TRỰC THỨ 6

07/10/2022 02:23 | 2 năm trước

CHIỀU

1. Các lĩnh vực người có chức vụ, quyền hạn không được thành lập sau khi thôi giữ chức vụ

(LSVN) - Ngày 03/10/2022, Bộ trưởng Bộ Tài chính ban hành Thông tư 60/2022/TT-BTC quy định về danh mục các lĩnh vực và thời hạn người có chức vụ, quyền hạn không được thành lập, giữ chức danh, chức vụ quản lý, điều hành doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh, hợp tác xã thuộc lĩnh vực trước đây mình có trách nhiệm quản lý sau khi thôi giữ chức vụ trong lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của Bộ Tài chính.

Ảnh minh họa.

Theo đó, Điều 5 Thông tư nêu rõ danh mục các lĩnh vực người có chức vụ, quyền hạn không được thành lập, giữ chức danh, chức vụ quản lý, điều hành doanh nghiệp, hợp tác xã thuộc lĩnh vực trước đây mình có trách nhiệm quản lý sau khi thôi giữ chức vụ.

Cụ thể, các lĩnh vực người có chức vụ, quyền hạn không được thành lập, giữ chức danh, chức vụ quản lý, điều hành doanh nghiệp, hợp tác xã thuộc lĩnh vực trước đây mình có trách nhiệm quản lý sau khi thôi giữ chức vụ bao gồm:

- Quản lý nhà nước về kế toán, kiểm toán.

- Quản lý nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán.

- Quản lý nhà nước về bảo hiểm.

- Quản lý nhà nước về hải quan.

- Quản lý nhà nước về giá.

- Quản lý nhà nước về thuế, phí, lệ phí và các khoản thu khác của ngân sách nhà nước.

- Quản lý nhà nước về tài chính doanh nghiệp và quản lý vốn của Nhà nước tại doanh nghiệp.

- Quản lý nhà nước về dự trữ quốc gia.

- Quản lý vay nợ, trả nợ trong nước, ngoài nước của Chính phủ, nợ công, nợ nước ngoài của quốc gia và nguồn viện trợ quốc tế cho Việt Nam và nguồn cho vay, viện trợ của Việt Nam cho nước ngoài.

- Quản lý nhà nước về ngân sách nhà nước.

- Quản lý nhà nước về tài sản công.

Trong thời hạn đủ 24 tháng kể từ ngày thôi giữ chức vụ theo quyết định của cấp có thẩm quyền, người có chức vụ, quyền hạn công tác trong các lĩnh vực quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8 và khoản 9 Điều 5 Thông tư này không được thành lập, giữ chức danh, chức vụ quản lý, điều hành doanh nghiệp, hợp tác xã thuộc lĩnh vực trước đây mình có trách nhiệm quản lý.

Trong thời hạn đủ 12 tháng kể từ ngày thôi giữ chức vụ theo quyết định của cấp có thẩm quyền, người có chức vụ, quyền hạn công tác trong các lĩnh vực quy định tại khoản 10 và khoản 11 Điều 5 Thông tư này không được thành lập, giữ chức danh, chức vụ quản lý, điều hành doanh nghiệp, hợp tác xã thuộc lĩnh vực trước đây mình có trách nhiệm quản lý.

Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 17 tháng 11 năm 2022.

DUY ANH

Đề xuất công khai các thông tin về bất động sản đưa vào kinh doanh

2. Hướng dẫn làm sạch mã độc trên máy tính với phần mềm chống mã độc miễn phí

(LSVN) - Trung tâm Giám sát an toàn không gian mạng quốc gia (NCSC), thuộc Cục An toàn thông tin, Bộ Thông tin và Truyền thông vừa hướng dẫn người dùng Internet thực hiện 5 bước để tham gia cùng các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp trong “Chiến dịch làm sạch mã độc trên không gian mạng năm 2022”, góp phần bảo vệ an toàn cho không gian mạng Việt Nam cũng như giúp giảm thiểu các cuộc tấn công mạng diện rộng.

Ảnh minh họa.

Bước 1. Chọn tham gia chiến dịch

Người dùng truy cập vào trang khonggianmang.vn/chiendichmadoc2022. kích nút “Tham gia ngay”.

Bước 2. Kiểm tra mức độ an toàn mạng

Để kiểm tra mức độ an toàn mạng, người dùng bấm vào nút “Quét”. 

Khi đó, các chuyên gia NCSC sẽ giúp người dùng kiểm tra mã độc mức mạng trên thiết bị kết nối Internet và xác minh xem mạng đang dùng có nằm trong cơ sở dữ liệu mạng máy tính ma (botnet) hay không. 

Đồng thời, rà soát điểm yếu, lỗ hổng của trình duyệt và hệ điều hành. Với bước này, người dùng có thể phát hiện máy tính, thiết bị kết nối Internet đang sử dụng có bị lộ lọt dữ liệu hay không.

Thời gian rà quét có thể trong vài giây đến vài phút, tùy thuộc vào tốc độ đường truyền Internet và cấu hình máy tính, thiết bị. 

Hệ thống sẽ hiển thị thông tin kết quả rà quét với các tiêu chí gồm: thông tin về địa chỉ mạng (IP); mức độ an toàn của Hệ điều hành được cài đặt trên máy tính, thiết bị; mức độ an toàn của trình duyệt được sử dụng để vào Internet; mức độ lộ lọt dữ liệu trong 30 ngày kể từ thời điểm rà quét; mức độ an toàn của mạng máy tính được sử dụng. 

Bước 3. Kiểm tra mã độc sử dụng công cụ rà quét chuyên sâu 

Sau khi hoàn thành bước 2, người dùng bấm vào nút “Tiếp” để chuyển sang kiểm tra mã độc sử dụng công cụ rà quét chuyên sâu.

Đây là bước người dùng tải và cài đặt các phần mềm, công cụ diệt virus, mã độc có bản quyền được sử dụng miễn phí trong thời gian diễn ra chiến dịch. Người dùng có thể bỏ qua bước này, chuyển sang bước sau nếu đã cài đặt phần mềm, công cụ diệt virus có bản quyền trên máy tính, thiết bị và việc rà quét được thực hiện thường xuyên. 

Người dùng kích nút “Tải xuống” để lưu về máy 1 trong 3 phần mềm, công cụ rà quét mã độc miễn phí của Bkav, CMC, Kaspersky và thực hiện việc cài đặt, quét virus, mã độc.

Việc cài đặt được thực hiện theo hướng dẫn của từng phần mềm, công cụ. Quá trình quét virus, mã độc mất khoảng vài phút đến 1, 2 giờ tùy thuộc vào lượng thông tin, dữ liệu được chọn rà quét.

Bước 4. Xác nhận hoàn thành và phản ảnh kết quả 

Đây là bước người dùng thông tin lại kết quả thực hiện việc rà quét. Kích chọn phương án trả lời hệ thống đưa ra dựa trên kết quả rà quét vừa làm.

Kết thúc quá trình phản ảnh kết quả, người dùng bấm nút “Tiếp” để chuyển sang bước tiếp theo.

Bước 5. Chia sẻ chiến dịch

Bước cuối cùng này nhằm mục đích lan tỏa “Chiến dịch làm sạch mã độc trên không gian mạng năm 2022” trong cộng đồng. Người dùng có thể chia sẻ, lan tỏa chiến dịch thông qua mạng xã hội đến người thân, bạn bè bằng việc kích chọn mục "Chia sẻ Facebook".

