên xét xử và các rủi ro có thể xảy ra đối với quyền xét xử công bằng, đặc biệt là quyền bào chữa cũng được đề cập. Một phiên xét xử nên cung cấp một không gian được kiểm soát bởi Thẩm phán để bằng chứng có thể được thu thập và đánh giá một cách thích hợp. Trong các phiên xét xử trực tuyến, các Thẩm phán có ít quyền kiểm soát hơn đối với giao tiếp phi ngôn ngữ giữa các bên và nhân chứng. Các Thẩm phán coi các phiên xét xử từ xa là cần thiết trong thời kỳ đại dịch nhưng không thích hợp hơn các phiên xét xử trực tiếp.
Trong một cuộc khảo sát các đại biểu tham dự Hội nghị tư pháp trực tuyến do Bộ trưởng trưởng Tư pháp Cộng hòa liên bang Đức tổ chức ngày 08/12/2020, 70% đại biểu cho rằng trong vòng 3 năm tới việc xét xử trực tuyến qua video sẽ phổ biến toàn châu Âu [9]. Bên cạnh đó, những năm gần đây, một số quốc gia đã hướng tới phương cách “Xét xử trực tuyến/qua video” không chỉ đơn giản là nộp đơn kiện/hồ sơ vụ án qua phương tiện điện tử mà còn sửa đổi luật của mình để áp dụng cách xét xử trực tuyến. Tuy nhiên, ngay từ khi đưa ra áp dụng quy định này, các chuyên gia, nhà nghiên cứu và giới Luật sư…đã nêu vấn đề như quyền xét xử bình đẳng và quyền tiếp cận công nghệ.
Ở một số quốc gia, các phiên xét xử trực tuyến được coi là một công cụ quan trọng cho ngành tư pháp không chỉ trong đại dịch mà còn trong tương lai. Trong chặng đường phía trước, cần có nhiều nghiên cứu và thảo luận để phát triển các quy tắc và hỗ trợ kỹ thuật nhằm phát triển các phiên xét xử video thành một nơi - mặc dù không phải là một nơi thực tế - nơi công lý có thể được thực hiện.
[1] Điều 90 của Hiến pháp Áo [2] Điều 165 Luật tố tụng hình sự của Áo [3] https://edition.cnn.com/2021/02/09us/cat/filter-lawyer-zoom-court [4] Điều 21 khoản 3 của Đạo luật phòng chống Covid [5] Điều 21 Luật ứng phó đại dịch covid 19 [6] Bản án No 342 22/7/1999 [7] Điều 146 của Bộ luật tố tụng hình sự có sửa đổi bổ sung 11/1998 và điều 134 của Bộ luật tố tụng hình sự ban hành tháng 4/2011 [8] Điều 205 về thực hiện quy định của Bộ luật tố tụng hình sự [9] https:www.iacajournal.org/article |
Luật gia THANH TÙNG
Tạp chí Tòa án nhân dân
Cần xử lý nghiêm những vi phạm trong đấu giá đất
6. Lợi dụng tư cách nhà báo, phóng viên để trục lợi bị phạt đến 50 triệu đồng
(LSVN) - Nghị định mới đã nâng mức phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng trước đây lên từ 30.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng đối với hành vi lợi dụng tư cách nhà báo, phóng viên để trục lợi.
![]()
Chính phủ vừa ban hành Nghị định 14/2022/NĐ-CP trong đó có nội dung sửa đổi, bổ sung một số điều Nghị định số 119/2020/NĐ-CP ngày 07/10/2020 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động báo chí, hoạt động xuất bản.
Theo đó, Nghị định 14/2022/NĐ-CP đã sửa đổi, bổ sung tên gọi của Nghị định số 119/2020/NĐ-CP thành: “Nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động báo chí, hoạt động xuất bản và hoạt động in sản phẩm không phải là xuất bản phẩm”.
Đáng chú ý, trước đây tại khoản 2 Điều 6 quy định phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng nay Nghị định 14/2022/NĐ nâng mức phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với một trong các hành vi như: mạo danh nhà báo, phóng viên; lợi dụng tư cách nhà báo, phóng viên can thiệp, cản trở hoạt động đúng pháp luật của tổ chức, cá nhân; sử dụng thẻ nhà báo đã bị sửa chữa, tẩy xóa để hoạt động báo chí;
Nghị định mới đã nâng mức phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng trước đây lên từ 30.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng đối với hành vi lợi dụng tư cách nhà báo, phóng viên để trục lợi.
