TRỰC THỨ 7
Những khó khăn, vướng mắc về biện pháp ngăn chặn ‘bảo lĩnh’
(LSVN) - Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) 2015 đã được áp dụng, thi hành một thời gian, phát huy được nhiều ưu điểm, tạo ra hành lang pháp lý cơ bản, thống nhất để các Cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết vụ án hình sự. Tuy nhiên, việc áp dụng Biện pháp ngăn chặn “Bảo lĩnh” trên thực vẫn còn có một số khó khăn, vướng mắc.
Ảnh minh họa.
1. Một số khó khăn, vướng mắc.
Về quy định tại khoản 1 Điều 121 BLTTHS “Bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn thay thế tạm giam”. Quy định này chưa rõ ràng về đối tượng bị áp dụng, tồn tại hai cách hiểu khác nhau.
Thứ nhất, “bảo lĩnh” là biện pháp ngăn chặn được áp dụng đối với bị can, bị cáo đang bị tạm giữ, tạm giam nếu có đủ điều kiện cho “bảo lĩnh” và xét thấy không cầm thiết tiếp tục tạm giữ, tạm giam thì áp dụng biện pháp “bảo lĩnh” để thay thế biện pháp tạm giam. Nghĩa là đối với bị can, bị cáo đang bị tạm giữ, tạm giam thì mới áp dụng biện pháp này.
Thứ hai, biện pháp “bảo lĩnh” được áp dụng kể cả đối với bị can, bị cáo đang bị tạm giữ, tạm giam và bị can, bị cáo bị khởi tố, chưa bị tạm giữ, tạm giam, nhưng thấy vẫn cần phải ngăn ngừa bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội và để đảm bảo sự có mặt của bị can, bị cáo theo giấy triệu tập của cơ quan có thẩm quyền.
Theo Điều 121 BLTTHS, cá nhân có thể nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo là người thân thích của họ (ít nhất phải có hai người). Tổ chức có thể nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo là thành viên tổ chức của mình. Vấn đề là luật quy định còn chung chung về tiêu chuẩn của người nhận bảo lĩnh (có tư cách, phẩm chất tốt, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật) và không quy định tiêu chuẩn của cơ quan, tổ chức (hay tự hiểu rằng mọi cơ quan, tổ chức đều được nhận bảo lĩnh). Trong khi đó, không phải cơ quan, tổ chức nào cũng đủ tư cách cam đoan rằng bị can, bị cáo không tiếp tục phạm tội, bảo đảm bị can, bị cáo có mặt theo triệu tập của cơ quan tố tụng (đối với tổ chức là doanh nghiệp đang làm ăn thua lỗ, nợ nần, có hành vi vi phạm pháp luật hoặc đang bị điều tra, truy tố, xét xử thì như thế nào?). Như vậy, không phải cơ quan, tổ chức nào cũng có đủ những tiêu chuẩn để được nhận bảo lĩnh.
Tại khoản 2 Điều 121 BLTTHS quy định về điều kiện của người nhận bảo lĩnh là “cá nhân có thu nhập ổn định”. Luật quy định nhằm mục đích cụ thể hóa tiêu chuẩn, điều kiện người nhận bảo lĩnh. Tuy nhiên, có cần phải chứng minh thu nhập, xác minh tài liệu chứng minh thu nhập hay không thì luật không quy định và chưa có hướng dẫn.
Hiện nay chỉ có quy định tại Điều 109 BLTTHS (kèm theo Điều 121 BLTTHS) nêu những căn cứ để áp dụng chung cho các BPNC trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử. Điều này dễ dẫn đến sự tùy tiện khi áp dụng, không đảm bảo quyền của người bị buộc tội, làm giảm hiệu quả cũng như tính nghiêm minh của pháp luật. Bởi lẽ, Điều 109 BLTTHS quy định “… để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ người bị buộc tội sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử…”. Nghĩa là, không phải trường hợp nào cũng áp dụng BPNC với quy định như hiện nay. Chính vì thế đối với những vụ án nhận thấy không cần thiết phải áp dụng BPNC thì không áp dụng. Qua khảo sát của bản thân nhận thấy hầu như tất cả các vụ án khi đã khởi tố bị can đều bị áp dụng BPNC, kể cả biện pháp “bảo lĩnh”.
Trong thực tiễn áp dụng, sau khi khởi tố bị can, Cơ quan điều tra (CQĐT) ra quyết định bảo lĩnh và tống đạt cho bị can, đồng thời gửi đến các cá nhân, tổ chức liên quan. Qua điều tra, CQĐT có kết luận điều tra vụ án, hồ sơ được chuyển đến Viện kiểm sát (VKS) để truy tố, chuyển hồ sơ xét xử. Vấn đề đặt ra ở đây là quyết định “bảo lĩnh” của CQĐT vẫn còn thời hạn; bị can không vi phạm thì VKS và Toà án có đương nhiên tiếp tục sử dụng Quyết định bảo lĩnh đối với bị can đó không? Hay ở mỗi giai đoạn lại phải ra lệnh, quyết định khác vì mỗi cơ quan đều có thẩm quyền áp dụng biện pháp này. Quyết định của CQĐT còn có hiệu lực hay không? Bởi vì cơ quan điều tra áp dụng BPNC đối với bị can trên cơ sở thủ tục bảo lĩnh và phải có mặt đúng thời gian, địa điểm theo giấy triệu tập của CQĐT.