Ngoài ra, chuyên gia Cục An toàn thông tin khuyến nghị người dùng trong trường hợp phát hiện các mẫu mã độc mới, website thực hiện phát tán mã độc, máy chủ điều khiển mã độc từ Việt Nam… cần kích chọn mục Báo cáo trang phát tán mã độc để gửi cảnh báo về Trung tâm Giám sát an toàn không gian mạng quốc gia. 

Trước đó, trong tháng 9/2022, Bộ Thông tin và Truyền thông đã phát động "Chiến dịch làm sạch mã độc trên không gian mạng năm 2022". Đây là hoạt động hưởng ứng Ngày Chuyển đổi số quốc gia 10/10. Với chiến dịch này, các phần mềm phòng, chống mã độc được cung cấp hoàn toàn miễn phí và bất kỳ ai cũng có thể tham gia qua Cổng không gian mạng quốc gia tại địa chỉ khonggianmang.vn.

PV

Đề xuất công khai các thông tin về bất động sản đưa vào kinh doanh

3.  Đề xuất bổ sung quy định dịch vụ công trực tuyến về tài nguyên nước

(LSVN) - Bộ Tài nguyên và Môi trường đang dự thảo Luật Tài nguyên nước (sửa đổi). Trong đó, bộ đề xuất bổ sung quy định dịch vụ công trực tuyến về tài nguyên nước.

Ảnh minh họa.

Cụ thể, Bộ Tài nguyên và Môi trường đề xuất bổ sung mới Điều 10 về dịch vụ công trực tuyến về tài nguyên nước vào dự thảo luật.

Dự thảo nêu rõ, các dịch vụ công trực tuyến về tài nguyên nước gồm dịch vụ hành chính công về tài nguyên nước, dịch vụ cung cấp, khai thác thông tin về tài nguyên nước và dịch vụ công khác về tài nguyên nước theo quy định của pháp luật.

Việc cung cấp dịch vụ công trực tuyến về tài nguyên nước được quy định như sau: Cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền cung cấp dịch vụ công trực tuyến về tài nguyên nước theo quy định của Chính phủ bảo đảm kết nối, liên thông, thuận tiện, đơn giản, an toàn cho cơ quan, tổ chức, cá nhân và phục vụ công tác quản lý nhà nước về tài nguyên nước.

Các hình thức xác nhận của nhà nước với quyền và nghĩa vụ của tổ chức cá nhân sử dụng tài nguyên nước được thực hiện trên hồ sơ số và xác thực điện tử. Các giao dịch về tài nguyên nước trên môi trường điện tử có tính pháp lý và được pháp luật bảo hộ.

Bộ Tài nguyên và Môi trường, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm xây dựng, tổ chức, hướng dẫn triển khai dịch vụ công trực tuyến về tài nguyên nước, bảo đảm tính đồng bộ, kết nối, liên thông theo quy định của pháp luật.

THU HƯƠNG

Thu hồi 13 loại thuốc sản xuất từ nguồn nguyên liệu giả mạo

4. Đối tượng vờ mua vàng rồi bỏ chạy ở Hà Nội sẽ bị xử lý về tội gì?

(LSVN) - Công an quận Nam Từ Liêm, Hà Nội đang điều tra vụ cướp tiệm vàng xảy ra trên phường Mỹ Đình 2. Thông tin ban đầu, vào chiều ngày 04/10, một đối tượng nam vào cửa hàng vàng trên địa bàn phường Mỹ Đình 2, vờ mua rồi cầm vàng bỏ chạy. Vậy, theo quy định của pháp luật, đối tượng vờ mua vàng rồi bỏ chạy ở Hà Nội sẽ bị xử lý về tội gì?

Người dân vây bắt nghi phạm.

Liên quan đến vụ việc này, theo Tiến sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường, Trưởng Văn phòng Luật sư Chính pháp cho biết vụ việc có dấu hiệu của hành vi lừa đảo và cướp giật tài sản. Tuy nhiên, hành vi cướp giật tài sản của đối tượng thỏa mãn dấu hiệu cấu thành tội phạm nên sẽ bị xử lý về một tội danh là tội “Cướp giật tài sản”.

Pháp luật bảo vệ quyền sở hữu tài sản của mọi công dân, hành vi gian dối để chiếm đoạt tài sản của người khác là hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản còn hành vi giật tài sản của người khác rồi nhanh chóng tẩu thoát là hành vi cướp giật tài sản.

Luật sư phân tích rõ, theo quy định tại Điều 174 Bộ luật Hình sự, hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản là dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản của người khác. Thủ đoạn gian dối có trước làm cho nạn nhân tin tưởng bàn giao tài sản cho đối tượng và khi đã nhận, quản lý tài sản thì đối tượng chiếm đoạt, không có ý định trả lại tài sản. Với tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” thì hành vi chiếm đoạt tài sản thông qua một giao dịch dân sự hoặc kinh tế vô hiệu do bị lừa dối. Còn nếu tài sản vẫn trong sự quản lý của người bị hại, đối tượng tiếp cận, chiếm đoạt rồi bỏ chạy thì không được coi là lừa đảo.

Trong vụ việc này đối tượng đã gian dối là mua vàng để người bán vàng đưa cho vàng cho đối tượng xem rồi bất ngờ cầm vàng bỏ chạy. Việc chuyển giao vàng trong tình huống này là chuyển giao để cho xem chứ không phải là một giao dịch dân sự đã hoàn thành (mua bán). Thực tế thì số vàng đó vẫn ở trong tiệm vàng, dưới sự kiểm soát của người bán, giao dịch chưa được thực hiện, chưa có hành vi chuyển quyền sở hữu tài sản, người mua vàng chưa trả tiền, chưa được quyền quyết định đối với số vàng đó nên hành vi chưa thỏa mãn dấu hiệu cấu thành của tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại Điều 174 Bộ luật Hình sự. Hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản chỉ thỏa mãn khi có việc chuyển quyền sở hữu tài sản do bị lừa dối bằng thủ đoạn lừa dối trước đó của đối tượng gây án.

“Vụ việc này cũng không thể xử lý về tội “Chiếm giữ trái phép tài sản”, bởi hành vi chiếm giữ trái phép tài sản là hành vi nhận tài sản hợp pháp (đã có việc chuyển giao tài sản hoặc nhặt được tài sản), tài sản đang nằm trong sự quản lý trực tiếp của người không phải là chủ sở hữu tài sản, nhưng người này cố tình không trả lại tài sản cho chủ sở hữu dù chủ sở hữu đã đòi, đã yêu cầu trả lại.

Trong vụ việc này, hành vi của đối tượng thỏa mãn dấu hiệu cấu thành của tội “Cướp giật tài sản” theo quy định tại Điều 171 Bộ luật Hình sự. Cụ thể, hành vi gian dối về việc mua hàng trước đó chỉ là thủ đoạn khiến cho nạn nhân lơ là nhằm mục đích tiếp cận, giật tài sản rồi tẩu thoát. Hành vi chiếm giữ tài sản, không muốn trả lại tài sản là dấu hiệu của yếu tố chiếm đoạt trong tội “Cướp giật tài sản”, Luật sư Cường bày tỏ quan điểm.

Điều 171. Tội cướp giật tài sản

1. Người nào cướp giật tài sản của người khác, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:

a) Có tổ chức;

b) Có tính chất chuyên nghiệp;

c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;

d) Dùng thủ đoạn nguy hiểm;

đ) Hành hung để tẩu thoát;

e) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30%;

g) Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu hoặc người không có khả năng tự vệ;

h) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;

i) Tái phạm nguy hiểm.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;

b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;

c) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.