Bên cạnh đó, đối với vi phạm quy định về giấy phép, Nghị định 14/2022/NĐ-sửa đổi, bổ sung một số khoản của Điều 5 theo hướng nâng mức xử phạt tiền lên cao hơn so với quy định cũ. Cụ thể, sửa đổi, bổ sung khoản 4 như sau: phạt tiền từ 60.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng. Trước đây mức xử phạt là từ 30.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng) đối với hành vi xuất bản thêm ấn phẩm báo chí, phụ trương, mở chuyên trang đối với báo điện tử, tạp chí điện tử; sản xuất thêm kênh phát thanh, kênh truyền hình mà không có giấy phép.
Sửa đổi, bổ sung khoản 5 như sau: phạt tiền từ 300.000.000 đồng đến 400.000.000 đồng (trước đây là 140.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng) đối với hành vi hoạt động báo in, tạp chí in, báo nói, báo hình, báo điện tử, tạp chí điện tử không có giấy phép hoạt động báo chí theo quy định trừ trường hợp quy định tại điểm c khoản 3 Điều này.
Bổ sung khoản 7 vào sau khoản 6 như sau: biện pháp khắc phục hậu quả: buộc nộp lại giấy phép hoạt động báo chí đối với hành vi vi phạm quy định tại điểm a khoản 3 Điều này; buộc thu hồi tên miền đối với hành vi sử dụng tên miền không đúng trong giấy phép hoạt động báo chí quy định tại điểm b khoản 3 Điều này; buộc thu hồi tên miền “.vn” đối với hành vi vi phạm tại khoản 5 Điều này.
Về vi phạm quy định về hoạt động báo chí, sử dụng thẻ nhà báo, Nghị định 14/2022/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số khoản của Điều 6. Cụ thể tại điểm e khoản 1, ngoài “Nhà báo” nay bổ sung thêm cụm từ “phóng viên” vào thành: “Nhà báo, phóng viên hoạt động báo chí không đúng tôn chỉ, mục đích ghi trong giấy phép hoạt động báo chí của cơ quan báo chí đang công tác”;
Bổ sung điểm g vào sau điểm e khoản 1 như sau: người đứng đầu cơ quan báo chí có hành vi yêu cầu hoặc giao quyền cho cấp dưới có hành vi yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp thông tin không đúng tôn chỉ, mục đích ghi trong giấy phép hoạt động báo chí;
Nghị định 14/2022/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 27/01/2022.
TIẾN HƯNG
Đề nghị xem xét việc xét nghiệm Covid-19 với trẻ em đi máy bay
7. Trầm cảm sau sinh sát hại con nhỏ: Cần sớm có giải pháp khắc phục
(LSVN) - Bất cứ hành vi nào sát hại trẻ em cũng là đáng trách, đáng lên án, có thể còn gọi đó là tội ác. Tuy nhiên, không phải trường hợp nào cũng có thể xử lý bằng chế tài hình sự và chế tài hình sự cũng không phải là giải pháp tích cực đối với những vụ việc mẹ sát hại con đẻ vì trầm cảm sau sinh.
![]()
Ảnh minh họa.
Pháp luật Việt Nam bảo vệ tính mạng, sức khỏe của mọi công dân, hành vi tước đoạt tính mạng trái pháp luật của người khác là hành vi vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, chế tài hình sự chỉ có thể áp dụng đối với những người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội (tước đoạt trái pháp luật tính mạng của người khác) mà nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm nhưng vẫn cố ý hoặc vô ý thực hiện hành vi. Còn đối với những trường hợp thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội như sát hại người khác nhưng không nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm do mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm mất khả năng nhận thức, khả năng điều khiển hành vi thì không được coi là tội phạm. Trong trường hợp người mắc bệnh tâm thần hoặc người khác bệnh khác làm mất khả năng nhận thức, khả năng điều khiển hành vi dẫn đến thực hiện hành vi giết người thì trường hợp này được loại trừ trách nhiệm hình sự, không bị xử lý về tội giết người nhưng sẽ bị bắt buộc chữa bệnh.