Mặc dù BLTTHS năm 2015 quy định cụ thể thẩm quyền áp dụng BPNC, tuy nhiên trong thực tiễn thì việc áp dụng vẫn còn tồn tại nhiều ý kiến khác nhau. Ví dụ: Theo quy định tại khoản 1 Điều 113 BLTTHS năm 2015 về thẩm quyền bắt bị can, bị cáo để tạm giam, theo đó Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT; Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKS; Chánh án, Phó Chánh án Tòa án các cấp đều có thẩm quyền quy định tại điều này. Tuy nhiên, quy định về thẩm quyền của Chánh án, Phó Chánh án tại điểm a khoản 2 Điều 44 BLTTHS năm 2015 như sau: “Quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam, xử lý vật chứng”. Như vậy, ngoài biện pháp ngăn chặn tạm giam, luật không quy định Chánh án, Phó Chánh án có thẩm quyền áp dụng các BPNC khác không?
Xung quanh vấn đề này tồn tại hai quan điểm khác nhau:
Quan điểm thứ nhất: Quy định “những người có thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều 113 của BLTTHS là người có thẩm quyền áp dụng biện pháp này”, thì Chánh án là người có thẩm quyền áp dụng các BPNC tại Điều 121 BLTTHS và sau khi thụ lý hồ sơ, trường hợp Chánh án là chủ tọa phiên tòa hoặc chưa phân công Thẩm phán chủ tọa phiên tòa thì thẩm quyền này đương nhiên phải do Chánh án quyết định.
Quan điểm thứ hai: Chánh án không có thẩm quyền áp dụng BPNC tại Điều 121 BLTTHS vì theo điểm a khoản 2 Điều 44 BLTTHS chỉ quy định Chánh án có thẩm quyền áp dụng biện pháp tạm giam. Mặt khác quy định tại khoản 1 Điều 278 BLTTHS về áp dụng, thay đổi, hủy bỏ BPNC, biện pháp cưỡng chế xác định “Sau khi thụ lý vụ án, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa quyết định việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ BPNC, biện pháp cưỡng chế, trừ việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp tạm giam do Chánh án, Phó Chánh án Tòa án quyết định”.
- Về thời hạn: “...Thời hạn bảo lĩnh không được quá thời hạn điều tra, truy tố hoặc xét xử theo quy định của BLTTHS. Thời hạn bảo lĩnh đối với người bị kết án phạt tù không quá thời hạn kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm người đó đi chấp hành án phạt tù”. Quy định về các biện pháp tạm giữ, tạm giam đều có văn bản hướng dẫn về thời hạn, tùy thuộc vào tính chất của tội phạm thuộc loại ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. Còn đối với BPNC “bảo lĩnh” thì quy định còn chung chung, chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể về thời hạn áp dụng. Thời hạn điều tra, truy tố, xét xử trong tố tụng hình sự dài hay ngắn tùy thuộc vào tính chất, mức độ phức tạp của từng vụ án. Trong thực tiễn rất nhiều vụ án gia hạn thời hạn giải quyết. Do vậy, thời hạn áp dụng BPNC cũng phải kéo dài tương ứng. Và trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm cũng tương tự (gia hạn thời hạn giải quyết, hoãn phiên tòa...). Hoặc như khi hết thời hạn chuẩn bị xét xử, nếu Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa ra quyết định đưa vụ án ra xét xử thì phát sinh thêm 15 ngày (hoặc 30 ngày nếu vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan) từ ngày ra quyết định đến ngày mở phiên tòa. Như vậy việc tính thời hạn áp dụng BPNC “bảo lĩnh” như thế nào?
Điều luật quy định “Thời hạn bảo lĩnh đối với người bị kết án phạt tù không quá thời hạn kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm người đó đi chấp hành án phạt tù”. Nếu sau khi tuyên án Hội đồng xét xử (HĐXX) hoặc Thẩm phán Chủ tọa phiên tòa tiếp tục áp dụng BPNC trên thì thời hạn là bao nhiêu, để đảm bảo thi hành án hoặc giải quyết các thủ tục tố tụng tiếp theo (giải quyết kháng cáo, kháng nghị...). BLTTHS quy định “...“kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm người đó đi chấp hành án phạt tù...”. Quy định này có thể hiểu áp dụng cho nhiều giai đoạn tiếp theo (kháng cáo, kháng nghị, giải quyết phúc thẩm...) đến khi bị cáo đi chấp hành án phạt tù. Tuy nhiên, cũng có quan điểm cho rằng khi HĐXX tuyên án, nếu có áp dụng BPNC nêu trên thì thời hạn “bảo lĩnh” kể từ khi tuyên án cho đến khi người đó đi chấp hành án phạt tù. Trường hợp Tòa án cấp phúc thẩm hủy án để điều tra hoặc xét xử lại thì thời hạn áp dụng như trên (đến khi bị cáo đi chấp hành án phạt tù) phải xử lý như thế nào về thời hạn. Bởi lẽ trong quyết định “bảo lĩnh” ghi rõ đến khi bị cáo đi chấp hành án phạt tù thì cấp phúc thẩm khó áp dụng BPNC này trong thời gian tiếp theo. Ngoài ra, thời hạn “bảo lĩnh” có cần thiết phải liên tục không? Có thể bị gián đoạn không (ví dụ trường hợp khi Tòa án nhận hồ sơ vụ án, chưa kịp phân công Thẩm phán Chủ tọa phiên tòa). Các vấn đề trên chưa có hướng dẫn cụ thể, gây ra tình trạng áp dụng tùy tiện, không thống nhất.