4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:

a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;

b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61 % trở lên hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 31% trở lên;

c) Làm chết người;

d) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng.

Theo đó, mức hình phạt cụ thể với đối tượng này sẽ phụ thuộc vào giá trị tài sản muốn chiếm đoạt, căn cứ vào tính chất mức độ của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội và các tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

TIẾN HƯNG

Đề xuất công khai các thông tin về bất động sản đưa vào kinh doanh

5. Hà Nội phê duyệt Chương trình phát triển nhà ở giai đoạn 2021-2030

(LSVN) - UBND thành phố Hà Nội vừa có Quyết định số 3627/QĐ-UBND phê duyệt Chương trình phát triển nhà ở thành phố Hà Nội giai đoạn 2021-2030.

Theo đó, việc phát triển nhà ở của thành phố Hà Nội trong giai đoạn 2021-2030 gắn với đổi mới, nâng cao chất lượng quy hoạch, kiểm soát chặt chẽ, quản lý theo quy hoạch, hạn chế tối đa việc điều chỉnh quy hoạch; quản lý chặt chẽ phát triển nhà ở cao tầng và gia tăng dân số tại khu vực đô thị trung tâm; phát triển, hiện đại hóa đô thị gắn với phát triển kinh tế đô thị theo hướng bền vững.

Hà Nội sẽ phát triển đô thị vệ tinh và các khu vực dự kiến phát triển thành quận; xây dựng mô hình thành phố trực thuộc Thủ đô tại khu vực phía Bắc (vùng Đông Anh, Mê Linh, Sóc Sơn) và phía Tây (vùng Hòa Lạc, Xuân Mai); xây dựng đô thị thông minh trên cơ sở phát triển khu vực hai bên trục Nhật Tân - Nội Bài; tập trung triển khai quy hoạch, đầu tư xây dựng, ổn định dân cư hai bên sông Hồng và sông Đuống...

Bên cạnh phát triển nhà ở bảo đảm đồng bộ về hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội, sử dụng quỹ đất tiết kiệm, hiệu quả, Hà Nội cũng chú trọng phát triển đa dạng các loại hình nhà ở, trong đó có nhà ở xã hội, nhà chung cư, nhà cho thuê, nhà ở cho công nhân các khu công nghiệp nhằm giải quyết nhu cầu nhà ở cho các tầng lớp dân cư, đặc biệt là đối tượng được hưởng chính sách hỗ trợ về nhà ở...

Dự báo nhu cầu tổng thể nhà ở giai đoạn 2021-2030 trên địa bàn thành phố là 89 triệu mét vuông sàn. Trong đó, nhu cầu nhà ở giai đoạn 2021-2025 khoảng 44 triệu mét vuông sàn; giai đoạn 2026-2030 là 45 triệu mét vuông sàn. Dự báo nhu cầu vốn đầu tư xây dựng nhà ở giai đoạn 2021-2030 là khoảng 880.000 tỷ đồng, trong đó vốn ngân sách khoảng 11.700 tỷ đồng.

Đến năm 2025, thành phố phấn đấu diện tích sàn nhà ở bình quân đạt 29,5m2/người; phát triển mới 22,5 triệu mét vuông sàn nhà ở riêng lẻ; khoảng 1,25 triệu mét vuông sàn nhà ở xã hội; khoảng 0,565 triệu mét vuông sàn nhà ở tái định cư; 19,69 triệu mét vuông sàn nhà ở thương mại. Triển khai cải tạo, xây dựng lại 4 khu chung cư cũ có nhà nguy hiểm cấp D (Giảng Võ, Thành Công, Ngọc Khánh, tập thể Bộ Tư pháp), các khu chung cư, nhà chung cư thuộc diện phải phá dỡ để cải tạo, xây dựng lại có phát sinh trong quá trình kiểm định và các khu chung cư, nhà chung cư khác có tính khả thi, đủ điều kiện để triển khai theo quy định.

Đến năm 2030, diện tích sàn nhà ở bình quân đạt 32m2/người; phát triển mới khoảng 22,5 triệu mét vuông sàn nhà ở riêng lẻ; 2,5 triệu mét vuông sàn nhà ở xã hội; 1,3 triệu mét vuông sàn nhà ở tái định cư; 15,19 triệu mét vuông sàn nhà ở thương mại. Triển khai cải tạo, xây dựng lại 10 khu chung cư cũ (6 khu có tính khả thi cao: Kim Liên, Trung Tự, Khương Thượng, Thanh Xuân Bắc, Thanh Xuân Nam, Nghĩa Tân và hoàn thành 4 khu có nhà nguy hiểm cấp D)...

PV

Đề xuất công khai các thông tin về bất động sản đưa vào kinh doanh

6. Đề nghị không quy định việc lập cơ quan thanh tra đóng tại địa phương của Tổng Cục, Cục

(LSVN) - Thừa ủy quyền của Thủ tướng, Tổng Thanh tra Chính phủ Đoàn Hồng Phong vừa ký văn bản gửi Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc tiếp thu, chỉnh lý Dự thảo Luật Thanh tra (sửa đổi).

Ảnh minh họa.

Theo đó, Tổng Thanh tra, Chính phủ thống nhất với quy định về việc thành lập cơ quan thanh tra ở một số Tổng Cục, Cục thuộc bộ với các tiêu chí như trong Dự thảo Luật Thanh tra (sửa đổi).

Với việc thành lập cơ quan thanh tra chuyên ngành tại một số đơn vị ngành dọc (đóng tại địa phương) thuộc Tổng Cục, Cục thuộc bộ, Chính phủ đề nghị “không đưa vào dự thảo luật”.

Chính phủ cũng thống nhất với các quy định về việc phân định nhiệm vụ, quyền hạn giữa thủ trưởng cơ quan quản lý Nhà nước với cơ quan thanh tra trực thuộc nhằm tăng cường tính chủ động, tự chịu trách nhiệm của cơ quan thanh tra.

Dự thảo Luật quy định Thủ trưởng cơ quan quản lý Nhà nước trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm tổ chức, chỉ đạo hoạt động thanh tra và chịu trách nhiệm trước pháp luật về quyết định của mình, không can thiệp trái pháp luật vào hoạt động thanh tra.

Các cơ quan thanh tra triển khai hoạt động thanh tra theo trình tự, thủ tục được quy định tại Luật Thanh tra, quy định pháp luật có liên quan và chịu trách nhiệm về kết luận, kiến nghị của mình.

“Các quy định này đã phân định cụ thể thẩm quyền, trách nhiệm giữa cơ quan quản lý Nhà nước và cơ quan thanh tra, tạo cơ sở pháp lý cho việc nâng cao hiệu quả của hoạt động thanh tra, đáp ứng yêu cầu quản lý”, văn bản gửi Ủy ban Thường vụ Quốc hội nêu.

Ngoài ra, Chính phủ thống nhất là quy định về trình tự, thủ tục tiến hành hoạt động thanh tra như dự thảo luật, trong đó có sự phân định rõ trình tự, thủ tục tiến hành một cuộc thanh tra hành chính và trình tự, thủ tục tiến hành một cuộc thanh tra chuyên ngành để bảo đảm phù hợp với tính chất, đặc thù của từng loại hình hoạt động thanh tra.