Còn trường hợp thực hiện hành vi tước đoạt tính mạng của người khác sau đó mới mắc bệnh tâm thần làm mất khả năng nhận thức thì sẽ bị bắt buộc chữa bệnh, sau khi khỏi bệnh sẽ xử lý hình sự. Người thực hiện hành vi tước đoạt tính mạng của người khác một cách trái pháp luật do sử dụng ma túy, sử dụng rượu bia hoặc các chất kích thích khác thì vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội giết người. Đây là vấn đề lý luận về chủ thể của tội phạm mà bộ luật hình sự đã quy định. Cụ thể bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định như sau:
"Điều 13. Phạm tội do dùng rượu, bia hoặc chất kích thích mạnh khác
Người phạm tội trong tình trạng mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình do dùng rượu, bia hoặc chất kích thích mạnh khác, thì vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự.".
"Điều 21. Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự
Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự.".
Trầm cảm sau sinh là một hiện tượng bệnh lý ở phụ nữ sau khi sinh đẻ. Dưới góc độ y học và tâm lý học thì "Trầm cảm" là chứng bệnh về tâm thần học do sự rối loạn hoạt động của não bộ gây ra. Các biến chứng bất thường trong tâm lý đã tạo ra nhiều biến đổi bất thường trong suy nghĩ, hành vi và biểu hiện.
Người bị trầm cảm có thể xảy ra bất cứ lúc nào, bất cứ độ tuổi nào. Nguyên nhân của trầm cảm có thể do áp lực cuộc sống, do thay đổi nội tiết tố, những biến đổi cơ thể trong thai kỳ và sau khi sinh, cũng có thể do môi trường, cuộc sống hoặc do bệnh lý gây ra. Đặc biệt là phụ nữ trẻ, sau khi sinh con mà chịu nhiều áp lực trong cuộc sống, không được chia sẻ, tâm lý không thoải mái thì cũng rất dễ bị trầm cảm sau sinh. Mức độ nhẹ thì có thể hay quên, đãng trí, tâm tính thay đổi, dễ cáu gắt, dễ tổn thương. Mức độ nặng thì có thể hạn chế hoặc mất khả năng nhận thức, khả năng điều khiển hành vi dẫn đến tự sát, sát hại con, hủy hoại tài sản hoặc gây tổn thương cơ thể người khác...
Theo nghiên cứu của các nhà khoa học y khoa thì trầm cảm chia làm ba giai đoạn. Giai đoạn 1: Người bệnh sẽ cảm thấy buồn chán, buồn chán không lý do; Bản thân không muốn làm gì; Cảm thấy cạn kiệt hết năng lượng; Bỏ hết những đam mê, sở thích; Bản thân không tự nhận thức được là mình có bệnh; Dần tách biệt với gia đình, bạn bè, đồng nghiệp, xã hội và thế giới xung quanh; Muốn xa lánh mọi thứ và thích ở 1 mình.
Nếu có những biểu hiện nêu trên thì người bệnh cần phải đi khám bác sĩ, có những liệu pháp điều trị theo hướng dẫn của bác sĩ, cần phải thư giản, cần được quan tâm chia sẻ, giúp đỡ nhiều hơn để tâm lý, sức khỏe dần dần hồi phục.
Trường hợp những người có biểu hiện bệnh lý ở giai đoạn 1 mà không được phát hiện, chữa trị kịp thời, vẫn duy trì cuộc sống, lối sống như cũ thì tình hình có thể diễn biến phức tạp hơn, sẽ chuyển sang giai đoạn hai.
Giai đoạn 2: Người bệnh sẽ cảm thấy sợ hãi, uể oải, thiếu sức sống; Muốn buông xuôi mọi thứ; Không muốn suy nghĩ hay làm việc; Sợ người lạ, đám đông, sợ cả những người thân thiết; Xuất hiện những nỗi sợ hãi chưa xuất hiện như: sợ bóng đêm, sợ sâu, sợ ánh sáng; Xuất hiện ảo tưởng; Cau có, nổi giận vô cớ, cáu giận; Khó ngủ, mất ngủ, ngủ không sâu giấc; Cảm thấy không ai hiểu và không có ai giúp được mình; Mất niềm tin với người thân, bạn bè, đồng nghiệp, xã hội xung quanh; Không dám đối mặt với hiện tại; Biết bản thân có bệnh nhưng không tin tưởng ai.
Với những biểu hiện bệnh lý như thế này thì cần phải nhập viện điều trị, cần phải sinh hoạt theo chế độ của bác sĩ đồng thời có sự can thiệp bởi các loại thuốc và các trị liệu về tâm thần. Trường hợp không được can thiệp, điều trị kịp thời thì tình trạng bệnh sẽ tiến triển nặng hơn lúc đó sẽ chuyển sang giai đoạn ba.