- BLTTHS quy định khi áp dụng BPNC “bảo lĩnh” thì bị can, bị cáo phải làm giấy cam đoan thực hiện các nghĩa vụ theo quy định, người nhận bảo lĩnh phải làm giấy cam đoan có xác nhận của chính quyền địa phương hoặc người đứng đầu cơ quan, tổ chức. Như vậy, các văn bản trên có được sử dụng xuyên suốt qua các giai đoạn tố tụng hay không? Hay mỗi giai đoạn tố tụng hoặc mỗi lần ra Quyết định “bảo lĩnh” khác nhau phải yêu cầu bị can, bị cáo (“bảo lĩnh” thì thêm người nhận bảo lĩnh) làm lại giấy cam đoan. Từ thực tiễn xét xử, tác giả nhận thấy còn áp dụng tùy tiện, không thống nhất. Vì quá trình giải quyết vụ án có nhiều giai đoạn tố tụng, mỗi giai đoạn có thể phải kéo dài, gia hạn... Nếu mỗi lần ra quyết định nói trên phải yêu cầu bị can, bị cáo làm giấy cam đoan là không cần thiết (ví dụ: giai đoạn xét xử ra quyết định bảo lĩnh lần đầu, gia hạn thời hạn chuẩn bị ra thêm quyết định cho bảo lĩnh phải cần có thủ tục bảo lĩnh; hoãn phiên tòa 03 lần lại cần thủ tục giấy tờ cam đoan 03 lần...) gây phiền hà, mất thời gian cho bị can, bị cáo, người nhận bảo lĩnh, nhất là các vụ án có bị can, bị cáo ở xa các CQTHTT (đặc biệt là các Tòa án quân sự địa bàn rất rộng nên vấn đề này gây ảnh hưởng lớn đến việc gửi các thủ tục của bị can, bị cáo, người nhận bảo lĩnh), dẫn đến sẽ gây khó khăn trong việc áp dụng đúng thời hạn các BPNC “bảo lĩnh”.
- Tòa án sau khi xét xử sơ thẩm, phúc thẩm vẫn ra quyết định cho “bảo lĩnh”, có Tòa án sau khi xét xử không tiếp tục áp dụng một trong các BPNC, mặc dù bị cáo bị áp dụng hình phạt tù. Có quan điểm cho rằng tùy thuộc vào từng loại hình phạt được áp dụng, từ đó mới có căn cứ để Hội đồng xét xử áp dụng biện pháp ngăn chặn sau khi xét xử. Tuy nhiên, vấn đề này chưa có văn bản hướng dẫn. Ngày 03/7/2019, Tòa án quân sự Trung ương có Công văn số 503/TA-NCTH thông báo Kết luận của Chánh án Tòa án quân sự Trung ương tại Hội nghị Sơ kết và tập huấn nghiệp vụ năm 2019, có nội dung: “Căn cứ vào tính chất của hai loại hình phạt nêu trên (phạt tiền, cải tạo không giam giữ) thì không cần thiết tiếp tục áp dụng biện pháp ngăn chặn “bảo lĩnh” hoặc “cấm đi khỏi nơi cư trú” đối với họ”. Tuy nhiên, trường hợp bị cáo bị xử phạt tù nhưng cho hưởng án treo thì có tiếp tục áp dụng biện pháp ngăn chặn không? Thẩm quyền thuộc HĐXX hay Thẩm phán Chủ tọa phiên tòa?.
- Thực tiễn áp dụng BPNC “Bảo lĩnh” hiệu quả thấp, nhiều trường hợp cơ quan, tổ chức, người nhận bảo lĩnh không theo dõi, quản lý chặt chẽ nên để xảy ra việc bị can, bị cáo bỏ trốn hoặc vi phạm nghĩa vụ đã cam đoan, gây khó khăn cho quá trình tiến hành tố tụng. Trách nhiệm của chính quyền cơ sở trong việc quản lý, theo dõi bị can, bị cáo tại ngoại không rõ ràng, khi vi phạm thì không có chế tài áp dụng làm hạn chế tính khả thi của các biện pháp ngăn chặn này. Trường hợp cá nhân, cơ quan, tổ chức nhận bảo lĩnh để bị can, bị cáo vi phạm nghĩa vụ đã cam đoan thì bị phạt tiền (khoản 6 Điều 121 BLTTHS) nhưng chưa có quy định về cơ chế xử phạt (trình tự, thủ tục, thẩm quyền...).
2. Một số đề xuất, kiến nghị
- Thứ nhất, theo tác giả phải thống nhất cách hiểu quy định biện pháp ngăn chặn “bảo lĩnh” được áp dụng kể cả đối với bị can, bị cáo đang bị tạm giữ, tạm giam và bị can, bị cáo bị khởi tố, chưa bị tạm giữ, tạm giam, nhưng thấy vẫn cần phải ngăn ngừa bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội và để đảm bảo sự có mặt của bị can, bị cáo theo giấy triệu tập của cơ quan có thẩm quyền, căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và nhân thân bị can, bị cáo. Cách hiểu này thể hiện phạm vi áp dụng của biện pháp này toàn diện hơn. Còn quan điểm: Biện pháp “bảo lĩnh” chỉ áp dụng để thay thế biện pháp tạm giam (nghĩa là bị can, bị cáo đang bị tạm giam thay đổi sang biện pháp “bảo lĩnh”) là không đầy đủ.