Để bảo đảm sự thống nhất của hệ thống pháp luật, dự thảo luật quy định, trường hợp luật khác có quy định về trình tự, thủ tục tiến hành một cuộc thanh tra chuyên ngành khác với quy định trình tự, thủ tục tiến hành một cuộc thanh tra chuyên ngành chung trong Luật Thanh tra thì thực hiện theo quy định của luật đó "là phù hợp."

Chính phủ cũng thống nhất với phương án quy định tại khoản 3 Điều 111 của dự thảo luật về việc cơ quan thanh tra được trích một phần số tiền từ các khoản thu hồi phát hiện qua thanh tra sau khi đã nộp vào ngân sách Nhà nước để hỗ trợ nâng cao năng lực hoạt động thanh tra, tăng cường cơ sở vật chất và khen thưởng, động viên tổ chức, cá nhân có thành tích trong công tác thanh tra…

Dự thảo Luật Thanh tra (sửa đổi) đã được chỉnh lý, hoàn thiện trên cơ sở nghiên cứu, tiếp thu ý kiến của đại biểu tại kỳ họp thứ 3 Quốc hội khóa XV và ý kiến của các cơ quan, tổ chức, chuyên gia, nhà khoa học,…

Nội dung của dự thảo luật đã thể chế hóa đầy đủ chủ trương, đường lối của Đảng về công tác thanh tra, tinh thần của Hiến pháp 2013 và khắc phục những bất cập về tổ chức, hoạt động của các cơ quan thanh tra trong thực tiễn hiện nay.

Theo chương trình, Dự thảo Luật Thanh tra (sửa đổi) sẽ được Quốc hội cho ý kiến lần hai và biểu quyết thông qua tại kỳ họp thứ 4 vào cuối tháng 10 này.

PV

Yêu cầu thí sinh cam kết đặt nguyện vọng 1 hay ‘đặt cọc’ là vi phạm quy chế

7. Quốc hội Triều Tiên thông qua luật ứng phó với các cuộc khủng hoảng khẩn cấp

(LSVN) - Hãng thông tấn trung ương Triều Tiên (KCNA) ngày 07/10 đưa tin Ủy ban Thường vụ Hội đồng Nhân dân Tối cao (SPA - Quốc hội Triều Tiên) đã thông qua luật ứng phó với các cuộc khủng hoảng khẩn cấp trong các lĩnh vực như y tế và thiên tai, đảm bảo mua sắm vật tư dự trữ, cung cấp lực lượng lao động và vật tư cần thiết để chống dịch khẩn cấp.

Các đại biểu tham dự kỳ họp của Hội đồng Nhân dân Tối cao (SPA - Quốc hội) Triều Tiên ở Bình Nhưỡng, ngày 07/9/2022. Ảnh: KCNA/TTXVN.

Theo phóng viên tại Seoul, động thái trên diễn ra trong khuôn khổ Phiên họp toàn thể lần thứ 22 của Ủy ban thường vụ SPA khóa 14 diễn ra Hội trường Mansudae vào ngày 06/10. Chủ tịch Đoàn Chủ tịch SPA Choe Ryong-hae đã chủ trì phiên họp này. KCNA cho biết nội dung chính của phiên họp lần này liên quan đến việc thông qua các dự luật về ứng phó khẩn cấp, mua sắm vật tư, bảo vệ các giống cây trồng mới và quản lý gia súc chăn nuôi. 

Cụ thể, dự luật về ứng phó khẩn cấp quy định những vấn đề cơ bản trong việc thiết lập hệ thống hướng dẫn và hành động thống nhất để nhanh chóng đối phó với các cuộc khủng hoảng khẩn cấp như thiên tai hay y tế. Dự luật này còn đảm bảo mua sắm hiệu quả vật tư dự trữ và ưu tiên cung cấp vật tư, trang thiết bị, lực lượng lao động cần thiết để củng cố cơ sở vật chất - kỹ thuật trong việc chống đại dịch khẩn cấp, cũng như quản lý y tế công cộng và phòng chống thiên tai.

Trong khi đó, dự luật về mua sắm công là nhằm góp phần đáp ứng đầy đủ nhu cầu mua sắm hàng hóa trong nền kinh tế quốc dân và nâng cao mức sống của người dân bằng cách thiết lập trật tự và hệ thống quản lý trong mua sắm. 

Triều Tiên đã đưa ra hướng dẫn mới về cách đối phó với cuộc khủng hoảng y tế khẩn cấp và thiên tai trong bối cảnh nước này đang nỗ lực ngăn chặn sự lây lan của dịch Covid-19 và thiệt hại do lũ lụt thường xuyên xảy ra. Trong những năm gần đây, Triều Tiên đã phải hứng chịu những trận mưa lớn có nguy cơ gây ảnh hưởng nặng nề đến sản lượng nông nghiệp do hệ thống tưới tiêu kém và nạn phá rừng.

TTXVN

Yêu cầu thí sinh cam kết đặt nguyện vọng 1 hay ‘đặt cọc’ là vi phạm quy chế

SÁNG

1. Có nên tăng hình phạt tử hình đối với tội tham ô, tham nhũng hiện nay hay không?

(LSVN) - Thời gian qua, công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở nước ta đã được triển khai đạt kết quả tốt; nhiều vụ việc tham nhũng đã được phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh theo đúng quy định của pháp luật. Người bị kết án tử hình về tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ mà sau khi bị kết án đã chủ động nộp lại ít nhất 3/4 tài sản tham ô, nhận hối lộ và hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm hoặc lập công lớn thì không thi hành tử hình đối với người bị kết án; việc này giúp cơ quan Nhà nước thu hồi tài sản thất thoát do tham nhũng và xử lý triệt để đối với vụ án tham nhũng.

Ảnh minh họa.

Tuy nhiên, vẫn có một số ý kiến cho rằng, quy định này là chưa hợp lý và sẽ tạo lỗ hổng trong công tác phòng, chống tham nhũng, khiến việc tham nhũng sẽ tinh vi hơn, nhiều thủ đoạn hơn và mức tham nhũng sẽ cao hơn. Do đó, nhiều ý kiến cho rằng, Quốc hội nên xem xét, điều chỉnh lại quy định này.

Việc hạn chế hình phạt tử hình và tăng cường hiệu quả thu hồi tài sản do tham nhũng là chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước được thể hiện tại các văn bản như: Nghị quyết Trung ương 3 (khóa X) đã nêu rõ việc chú trọng thu hồi tài sản tham nhũng; áp dụng chính sách khoan hồng đối với những người phạm tội nhưng có thái độ thành khẩn, đã bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả kinh tế, hợp tác tốt với cơ quan chức năng; khoản 4 Điều 92 Luật Phòng chống tham nhũng năm 2018 quy định, người có hành vi tham nhũng đã chủ động khai báo trước khi bị phát giác, tích cực hợp tác với cơ quan có thẩm quyền, góp phần hạn chế thiệt hại, tự giác nộp lại tài sản tham nhũng, khắc phục hậu quả của hành vi tham nhũng thì được xem xét giảm hình thức kỷ luật, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt hoặc miễn trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.

Đồng thời, Điều 40 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định người bị kết án tử hình về tội "Tham ô tài sản", "Nhận hối lộ", sau đó chủ động nộp lại ít nhất 3/4 số tiền phạm tội và hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm hoặc lập công lớn thì có thể được giảm xuống mức án chung thân.