Giai đoạn 3: Người bệnh luôn cảm thấy tuyệt vọng; mất hết niềm tin vào bản thân, con người, cuộc sống, xã hội; Cảm thấy bản thân vô dụng
Có xu hướng làm hại bản thân (tự sát); Xuất hiện hoang tưởng, cảm thấy không có lối thoát; Không muốn nghĩ đến quá khứ, tương lai

Luật sư Đăng Văn Cường, Trưởng Văn phòng Luật sư Chính pháp.
Tiêu cực, cảm thấy mặc cảm, tội lỗi và nghĩ đến cái chết; Ngủ li bì hoặc khó ngủ hơn bình thường, mất ngủ kéo dài; Cảm giác ám ảnh bởi bệnh tật; Thường nghĩ đến cái chết 5-7 lần/ tuần.
Những trường hợp người mẹ sát hại con sau sinh thường là người bị trầm cảm ở giai đoạn ba. Mức độ nhận thức của người bệnh không ổn định, có lúc nhận thức lơ mơ, có khi không nhận thức được hành vi, suy nghĩ của mình. Nếu thời điểm không nhận thức được hành vi của mình thì họ có thể thực hiện hành vi tự sát hoặc sát hại con mình, đập phá tài sản, đốt nhà hoặc có những hành vi gây tổn thương cho những người xung quanh...
Thông thường thì phụ nữ sinh con xong sẽ rất yêu thương con mình, luôn có những phản xạ cần thiết để bảo vệ và chăm sóc đứa trẻ. Có thể nói rằng không ai yêu thương trẻ em hơn người đã sinh ra chúng. Không người phụ nữ nào bình thường mà lại ghét bỏ đứa con mới sinh của mình. Bởi vậy, trường hợp người phụ nữ không có mâu thuẫn gì với chồng, với gia đình nhà chồng mà thầy ra tay sát hại con mình thì thường là người bị bệnh trầm cảm, mất khả năng nhận thức, khả năng điều khiển hành vi. Bởi vậy, khi xảy ra những vụ việc mẹ sát hại con đẻ là trẻ sơ sinh như vậy thì cơ quan điều tra sẽ tính đến chuyện có thể xảy ra trường hợp phụ nữ trầm cảm sau sinh thực hiện hành vi giết người. Nếu có những biểu hiện bất thường thì cơ quan điều tra có thể trưng cầu giám định tâm thần để xác định khả năng nhận thức, khả năng điều khiển hành vi trước, trong và sau khi thực hiện hành vi phạm tội.
Trường hợp kết quả giám định tâm thần cho thấy tại thời điểm thực hiện hành vi giết hại đứa trẻ mà người phụ nữ đó bị mắc bệnh tâm thần (do trầm cảm sau sinh) đến mức mất khả năng nhận thức thì thuộc trường hợp được loại trừ trách nhiệm hình sự, cơ quan điều tra sẽ không xử lý hình sự đối với người này mà sẽ bắt buộc chữa bệnh theo thủ tục hành chính.
Người trầm cảm sau sinh không chỉ sát hại trẻ em mà còn có thể tự sát, đốt nhà, đập phá tài sản và sát hại những người trong nhà. Đây là một dạng bệnh lý nguy hiểm và ngày càng phổ biến do nhiều yếu tố về thay đổi tâm sinh lý, áp lực đời sống, áp lực công việc và những mâu thuẫn trong gia đình... Bởi vậy, nếu không phát hiện, điều trị, ngăn chặn kịp thời thì hậu quả mà người phụ nữ trầm cảm sau sinh gây ra đối với bản thân và xã hội sẽ rất nghiêm trọng.