- Thứ hai, đối với bị can, bị cáo chỉ áp dụng biện pháp bảo lĩnh khi có các điều kiện sau: Bị can, bị cáo phạm tội lần đầu; có nơi cư trú rõ ràng; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; người tàn tật nặng hoặc đặc biệt nặng; phụ nữ có thai, nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi; người già, bệnh nặng, người chưa thành niên. Có căn cứ xác định sau khi được tại ngoại, bị can, bị cáo sẽ có mặt theo giấy triệu tập của cơ quan tiến hành tố tụng; việc cho bị can, bị cáo tại ngoại không gây ảnh hưởng đến an ninh trật tự tại địa phương. Không áp dụng bảo lĩnh đối với bị can, bị cáo đã có tiền án chưa được xóa án tích mà lại phạm tội; bị can, bị cáo bị bắt theo lệnh truy nã; là đối tượng phạm tội có tính chất chuyên nghiệp; người nghiện ma túy; hành vi phạm tội của bị can, bị cáo gây dư luận trong xã hội.
- Thứ ba, để đảm bảo thực hiện đúng quy định của pháp luật về thẩm quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn, tác giả đề xuất sửa quy định tại điểm a khoản 2 Điều 44 BLTTHS cụ thể như sau: 2. Khi tiến hành việc giải quyết vụ án hình án hình sự, Chánh án Tòa án có những nhiệm vụ, quyền hạn: “a. Quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, xử lý vật chứng;”
- Thứ tư, việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh ở mỗi giai đoạn tố tụng khác nhau, để đảm bảo các thủ tục áp dụng biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh không bị gián đoạn, tác giả đề xuất trước khi Viện kiểm sát chuyển hồ sơ chuyển sang Tòa án thụ lý giải quyết theo thẩm quyền phải thông báo cho Tòa án biết đã áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với bị can, kể cả biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh (tương tự như biện pháp ngăn chặn tạm giam). Đồng thời, quy định mỗi giai đoạn tố tụng phải có thủ tục bảo lĩnh mới (giấy cam đoan của bị can, bị cáo, của người nhận bảo lĩnh...). Đối với giai đoạn xét xử của Tòa án khi thụ lý vụ án, phải yêu cầu bị can, bị cáo cung cấp thủ tục bảo lĩnh mới; không áp dụng thủ tục bảo lĩnh của giai đoạn trước đó của CQĐT, VKS.
- Thứ năm, đối với người nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo là cá nhân nhận bảo lĩnh quy định điều kiện phải là người thân thích của bị can, bị cáo; có phẩm chất chính trị tốt, không liên quan đến vụ án; có khả năng thực hiện trách nhiệm của người nhận bảo lĩnh; phải cư trú cùng địa phương với bị can, bị cáo để bảo đảm sự giám sát để có thể kịp thời báo cáo ngay đến CQTHTT khi phát hiện người được bảo lĩnh vi phạm nghĩa vụ đã cam đoan. Có sự đồng ý của người được bảo lĩnh là bị can, bị cáo. Người nhận bảo lĩnh có thể là người bào chữa hoặc đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo. Kèm theo chứng cứ, tài liệu về hành vi phạm tội, nhân thân của bị can để xác định tính chất, mức độ hành vi của bị can không cần thiết phải áp dụng biện pháp tạm giam...
- Thứ sáu, đối với người nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo là cơ quan, tổ chức nhận bảo lĩnh quy định cơ quan, tổ chức không liên quan đến vụ án; có khả năng thực hiện trách nhiệm của người nhận bảo lĩnh; đối với cơ quan, tổ chức là doanh nghiệp khi nhận bảo lĩnh phải cung cấp tài liệu về kết quả kinh doanh trong thời gian 06 tháng gần nhất, xác định là doanh nghiệp không làm ăn thua lỗ, nợ nần, không có hành vi vi phạm pháp luật và không bị điều tra, truy tố, xét xử; phải là cơ quan trực tiếp của bị can, bị cáo để bảo đảm sự giám sát để có thể kịp thời báo cáo ngay đến CQTHTT khi phát hiện người được bảo lĩnh vi phạm nghĩa vụ đã cam đoan. Có sự đồng ý của người được bảo lĩnh là bị can, bị cáo.
- Thứ bảy, đề nghị cơ quan chuyên môn cấp trên quy định chặt chẽ hơn về ràng buộc cụ thể để nâng cao trách nhiệm của tổ chức, cá nhân trong việc quản lý, giám sát các đối tượng được áp dụng các biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh và một số biện pháp ngăn chặn không bị tạm giam khác. Đây là vấn đề cần được đặt ra để giải quyết vì trong thực tế hiện nay, có rất nhiều trường hợp các đối tượng được áp dụng các biện pháp ngăn chặn trên trong thời gian tại ngoại các đối tượng trên đã trốn khỏi địa phương hoặc chuyển đi địa phương khác làm ăn, sinh sống mà không thông báo và làm các thủ tục cần thiết theo quy định của pháp luật. Do đó, khi Tòa án ra quyết định thi hành án thì bản án, quyết định của Tòa án không được thi hành, dẫn đến Cơ quan THAHS phải ra quyết định truy nã và tổ chức truy bắt (đối với trường hợp bị án bị xử phạt tù) hoặc là không thể thi hành được (trong trường hợp án treo, cải tạo không giam giữ), gây hậu quả mất niềm tin trong nhân dân và tốn thời gian, tiền của của Nhà nước./.