Điểm c, khoản 3 Điều 40 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định không thi hành án tử hình đối với người bị kết án chỉ được áp dụng đối với trường hợp đã có bản án tuyên hình phạt tử hình và khi có đủ các điều kiện bao gồm: Chủ động nộp ít nhất 3/4 tài sản tham ô, nhận hối lộ; hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm hoặc lập công lớn. Trường hợp thiếu điều kiện thứ hai thì người bị kết án dù đã nộp đủ 3/4 tài sản tham ô, nhận hối lộ vẫn phải thi hành án. Với những trường hợp thực hiện hành vi tham ô, nhận hối lộ thuộc các trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 353 và khoản 4 Điều 354 Bộ luật Hình sự sẽ bị xem xét truy cứu với mức hình phạt cao nhất là tử hình.

Việc xử lý hình sự đối với loại tội phạm này cần phải tùy thuộc từng trường hợp cụ thể; chỉ nên xem xét xử lý hình sự trong trường người phạm tội không ăn năn hối cải, không chịu khắc phục hậu quả. Còn đối với trường hợp thành khẩn, cam kết khắc phục hậu quả của hành vi tham nhũng thì cần cho họ có thời gian, không gian để xử lý, thu hồi tài sản tham nhũng, thất thoát để giao nộp cho nhà nước. Việc này, hoàn toàn không ảnh hưởng tới việc xem xét, quyết định áp dụng hình phạt trong quá trình xử lý hành vi phạm tội tham ô, nhận hối lộ đối với người phạm tội.

Bên cạnh việc giao nộp đầy đủ số tiền tham nhũng, thất thoát để được hưởng sự khoan hồng của pháp luật, đó là không thi hành hình phạt tử hình thì ngoài ra cần phải xem xét, ban hành cơ chế phạt tiền với số tiền tương ứng với số tiền đã tham nhũng, thất thoát cho Nhà nước nếu không muốn không xử lý hình sự (phạt tù), đây là giải pháp ngăn ngừa tham nhũng cũng hết sức hiệu quả cần phải được nghiên cứu, áp dụng trong công tác phòng, chống tham nhũng ở nước ta hiện nay.

Việc nộp phạt đủ số tiền tương ứng với số tiền tham nhũng, thất thoát để miễn trách nhiệm hình sự có thể dẫn đến kiệt quệ kinh tế của bản thân và gia đình nên người có chức vụ, quyền hạn sẽ không dám tham nhũng và không muốn tham nhũng.

Do đó, việc áp dụng chính sách khoan hồng đối với những người phạm tội tham nhũng nhưng có thái độ thành khẩn, đã bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả kinh tế, hợp tác tốt với cơ quan chức năng là hết sức cần thiết, thể hiện chính sách nhân văn, nhân đạo của Nhà nước mà con góp phần thu hồi tối đa tài sản tham nhũng cho Nhà nước, hạn chế thấp nhất tình trạng thất thoát tài sản tham nhũng. Đồng thời, với quy định hiện hành đã thể hiện tính nghiêm minh, đảm bảo tính răn đe, giáo dục và ngăn ngừa đối với tội phạm tham nhũng ở nước ta hiện nay./.

ĐỖ VĂN NHÂN

Chánh Thanh tra Sở Tư pháp tỉnh Kon Tum

Luật sư với công tác xây dựng, hoàn thiện pháp luật

2. Văn phòng Luật sư có được nhận ủy quyền của khách hàng trong giao dịch dân sự?

(LSVN) - Nhân dịp kỷ niệm 77 năm Ngày Truyền thống Luật sư Việt Nam (10/10/1945-10/10/2022) và Ngày Doanh nhân Việt Nam 13/10/2022, Luật sư, Thạc sĩ Đào Ngọc Lý, Giám đốc Công ty Luật TNHH Đào Ngọc Lý, Phó Chủ nhiệm, Trưởng Ban Bảo vệ quyền lợi Luật sư Đoàn Luật sư TP. Hà Nội có bài viết trao đổi quan điểm, ý kiến liên quan đến việc Văn phòng Luật sư (được tổ chức và hoạt động theo loại hình doanh nghiệp tư nhân) có được nhận ủy quyền của khách hàng trong giao dịch dân sự khi tham gia tố tụng hay không?

Trong thời gian qua, nhiều Luật sư và Văn phòng Luật sư (VPLS) bày tỏ sự không đồng thuận, thậm chí phản ứng khá gay gắt việc một số cơ quan tiến hành tố tụng không chấp nhận văn bản ủy quyền của khách hàng cho VPLS trong giao dịch dân sự. Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội mới đây đã nhận được đơn kiến nghị của Văn phòng Luật sư H về việc Tòa án nhân dân thành phố C ra quyết định không chấp nhận giấy ủy quyền (được lập tại văn phòng công chứng) của nguyên đơn cho Văn phòng Luật sư H tham gia hoạt động tố tụng trong vụ án dân sự về tranh chấp tài sản.

Tòa án nhân dân thành phố C đưa ra quan điểm không chấp nhận giấy ủy quyền này vì cho rằng, theo khoản 1 Điều 33 Luật Luật sư năm 2006 sửa đổi bổ sung năm 2012 (Luật Luật sư), “Văn phòng Luật sư do một Luật sư thành lập được tổ chức và hoạt động theo loại hình doanh nghiệp tư nhân”, nên VPLS hoạt động theo loại hình doanh nghiệp tư nhân, không có tư cách pháp nhân. Bởi vậy, căn cứ khoản 1 Điều 138 Bộ luật Dân sự năm 2015 (Cá nhân, pháp nhân có thể ủy quyền cho cá nhân, pháp nhân khác xác lập, thực hiện giao dịch dân sự) và khoản 1 Điều 85 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 (Người đại diện trong tố tụng dân sự bao gồm người đại diện theo pháp luật và người đại diện theo ủy quyền. Người đại diện có thể là cá nhân hoặc pháp nhân theo quy định của Bộ luật Dân sự) thì VPLS không được đại diện cho nguyên đơn tham gia hoạt động tố tụng tại tòa án.

Văn phòng Luật sư H cho rằng nội dung quyết định của Tòa án nhân dân thành phố C đã xâm phạm nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của VPLS khi tham gia tố tụng bảo vệ quyền lợi hợp pháp của nguyên đơn. Quyết định này sẽ tạo ra một tiền lệ xấu làm hạ thấp vai trò, chức năng xã hội của Luật sư cũng như vai trò của các VPLS. Điều này còn tạo ra sự phân biệt đối xử bất bình đẳng giữa loại hình công ty luật và VPLS (mặc dù cả hai loại hình này đều là các tổ chức hành nghề Luật sư và VPLS còn phải chịu trách nhiệm vô hạn bằng tài sản của cá nhân Luật sư). 

Cá nhân tác giả cũng hoàn toàn đồng thuận với quan điểm của nhiều chuyên gia pháp luật cho rằng cần làm rõ việc VPLS được nhận ủy quyền của khách hàng trong giao dịch dân sự khi tham gia tố tụng, theo hướng không nhất trí với quan điểm của Tòa án nhân dân thành phố C, không nhất trí với quan điểm bác bỏ giấy ủy quyền của khách hàng cho VPLS khi tham gia tố tụng dân sự, cụ thể như sau:

Thứ nhất, khoản 1 Điều 85 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định “Người đại diện có thể là cá nhân hoặc pháp nhân theo quy định của Bộ luật Dân sự” mà không quy định “Người đại diện chỉ là cá nhân hoặc pháp nhân theo quy định của Bộ luật Dân sự”. Mặt khác, theo quy định tại khoản 3 Điều 85 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 về thì đối tượng được nhận ủy quyền đại diện trong tố tụng dân sự không chỉ duy nhất có 02 chủ thể là cá nhân và pháp nhân, mà còn có thêm chủ thể khác nữa được quy định như sau: “….tổ chức đại diện tập thể lao động đại diện cho người lao động khởi kiện vụ án lao động, tham gia tố tụng khi được người lao động ủy quyền”.