Qua nghiên cứu về tâm lý tội phạm và các giải pháp phòng ngừa tội phạm thì chúng tôi thấy rằng đa phần những người phụ nữ bị trầm cảm sau sinh là phụ nữ trẻ, mới sinh đứa con đầu lòng hoặc đứa con thứ hai, cuộc sống khó khăn, bế tắc, vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi vã, ít có sự sẻ chia. Khi có biểu hiện bệnh lý, đặc biệt là mất ngủ nhiều ngày, chán ăn, tâm lý chán nản, hay cáu gắt, hay nổi nóng thì nhiều người chủ quan, không đi thăm khám, điều trị, thậm chí mâu thuẫn trong gia đình ngày càng căng thẳng khiến người bệnh ngày càng trầm trọng hơn. Người bệnh có trạng thái tâm lý bất thường, lúc tỉnh, lúc mê, khó nhận biết nên nếu gia đình không có kinh nghiệm, không quan tâm thì khó phát hiện để điều trị, ngăn chặn kịp thời. Một đặc điểm cũng cần lưu ý là người tâm thần thường không bao giờ thừa nhận mình mắc bệnh, việc thăm khám, điều trị với những người có biểu hiện tâm thần phải hết sức tế nhị, nhẹ nhàng, theo hướng dẫn chỉ dẫn của bác sĩ thì mới hiệu quả.
Những vụ việc người mẹ trầm cảm sau sinh sát hại con mình rồi tự sát xảy ra ngày càng nhiều cho thấy đó là vấn đề xã hội cần phải nghiên cứu kỹ lưỡng và có những giải pháp để kiểm soát tình trạng này, giảm bớt những vụ việc đau lòng xảy ra trong đời sống xã hội trước đi tính mạng của những đứa trẻ vô tội còn quá nhỏ bé.
Để giảm thiểu những vụ việc phụ nữ trầm cảm sau sinh tự sát, sát hại con mình hoặc gây tổn hại đến những người xung quanh thì cần phải phổ biến kiến thức cho các cặp vợ chồng trẻ để họ dễ dàng nhận biết biểu hiện của người trầm cảm sau sinh. Khi phát hiện ra trường hợp trầm cảm sau sinh thì cần phải có những can thiệp, hỗ trợ kịp thời về mặt tâm lý và y khoa. Ngoài ra, những người chồng, gia đình nhà chồng, những người chung sống với phụ nữ sau sinh cần phải có những quan tâm, chia sẻ, cảm thông và giúp đỡ người phụ nữ sau sinh, kịp thời động viên và hạn chế đến mức thấp nhất những áp lực về tinh thần đối với họ để giảm bớt căng thẳng về thần kinh, những lo lắng không đáng có trong đời sống.
Phụ nữ trầm cảm sau sinh thường là do thay đổi tâm sinh lý lúc sinh con, do lo lắng về việc nuôi dạy, chăm sóc trẻ nhỏ, thiếu kiến thức kỹ năng cần thiết trong việc chăm sóc trẻ em phải bị áp lực về kinh tế, về các mối quan hệ trong cuộc sống mới sau kết hôn nên nguy cơ trầm cảm sau sinh ngày càng cao. Cuộc sống hiện đại, áp lực về đời sống kinh tế ngày càng cao nên nguy cơ phụ nữ bị trầm cảm sau sinh càng nhiều. Thêm vào đó là việc giáo dục kỹ năng sống cho thanh thiếu niên, đặc biệt là kỹ năng trong đời sống hôn nhân chưa thực sự có hiệu quả dẫn đến nhiều trường hợp phụ nữ sau sinh bị động, bị áp lực rất nhiều trong đời sống làm ảnh hưởng đến tâm lý, sức khỏe và dễ dẫn đến trầm cảm sau sinh.
Dưới góc độ pháp lý thì nếu phụ nữ do bực tức mà sát hại con mình thì sẽ bị xử lý hình sự về tội giết người. Còn trường hợp sát hại con mình do bị bệnh tâm thần, vì trầm cảm sau sinh dẫn đến mất khả năng nhận thức thì không bị truy cứu trách nhiệm hình sự nhưng sẽ bị bắt buộc chữa bệnh. Dù là xử lý hình sự hay bắt buộc chữa bệnh thì hậu quả trẻ em bị sát hại đã xảy ra rồi mà nguyên nhân trước đó là một quá trình diễn biến đời sống tâm lý bất thường. Bởi vậy để giảm thiểu nhữngVụ việc đau lòng như vậy, để bảo vệ tính mạng của trẻ em cũng như tính mạng sức khỏe của những người xung quanh thì cần phải có những kiến thức, hiểu biết cần thiết về vấn đề này phải cần trang bị những kỹ năng cho các bạn trẻ để kịp thời ứng phó, xử lý đối với các tình huống có dấu hiệu trầm cảm phát sinh.
Luật sư ĐẶNG VĂN CƯỜNG
Trưởng Văn phòng Luật sư Chính pháp
Cần xử lý nghiêm những vi phạm trong đấu giá đất
8.