NGUYỄN TẤT TRÌNH
Tòa án quân sự Khu vực 1 Quân khu 5
Áp dụng ‘án treo’: Khó khăn, vướng mắc và đề xuất, kiến nghị
2. 04 Luật trong lĩnh vực tiền tệ - ngân hàng sẽ được sửa đổi trong năm 2022
(LSVN) - Thống đốc Ngân hàng Nhà nước vừa ban hành Chỉ thị 01/CT-NHNN ngày 13/01/2022 về tổ chức thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm của ngành Ngân hàng trong năm 2022. Trong đó Ngân hàng Nhà nước đề ra nhiệm vụ sẽ sửa đổi 04 Luật trong lĩnh vực tiền tệ - ngân hàng.
Ảnh minh họa.
Chỉ thị nêu rõ thực hiện Nghị quyết số 32/2021/QH15 ngày 12/11/2021, Nghị quyết số 41/2021/QH15 ngày 13/11/2021 của Quốc hội, Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 08/01/2022 và Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 10/01/2022 của Chính phủ, Nghị quyết số 23-NQ/BCSĐ ngày 31/12/2021 của Ban cán sự Đảng Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước yêu cầu các đơn vị thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài (sau đây gọi là tổ chức tín dụng) thực hiện tốt các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ và hoạt động ngân hàng năm 2022 nhằm kiểm soát lạm phát, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ phục hồi tăng trưởng kinh tế và đảm bảo sự phát triển an toàn, bền vững của hệ thống các tổ chức tín dụng.
Cụ thể, theo kế hoạch thực hiện các Nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ, 04 Luật dự kiến được sửa đổi bao gồm:
- Luật phòng, chống rửa tiền (sửa đổi).
- Sửa đổi, bổ sung Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
- Sửa đổi, bổ sung Luật Các tổ chức tín dụng.
- Luật sửa đổi, bổ sung Luật Bảo hiểm tiền gửi.
Ngoài ra, Chỉ thị 01/CT-NHNN còn đặt ra kế hoạch xây dựng một số Nghị định, Thông tư hướng dẫn về hoạt động ngân hàng như xây dựng 05 Nghị định:
+ Nghị định Chính phủ về chính sách tín dụng ưu đãi thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030.
+ Nghị định về thanh toán không dùng tiền mặt.
+ Nghị định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát hoạt động công nghệ tài chính trong lĩnh vực ngân hàng.
+ Nghị định thay thế Nghị định 16/2017/NĐ-CP ngày 17/02/2017 về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của NHNN.
+ Nghị định của Chính phủ về phòng, chống tiền giả và bảo vệ tiền Việt Nam.
- Xây dựng 06 Thông tư: Thông tư hướng dẫn về dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt; Thông tư hướng dẫn việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán; Thông tư hướng dẫn dịch vụ trung gian thanh toán; Thông tư quy định về hoạt động thẻ ngân hàng; Thông tư quy định về giám sát các hệ thống thanh toán, hoạt động cung ứng dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt, dịch vụ trung gian thanh toán; Thông tư quy định về hệ thống kiểm soát nội bộ của tổ chức tín dụng phi ngân hàng.
HÀ ANH
Bắt giữ Giám đốc và 01 nhân viên BV Thủ Đức vụ mua kit xét nghiệm Việt Á
3. Quy định về thụ lý đơn khiếu nại trong thi hành án dân sự
(LSVN) – Đây là một trong những nội dung đáng chú ý tại Thông tư 13/2021/TT-BTP của Bộ Tư pháp vừa ban hành quy định về quy trình xử lý, giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh trong thi hành án dân sự.
Khiếu nại về thi hành án dân sự là việc đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc thi hành án dân sự đề nghị người có thẩm quyền xem xét lại quyết định, hành vi của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự, Chấp hành viên nếu có căn cứ cho rằng quyết định, hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Điều 9 Thông tư quy định cụ thể về thụ lý đơn khiếu nại, yêu cầu báo cáo, giải trình, cung cấp hồ sơ, tài liệu. Theo đó, trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được đơn khiếu nại lần đầu, 10 ngày kể từ ngày nhận được đơn khiếu nại lần hai, nếu thuộc thẩm quyền giải quyết và không thuộc trường hợp quy định tại Điều 141 Luật Thi hành án dân sự, người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại phải thụ lý giải quyết và thông báo bằng văn bản cho người khiếu nại.
Người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại ra một thông báo thụ lý đối với mỗi đơn khiếu nại. Trường hợp nhiều người khiếu nại về cùng một nội dung vào cùng thời điểm thì người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại ra một thông báo thụ lý chung kèm theo danh sách những người khiếu nại.
Về thực hiện việc báo cáo giải trình, cung cấp hồ sơ, tài liệu, trong thời hạn 02 ngày làm việc, kể từ ngày thông báo thụ lý, người giải quyết khiếu nại yêu cầu người bị khiếu nại báo cáo giải trình bằng văn bản, cung cấp hồ sơ vụ việc.
Đối với Chấp hành viên thì thời hạn thực hiện là không quá 02 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được yêu cầu.
Đối với cơ quan thi hành án dân sự cấp dưới thì thời hạn thực hiện báo cáo giải trình, cung cấp hồ sơ, tài liệu là không quá 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn bản. Đồng thời với việc phát hành công văn yêu cầu theo đường bưu điện hoặc trên trục liên thông văn bản quốc gia, người giải quyết khiếu nại có thể sử dụng điện thoại, fax hoặc thư điện tử,... yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự thực hiện.