Bên cạnh đó, theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 thì ngoài đối tượng là cá nhân, pháp nhân, còn có nhiều chủ thể khác tham gia quan hệ giao dịch dân sự như hộ gia đình, tổ hợp tác và tổ chức khác không có tư cách pháp nhân vẫn được ủy quyền tham gia giao dịch dân sự. Khoản 1 Điều 138 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định “cá nhân, pháp nhân có thể ủy quyền cho cá nhân, pháp nhân khác xác lập, thực hiện giao dịch dân sự” mà không quy định “cá nhân, pháp nhân chỉ được ủy quyền cho cá nhân, pháp nhân khác xác lập, thực hiện giao dịch dân sự”. Theo tinh thần của Bộ luật Dân sự, các chủ thể dân sự được đối xử bình đẳng khi tham gia các giao dịch dân sự mà pháp luật không cấm, không trái đạo đức xã hội, không xâm phạm đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. 

Thứ hai, VPLS là tổ chức hành nghề Luật sư được thành lập và hoạt động theo Luật Luật sư và các văn bản hướng dẫn. Theo khoản 1 Điều 39 Luật Luật sư thì một trong các quyền của tổ chức hành nghề Luật sư là “thực hiện dịch vụ pháp lý”. Như vậy, xét về bản chất, trong trường hợp này VPLS đang thực hiện một dịch vụ pháp lý được khách hàng ủy quyền theo đúng quy định của pháp luật.

Mặt khác, theo khoản 3 Điều 39 Luật Luật sư, VPLS được thuê Luật sư Việt Nam, Luật sư nước ngoài và nhân viên làm việc cho tổ chức hành nghề Luật sư và theo khoản 2 Điều 22 Luật Luật sư, Luật sư được tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện hoặc người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong các vụ án về tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, hành chính, việc về yêu cầu dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động và các vụ, việc khác theo quy định của pháp luật. Như vậy, có thể thấy trong vụ việc này Luật sư đang tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện của khách hàng trên cơ sở hợp đồng dịch vụ pháp lý được xác lập giữa VPLS với khách hàng. Nói cách khác, VPLS đang nhận ủy quyền của khách hàng và phân công các Luật sư của VPLS đại diện cho khách hàng tham gia tố tụng dân sự. Cách thức nhận và thực hiện ủy quyền này của VPLS cũng không có gì khác biệt mà về thực chất cũng tương tự như các công ty luật khi nhận và thực hiện ủy quyền từ khách hàng.

Hơn nữa, xét trong mối tương quan với Bộ luật Dân sự, thì Luật Luật sư được hiểu là luật khác, luật chuyên ngành. Bởi vậy theo nguyên tắc “ưu tiên áp dụng luật chuyên ngành trước luật chung” đã được quy định trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật (ví dụ khoản 2 Điều 4 Luật Thương mại năm 2005) và khoản 1, khoản 2 Điều 4 Bộ luật Dân sự năm 2015, trong trường hợp nhận ủy quyền như trên, Luật Luật sư sẽ được ưu tiên áp dụng.

Luật sư, Thạc sĩ Đào Ngọc Lý, Giám đốc Công ty Luật TNHH Đào Ngọc Lý, Phó Chủ nhiệm, Trưởng Ban Bảo vệ quyền lợi Luật sư Đoàn Luật sư TP. Hà Nộ.

Thứ ba, so sánh việc cá nhân ủy quyền cho Luật sư với việc cá nhân ủy quyền cho VPLS (do Luật sư thành lập là trưởng văn phòng) thì hoàn toàn không có sự khác biệt về bản chất. Thậm chí, VPLS còn được cấp phép hoạt động và chịu sự quản lý của sở tư pháp và các cơ quan có thẩm quyền nên xét về khía cạnh nào đó thì tính chịu trách nhiệm còn cao hơn so với đối tượng là cá nhân.

Ngoài ra, pháp luật về dân sự cũng có quy định bên nhận ủy quyền có thể ủy quyền lại cho bên thứ ba thực hiện nghĩa vụ nên VPLS cũng có thể ủy quyền lại hoặc phân công cho các Luật sư thuộc văn phòng mình thực hiện công việc đã ký hợp đồng dịch vụ pháp lý với khách hàng. Điều đó tạo điều kiện cho các tổ chức hành nghề Luật sư có sự chủ động, linh hoạt và điều chỉnh nhân sự phù hợp để thực hiện công việc kịp thời, bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng theo đúng quy định của pháp luật.

Thứ tư, VPLS và công ty luật là hai loại hình khác nhau về chế độ trách nhiệm tài sản, cụ thể là trách nhiệm vô hạn và trách nhiệm hữu hạn. Tuy nhiên, xét ở góc độ hành nghề thì cả hai loại hình này đều là tổ chức hành nghề Luật sư, đều có cùng nội dung lĩnh vực hành nghề như nhau và nội dung này đều được ghi cụ thể và rõ nét trong giấy đăng ký hoạt động do sở tư pháp cấp, bao gồm: tham gia tố tụng; tư vấn pháp luật; đại diện ngoài tố tụng; dịch vụ pháp lý khác.

Như vậy, nếu công ty luật có quyền nhận đại diện theo ủy quyền mà VPLS không được nhận ủy quyền thì rõ ràng là không hợp lý, không bình đẳng và không phù hợp với quy định của pháp luật.

Thứ năm, về vấn đề chủ thể là doanh nghiệp tư nhân không có tư cách pháp nhân khi tham gia giao dịch dân sự cũng gặp không ít khó khăn, trở ngại tương tự do quan điểm của một số cơ quan chức năng còn có sự nhầm lẫn, chưa đúng quy định của pháp luật, xâm hại quyền lợi hợp pháp của những chủ thể là tổ chức không có tư cách pháp nhân. Đơn cử trường hợp Ngân hàng Nhà nước Việt Nam khi ban hành Thông tư số 32/2016/TT-NHNN ngày 16/12/2016 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 23/2014/TT-NHNN ngày 19/8/2014 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán (có hiệu lực từ ngày 01/3/2017), tại khoản 6 Điều 1 quy định “Đối tượng được mở tài khoản thanh toán tại Ngân hàng chỉ gồm cá nhân và tổ chức là pháp nhân” và điểm c, khoản 2 Điều 4 quy định “Sau 12 tháng kể từ ngày Thông tư này có hiệu lực thi hành, thực hiện đóng tài khoản đối với những tài khoản thanh toán của khách hàng là hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân chưa hoàn thành việc chuyển đổi hình thức tài khoản theo quy định tại điểm b khoản này”. Nội dung không đúng này đã được Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật thuộc Bộ Tư pháp rà soát, phát hiện và chỉ rõ pháp luật hiện hành không có quy định cấm (hay không cho) các tổ chức không có tư cách pháp nhân mở (giao kết hợp đồng) tài khoản tại ngân hàng. Đồng thời thông qua vấn đề này, Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật cũng cho rằng việc không cho các tổ chức không có tư cách pháp nhân, trong đó có các chủ thể kinh doanh, tổ chức hành nghề (doanh nghiệp tư nhân, VPLS…) mở tài khoản thanh toán tại ngân hàng sẽ gây khó khăn lớn, tiềm ẩn rủi ro pháp lý cho các tổ chức này trong tổ chức hoạt động, nhất là thực hiện pháp luật về thuế, giao kết hợp đồng… của hàng chục ngàn doanh nghiệp tư nhân, VPLS. Ngoài ra, việc hạn chế quyền trên cũng không phù hợp với chính sách phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước ta hiện nay, trong đó có phát triển kinh tế tư nhân.