Thủ trưởng cơ quan quản lý thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp, Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự được yêu cầu phải báo cáo giải trình và chịu trách nhiệm về tính trung thực, đầy đủ, chính xác của báo cáo, hồ sơ, tài liệu. Hồ sơ, tài liệu sao gửi phải đánh bút lục, có xác nhận của Thủ trưởng cơ quan.
Trường hợp nội dung đơn khiếu nại, báo cáo giải trình của người bị khiếu nại và hồ sơ, tài liệu có liên quan đã rõ ràng, có đủ căn cứ, cơ sở pháp lý để kết luận, giải quyết thì người giải quyết khiếu nại ra ngay quyết định giải quyết khiếu nại.
TIẾN HƯNG
Thẩm quyền giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự
4. Tư tưởng Hồ Chí Minh về phòng, chống tham nhũng
(LSVN) - Tư tưởng Hồ Chí Minh về phòng, chống tham nhũng không chỉ “là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá” của Đảng và dân tộc ta mà còn cung cấp những cơ sở khoa học và kinh nghiệm thực tiễn sâu sắc trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở nhiều quốc gia trên thế giới. Người không chỉ bắt đúng bệnh, đưa ra đúng phác đồ điều trị, mà còn kê các phương thuốc đặc trị chứng bệnh tham nhũng của cán bộ, đảng viên.
Chủ nghĩa cá nhân - “bệnh mẹ” đẻ ra tham nhũng
Bệnh tham nhũng trong cán bộ, đảng viên được Hồ Chí Minh diễn đạt trong một thuật ngữ chung nhất là tham ô. Người chỉ rõ bản chất của tham ô là hành vi “lấy của công làm của tư. Là gian lận, tham lam”, “tham ô là trộm cướp”. “Của công” chính là tài sản của nhân dân, do nhân dân đóng góp, phục vụ mục đích chung là giải phóng dân tộc, xây dựng đất nước. Bất cứ hành vi nào lấy “của công” làm “của tư” cũng đều là hành vi tham ô... Trong “Thư gửi UBND các kỳ, tỉnh, huyện và làng, Người đã chỉ ra 6 “lầm lỗi rất nặng nề” của cán bộ cần phải ra sức sửa chữa đó là: Trái phép, cậy thế, hủ hóa, tư túng, kiêu ngạo. Trong đó, Người đặc biệt cảnh báo và lên án hành vi “lấy của công dùng vào việc tư, quên cả thanh liêm, đạo đức...”(1).
Thực tiễn cho thấy, Cách mạng Tháng 8 năm 1945 thành công, Đảng Cộng sản Việt Nam có vinh dự lớn lao trở thành Đảng cầm quyền. Thắng lợi của của cuộc cách mạng đó là biểu tượng của trí tuệ, bản lĩnh, sức sáng tạo phi thường và “tư cách của một Đảng cách mệnh chân chính”. Tuy nhiên, nước nhà giành được độc lập chưa lâu, chính quyền cách mạng non trẻ lại phải đối mặt với những khó khăn, thách thức to lớn của giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm; tình cảnh đất nước hiểm nghèo “ngàn cân treo sợi tóc”. Bên cạnh tập trung giải quyết những nhiệm vụ cấp bách của chính quyền dân chủ, nhân dân, Đảng ta lại phải đối phó với giặc nội xâm còn nguy hại hơn đó là chủ nghĩa cá nhân. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Chủ nghĩa cá nhân là việc gì cũng chỉ lo cho lợi ích riêng của mình, không quan tâm đến lợi ích chung của tập thể, “miễn là mình béo, mặc thiên hạ gầy”(2). Người khẳng định, chủ nghĩa cá nhân là bệnh mẹ đẻ ra trăm thứ bệnh con nguy hiểm; một thứ vi trùng rất độc, do nó mà sinh ra các thứ bệnh rất nguy hiểm khác. Trong số những căn bệnh do chủ nghĩa cá nhân gây ra, tham nhũng là căn bệnh nguy hiểm nhất, là “hành động xấu xa nhất, tội lỗi, đê tiện nhất”(3). Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Trộm cắp tiền bạc của Nhân dân, tổn hại kinh tế của Chính phủ, cũng là mật thám, phản quốc, nếu không phải là tệ hơn nữa”(4). Người cũng nhắc lại lời cảnh báo của V. I. Lênin: “Không xử bắn lũ ăn của đút lót… đó là một điều xấu hổ cho những đảng viên cộng sản, cho những người cách mạng… Phải lập tức đề nghị một đạo luật để trừng trị những vụ hối lộ (ăn hối lộ, tặng hối lộ, và những cách hối lộ khác)”(5).
Không phải ngẫu nhiên mà người đứng đầu Đảng và Chính phủ lại dám thẳng thắn phê phán gay gắt như thế đối với những khuyết điểm, sai lầm của cán bộ, đảng viên. Hồ Chí Minh hiểu rất rõ rằng, đây là những lỗi lầm đặc biệt nghiêm trọng, có hại cho dân, cho nước cần phải ra sức kiên trì sửa chữa. Đặc biệt, sự phê phán không chỉ bằng văn thư hành chính nội bộ mà còn công khai lên báo chí công luận, như để tự phê bình, tự kiểm điểm trước nhân dân. Việc chỉ ra đích danh tham ô là hành vi “trộm cướp”, “là mật thám, phản quốc” đủ để quần chúng thấy rõ quan điểm, thái độ của Đảng ta không chấp nhận sự tồn tại của những hành vi ấy trong đời sống chính trị của Đảng và toàn dân. Đồng thời. là sự khởi đầu cho việc hình thành một lối sống văn hóa trong Đảng, một tập quán chính trị tiến bộ và là tiêu chí quan trọng của một đảng “là đạo đức, là văn minh” - đã là cán bộ, đảng viên phải trong sạch, phải nói không với tham nhũng.
Hồ Chí Minh không chỉ dũng cảm nhìn thẳng vào sự thật, chỉ rõ thực trạng tham nhũng bằng thái độ kiên quyết không “giấu giếm khuyết điểm” mà quan trọng hơn Người đặt niềm tin tuyệt đối vào thắng lợi tất yếu trong cuộc đấu tranh đó. Đó là niềm tin cách mạng và khoa học chứ không phải là “ý niệm tuyệt đối” trong giáo lý tôn giáo; thể hiện ý chí quyết tâm sửa chữa khuyết điểm, sai lầm, chỉ ra con đường và biện pháp diệt trừ tham nhũng. Bởi vì, đó là danh dự, lương tâm của những người cộng sản, nếu không làm được như vậy thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân. Tuy nhiên, cũng cần bàn thêm ở đây, để đấu tranh diệt trừ tham nhũng mà không gây ra hoang mang cho những cán bộ dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm và thức tỉnh cán bộ đảng viên “cải tả quy chính”, theo Hồ Chí Minh phải hết sức thận trọng, bình tĩnh, tỉnh táo và mưu lược.
Nghĩa là, phải có chiến lược phòng chống tham nhũng cụ thể, xác định rõ quyết tâm, kiện toàn tổ chức, bố trí lực lượng, định ra phương pháp, phương tiện đấu tranh, tuyệt nhiên không phải là hành động tự phát, nhất thời. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Ắt phải có chuẩn bị, kế hoạch, tổ chức, ắt phải có lãnh đạo và trung kiên”(6). Trên cơ sở nhận diện đúng nguyên nhân nảy sinh tham nhũng, Hồ Chí Minh đã chỉ ra đúng “phác đồ điều trị” để phòng, chống tham nhũng.
Tự phê bình và phê bình - “thang thuốc hay nhất”(7), “thang thuốc thánh”(8) để phòng, chống tham nhũng
Trong tiềm thức của mỗi người dân Việt Nam cũng như trong quan niệm của Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam không đơn thuần là một Đảng chính trị, thực hiện các chức năng tổ chức, lãnh đạo giai cấp mà Đảng luôn là một cơ thể sống hoàn chỉnh, có đạo đức và trí tuệ - Đảng là “đạo đức, là văn minh”. Vai trò lãnh đạo của Đảng là to lớn, tổ chức của Đảng là chặt chẽ, kỷ luật, đường lối của Đảng là sáng suốt, đúng đắn; đảng viên của Đảng là những người ưu tú nhất song không phải là Đảng không có những sai lầm, khuyết điểm. Tuy nhiên, những sai lầm, khuyết điểm của Đảng là có thể khắc phục, sửa chữa được, vì Đảng có chủ nghĩa Mác - Lênin soi đường, xác định rõ tôn chỉ mục đích là phục vụ nhân dân, đặc biệt là có phê bình và tự phê bình. Tự phê bình và phê bình giống như chiếc gương soi, như người bạn đồng hành, soi đường, chỉ lối cho mỗi cán bộ, đảng viên trong mỗi bước đi để tránh “vết xe đổ” của chính mình và của người khác.
Lãnh tụ thiên tài Hồ Chí Minh đã sớm nhận ra quy luật ấy. Hồ Chí Minh nhiều lần khẳng định mục đích tự phê bình và phê bình là để giúp nhau sửa chữa, giúp nhau tiến bộ, giữ gìn đoàn kết và thống nhất trong nội bộ. Hồ Chí Minh khẳng định, tự phê bình và phê bình chính là “thang thuốc hay nhất”, “thang thuốc thánh” để phòng, chống tham nhũng. Để tự phê bình và phê bình đem lại kết quả phải “khéo dùng cái vũ khí sắc bén” ấy, để không bị kẻ xấu lợi dụng vào việc công kích, nói xấu, triệt hạ nhau. Khi gặp khó khăn thì tự phê bình và phê bình để thống nhất tư tưởng, ý chí và hành động, dũng cảm vượt qua khó khăn. Khi thuận lợi thì tự phê bình và phê bình, để nhận rõ thách thức ở phía trước, không chủ quan “ngủ quên trên vòng nguyệt quế”. Khi mắc khuyết điểm, sai lầm, kể cả tội lỗi xấu xa, đê tiện nhất thì “Phê bình và tự phê bình như uống thuốc xổ. Xổ rồi thì phải uống thuốc bổ. Tháo xe đạp ra chùi cho sạch bụi, lúc lắp vào phải cho dầu mỡ, xe mới chạy được”(9).
Tự phê bình và phê bình là một vấn đề rất nhạy cảm, đụng chạm đến từng cá nhân và tổ chức. Tâm lý của con người là thích được khen hơn bị chê. Mọi người dễ cho rằng tự nói ra khuyết điểm, tự nhận khuyết điểm nghĩa là tự thừa nhận sự non kém của mình. Điều này dễ liên lụy đến uy tín, chức tước, địa vị và thứ bậc nghề nghiệp, vì “người ta hay có lòng tự ái. Thừa nhận cái sai, cái dốt, cái kém của mình, thì sợ mất thể diện, mất uy tín, mất địa vị”(10). Vì vậy, Hồ Chí Minh cho rằng muốn tự phê bình và phê bình căn bệnh tham ô đòi hỏi phải có hai yếu tố đặc biệt quan trọng đó là thái độ và phương pháp đúng.