Bởi vậy, ngày 28/02/2019 Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã ban hành Thông tư số 02/2019/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 23/2014/TT-NHNN ngày 19/8/2014 nói trên (có hiệu lực từ 01/3/2019) đã quy định nhiều nội dung, trong đó có việc bãi bỏ Thông tư số 32/2016/TT-NHNN ngày 16/12/2016 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

Trên đây là sơ lược một số ý kiến chia sẻ và quan điểm của người viết, đồng thuận với các chuyên gia pháp lý có chung quan điểm đề nghị VPLS được nhận ủy quyền của khách hàng trong quan hệ dân sự khi tham gia tố tụng, trừ những nội dung bị cấm theo quy định của pháp luật. Rất mong nhận được ý kiến phản hồi, chia sẻ của các đồng nghiệp và cơ quan nhà nước có thẩm quyền để thống nhất áp dụng vấn đề này trong thực tiễn, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các Luật sư và VPLS thực hiện được đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình khi hành nghề, bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng, cũng như tuân thủ đúng Luật Luật sư và các văn bản pháp luật khác có liên quan.

Thạc sĩ, Luật sư ĐÀO NGỌC LÝ

Giám đốc Công ty Luật TNHH Đào Ngọc Lý

Phó Chủ nhiệm Đoàn Luật sư TP. Hà Nội

Luật sư với công tác xây dựng, hoàn thiện pháp luật

3. Luật sư không được xúi giục khách hàng khai sai sự thật, cung cấp tài liệu chứng cứ giả

(LSVN) - Tôi và chồng tôi muốn ly hôn nên chúng tôi đã tìm đến Luật sư X (là bạn học cũ của chúng tôi) hiện là Trưởng Văn Phòng Luật sư X và nhờ Luật sư X tham gia phiên tòa để bảo vệ quyền và lợi ích cho cả hai. Trong quá trình tư vấn cho tôi, Luật sư X đã tư vấn muốn được hưởng phần nhiều hơn trong khối tài sản cần bỏ đi tờ giấy mua nhà trước và tìm những người đã bán nhà trước đây nhờ họ xác nhận lại việc đã bán nhà lúc đầu cho cha mẹ tôi sau đó cha mẹ chị nhờ vợ chồng chị đứng tên hộ mà thôi. Tôi có thể làm theo tư vấn của Luật sư X hay không?

Luật sư Đặng Hồng Dương, Giám đốc Công ty Luật TNHH Sao Sáng.

Luật sư X đã thấy anh chị có những bất đồng về tài sản và đã tư vấn cho chị muốn được hưởng phần nhiều hơn trong khối tài sản cần bỏ đi tờ giấy mua nhà trước và tìm những người đã bán nhà trước đây nhờ họ xác nhận lại việc đã bán nhà lúc đầu cho cha mẹ chị sau đó cha mẹ chị nhờ vợ chồng chị đứng tên hộ mà thôi.

Việc tư vấn như vậy là trái pháp luật và trái Bộ Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp Luật sư Việt Nam. Quy tắc 14.1 quy định cấm Luật sư: “Chủ động xúi giục khách hàng thực hiện những hành vi trái pháp luật””. 

Quy tắc 24.2: “Cung cấp thông tin tài liệu chứng cứ mà Luật sư biết sai sự thật, hướng dẫn khách hàng tạo thông tin, tài liệu chứng cứ sai sự thật nhằm mục đích lừa dối cơ quan tố tụng”.

Ảnh minh họa.

Hoạt động Luật sư yêu cầu tôn trọng sự thật khách quan, đề cao tính trung thực, độc lập của Luật sư khi hành nghề. Luật sư để bảo vệ quyền lợi cho khách hàng của mình, Luật sư sẽ không được hướng dẫn khách hàng thực hiện hành vi vi phạm. Mặt khác, quá trình giải quyết vụ án, vụ việc chị với tư cách là đương sự cũng không được cung cấp tài liệu chứng cứ giả, khai báo sai sự thật

Luật sư ĐẶNG HỒNG DƯƠNG

Giám đốc Công ty Luật TNHH Sao Sáng

Đoàn Luật sư TP. Hà Nội

Nghiêm cấm Luật sư thực hiện hành vi cạnh tranh không lành mạnh

4. UBQPAN nhất trí với sự cần thiết ban hành Nghị quyết về thí điểm cấp quyền lựa chọn sử dụng biển số ô tô thông qua đấu giá

(LSVN) - Ngày 07/10, Thường trực Ủy ban Quốc phòng An ninh (UBQPAN) của Quốc hội đã họp phiên mở rộng thẩm tra sơ bộ dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về thí điểm cấp quyền lựa chọn sử dụng biển số ô tô thông qua đấu giá. Trình bày dự thảo báo cáo thẩm tra, Đại tá Vũ Huy Khánh cho biết, Thường trực UBQPAN nhất trí với sự cần thiết ban hành Nghị quyết về thí điểm cấp quyền lựa chọn sử dụng biển số ô tô thông qua đấu giá. 

Ảnh minh họa.

Tại phiên họp, Thiếu tướng Lê Xuân Đức, Phó Cục trưởng Cục Cảnh sát giao thông, Bộ Công an đã trình bày tóm tắt dự thảo Nghị quyết về thí điểm cấp quyền lựa chọn sử dụng biển số ô tô thông qua đấu giá. 

Trình bày dự thảo báo cáo thẩm tra, Đại tá Vũ Huy Khánh, Ủy viên Thường trực UBQPAN của Quốc hội cho biết, Thường trực UBQPAN nhất trí với sự cần thiết ban hành Nghị quyết về thí điểm cấp quyền lựa chọn sử dụng biển số ô tô thông qua đấu giá. 

Thường trực UBQPAN cho rằng, hồ sơ dự thảo Nghị quyết cơ bản đầy đủ theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, đủ điều kiện để trình Quốc hội thảo luận, cho ý kiến tại kỳ họp thứ 4.

UBQPAN cũng có đưa ra các ý kiến khác nhau về bố cục, tên gọi của Nghị quyết; phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng, loại biển số đưa ra đấu giá; hình thức đấu giá; giá khởi điểm; tiền đặt trước; quyền nghĩa vụ của người trúng đấu giá; người nhận chuyển nhượng, cho tặng, thừa kế…

Về quyền nghĩa vụ của người trúng đấu giá (Điều 3), người nhận chuyển nhượng, cho tặng, thừa kế (Điều 4), nhiều ý kiến nhất trí với quy định của dự thảo Nghị quyết về các quyền và nghĩa vụ của người trúng đấu giá, vì cho rằng đây là nội dung thí điểm, biển số xe ô tô trúng đấu giá là tài sản đặc biệt, vừa là tài sản cá nhân vừa là công cụ quản lý nhà nước, nên cần thiết phải hạn chế một số quyền tài sản của người trúng đấu giá; việc này còn nhằm hạn chế tình trạng đầu cơ biển số và tránh gây phức tạp trong việc xử lý hệ quả thí điểm đối với các biển số ô tô được cấp thông qua đấu giá nếu chủ trương này không được tiếp tục thực hiện sau khi hết thời hạn thí điểm.  

“Một số ý kiến cho rằng, quy định người trúng đấu giá biển số xe và người được chuyển nhượng, cho tặng, thừa kế không được chuyển nhượng, cho tặng, thừa kế chỉ biển số xe riêng lẻ mà phải gắn theo xe là không phù hợp, vì sau khi trúng đấu giá thì biển số là tài sản cá nhân, nên cần phải được chuyển nhượng, cho tặng, thừa kế biển số xe riêng lẻ; đề nghị quy định người được chuyển nhượng, cho tặng, thừa kế biển số trúng đấu giá cũng có đầy đủ các quyền như người trúng đấu giá biển số xe”, Đại tá Vũ Huy Khánh cho biết.

VĂN QUANG

Nghiêm cấm Luật sư thực hiện hành vi cạnh tranh không lành mạnh

5. Đề xuất thủ tục chấp thuận cung cấp dịch vụ, sản phẩm bảo hiểm trên môi trường mạng

(LSVN) - Bộ Tài chính đang lấy ý kiến góp ý của nhân dân với dự thảo Thông tư hướng dẫn một số điều và biện pháp thi hành Luật Kinh doanh bảo hiểm, Nghị định của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Kinh doanh bảo hiểm, trong đó có đề xuất quy định cung cấp dịch vụ, sản phẩm bảo hiểm trên môi trường mạng.

Ảnh minh họa.

Dự thảo nêu rõ, đối tượng đăng ký cung cấp dịch vụ, sản phẩm bảo hiểm trên môi trường mạng (giao dịch trực tuyến) là tổ chức, cá nhân quy định tại Khoản 1 Điều 14 Luật Kinh doanh bảo hiểm và không thuộc trường hợp sau: Đang trong quá trình giải thể, phá sản hoặc tạm ngừng hoạt động; đang áp dụng biện pháp cải thiện, can thiệp sớm hoặc kiểm soát; các trường hợp bị đình chỉ hoạt động khác theo quy định của pháp luật.

Doanh nghiệp bảo hiểm, chi nhánh doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ nước ngoài, tổ chức tương hỗ cung cấp bảo hiểm vi mô, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm lập hồ sơ theo quy định và lựa chọn phương thức giải quyết thủ tục với Bộ Tài chính thông qua hệ thống dịch vụ công trực tuyến của Bộ Tài chính hoặc nộp hồ sơ trực tiếp hoặc dịch vụ bưu chính công ích.

Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ theo quy định, trường hợp hồ sơ cần sửa đổi bổ sung, Bộ Tài chính có văn bản yêu cầu bổ sung hoặc giải trình bằng văn bản đối với trường hợp hồ sơ chưa hợp lệ.

Trong thời hạn 10 ngày làm việc kể từ ngày nhận được văn bản yêu cầu sửa đổi, bổ sung hồ sơ của Bộ Tài chính, doanh nghiệp bảo hiểm phải hoàn chỉnh hồ sơ theo yêu cầu gửi Bộ Tài chính. Sau thời hạn này nếu doanh nghiệp bảo hiểm không bổ sung hồ sơ theo yêu cầu, Bộ Tài chính có quyền từ chối chấp thuận.

Trong thời hạn 20 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ đầy đủ, hợp lệ, Bộ Tài chính xem xét và có văn bản chấp thuận cho phép cung cấp dịch vụ, sản phẩm bảo hiểm trên môi trường mạng. Trường hợp từ chối, Bộ Tài chính trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do.

Bộ Tài chính có trách nhiệm giám sát, kiểm tra định kỳ hoặc bất thường đối với các tổ chức được chấp thuận cung cấp dịch vụ, sản phẩm bảo hiểm trên môi trường mạng về thực hiện giao dịch điện tử trên thị trường bảo hiểm theo quy định hoặc khi xảy ra sự cố ảnh hưởng đến quyền lợi của khách hàng tham gia và sự an toàn của thị trường bảo hiểm.

Các tổ chức được chấp thuận cung cấp dịch vụ, sản phẩm bảo hiểm trên môi trường mạng có trách nhiệm phối hợp giám sát hoạt động giao dịch trực tuyến của tổ chức đó và các tổ chức, cá nhân có liên quan theo yêu cầu của Bộ Tài chính.

Tổ chức, cá nhân tham cung cấp dịch vụ, sản phẩm bảo hiểm trên môi trường mạng có trách nhiệm cung cấp đầy đủ, kịp thời thông tin, dữ liệu và các tài liệu liên quan đến hoạt động cung cấp dịch vụ, sản phẩm bảo hiểm trên môi trường mạng khi có yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền.

DUY ANH

Nghiêm cấm Luật sư thực hiện hành vi cạnh tranh không lành mạnh

6. Bổ sung quy định cách tính và thực hiện bù trừ số tiền nộp phạt chênh lệch (nếu có)

(LSVN) - Bộ Tài chính đang lấy ý kiến góp ý đối với dự thảo Thông tư của quy định về thủ tục thu, nộp tiền phạt, biên lai thu tiền phạt, bù trừ số tiền nộp phạt chênh lệch và kinh phí từ ngân sách nhà nước đảm bảo hoạt động của các lực lượng xử phạt vi phạm hành chính (thay thế Thông tư số 153/2013/TT-BTC). Trong đó, Bộ Tài chính đề xuất bổ sung quy định cách tính và thực hiện bù trừ số tiền nộp phạt chênh lệch (nếu có).

Cụ thể, dự thảo đề xuất bổ sung quy định cách tính và thực hiện bù trừ số tiền nộp phạt chênh lệch (nếu có) trong trường hợp có quyết định đính chính, sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ hoặc ban hành quyết định mới trong xử phạt VPHC.

Tại khoản 1 Điều 6 dự thảo Thông tư quy định về việc tính số tiền nộp phạt chênh lệch trên cơ sở so sánh số tiền nộp phạt giữa các quyết định xử phạt VPHC của cơ quan có thẩm quyền (quyết định xử phạt cũ và quyết định sửa đổi, bổ sung, đính chính). 

Trường hợp phát sinh số tiền chênh lệch dương (>0) thì phải hoàn trả cho cá nhân, tổ chức vi phạm số tiền nộp thừa; trường hợp phát sinh số tiền chênh lệch âm (<0) thì cá nhân, tổ chức vi phạm phải nộp bổ sung số tiền phạt còn thiếu.

Ngoài ra, dự thảo cũng bổ sung quy định về trách nhiệm tổ chức thực hiện. Cụ thể, căn cứ quy định khoản 2 Điều 73 Luật Xử lý VPHC và tiếp thu ý kiến của các đơn vị, dự thảo Thông tư bổ sung: 

- Quy định rõ trách nhiệm của các đơn vị trong việc theo dõi, đốc đốc tiền chậm nộp.

- Bổ sung quy định về trách nhiệm đối chiếu, theo dõi số tiền chậm nộp của Kho bạc nhà nước và cơ quan của người có thẩm quyền ra quyết định xử phạt.

- Bổ sung quy định trách nhiệm của người ra quyết định xử phạt VPHC phải nêu rõ trong quyết định xử phạt VPHC về việc tổ chức, cá nhân phải nộp số tiền chậm nộp tiền phạt (nếu có) vào NSNN.

- Bổ sung quy định thời hạn đối chiếu số liệu về thu tiền phạt của cơ quan ra quyết định xử phạt sau khi nhận được bảng kê thu phạt do Kho bạc nhà nước gửi...

DUY ANH

Đề xuất công khai các thông tin về bất động sản đưa vào kinh doanh

7.