Thứ nhất, thái độ đúng là yếu tố rất quan trọng giúp ngăn ngừa tham nhũng ngay khi nó còn trong trứng nước, thể hiện ở tinh thần cầu thị, lắng nghe, thấu hiểu, cảm thông chia sẻ, dũng cảm, kiên trì đấu tranh trên tình đồng chí thương yêu, giúp đỡ nhau. Nếu thái độ không đúng dễ dẫn đến bao che, giấu giếm khuyết điểm, dễ gây hiềm khích, mất đoàn kết, mất niềm tin đối với đồng chí mình. Nó càng đặc biệt nguy hại khi tự phê bình và phê bình hành vi tham ô bị lợi dụng làm bình phong cho ai đó vì mưu đồ cá nhân, vì lòng hẹp hòi, đố kỵ, hòng hạ bệ đồng chí mình gây mất đoàn kết nội bộ, làm hoang mang mất niềm tin trong nhân dân.
Do đó, tự phê bình và phê bình “phải ráo riết, và phải lấy lòng thân ái, lấy lòng thành thật, mà ráo riết phê bình đồng chí mình. Hai việc đó phải đi đôi với nhau”(11). Hồ Chí Minh cũng lưu ý, thái độ khoan dung, nhân ái cần phù hợp với từng đối tượng cụ thể, với tính chất mức độ của khuyết điểm, sai lầm, tuyệt đối không được cào bằng; phải kiên quyết xét rõ công - tội, không thiên tư, thiên vị. Với những cán bộ, đảng viên biết ăn năn, hối cải, Đảng cần khoan dung, độ lượng tạo cơ hội cho họ sửa chữa khuyết điểm, sai lầm. Quan điểm trên không chỉ thể hiện bản chất nhân văn của Đảng Cộng sản Việt Nam mà còn khơi gợi ý thức tự giác ở mỗi cán bộ, đảng viên trong tu dưỡng, rèn luyện bản thân.
Thứ hai, phương pháp đúng - đây là vấn đề mấu chốt nhất cần phải có. Theo Hồ Chí Minh, phương pháp hiệu quả nhất đó là phải được duy trì thường xuyên và trên cơ sở đề cao trách nhiệm nêu gương của mỗi cán bộ, đảng viên. Trong bài “Tự phê bình”, Hồ Chí Minh căn dặn: “Ngày nào cũng phải ăn cho khỏi đói, rửa mặt cho khỏi bẩn, thì ngày nào cũng phải tự phê bình cho khỏi sai lầm”(12). Trong sinh hoạt, mỗi cán bộ, đảng viên phải chỉ ra cho đồng chí mình những tác hại, nguyên nhân dẫn đến khuyết điểm sai lầm.
Đồng thời, phải thường xuyên quan tâm hướng dẫn, động viên, kiểm tra, theo dõi quá trình sửa chữa khuyết điểm, sai lầm của đồng chí, đồng nghiệp. Hồ Chí Minh đặc biệt phê phán các biểu hiện hình thức, thiếu nhất quán “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”, “nói không đi đôi với làm”, “nói một đàng làm một nẻo”, nặng về hô hào khẩu hiệu, bệnh thành tích… sẽ làm giảm hiệu quả, đôi khi phản tác dụng của việc tự phê bình và phê bình. Để đề cao trách nhiệm nêu gương theo Người cần phải chú trọng nêu gương trong Đảng trước, nhất là trách nhiệm nêu gương của cán bộ cao cấp. Người chỉ rõ: “Muốn tự phê bình và phê bình có kết quả, cán bộ các cấp, nhất là cán bộ cao cấp phải làm gương trước”(13). Bởi vì, “uy tín của người lãnh đạo là ở chỗ mạnh dạn thực hiện tự phê bình và phê bình, biết học hỏi quần chúng, sửa chữa khuyết điểm để đưa công việc ngày càng tiến bộ chứ không phải ở chỗ giấu giếm khuyết điểm và e sợ quần chúng phê bình”(14).
Việc tự phê bình và phê bình hành vi tham ô phải gắn liền với những điều kiện cụ thể, phù hợp với đặc điểm, hoàn cảnh của từng cá nhân trên từng cương vị công tác. Ở mỗi đơn vị, trong từng hoàn cảnh, nội dung, cách thức tiến hành phải phù hợp với điều kiện khi thực hiện tự phê bình và phê bình. Những cán bộ, đảng viên có tinh thần cầu thị sẽ thấy việc tự phê bình và phê bình là thang thuốc hay để trị bệnh tham ô. Còn đối với những trường hợp suy thoái, nhất là tha hóa, biến chất thì việc phê bình không còn nghĩa lý gì. Do vậy, chỉ phê bình thôi chưa đủ mà cần kết hợp với các biện pháp khác, nhất là việc kiểm soát quyền lực.
Kiểm soát quyền lực - “thanh bảo kiếm nhiệm màu” phòng, chống tham nhũng
Trong điều kiện đảng cầm quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm vấn đề kiểm soát quyền lực khi trao cho cán bộ, đảng viên. Bởi vì, “Cán bộ các cơ quan, các đoàn thể, cấp cao thì quyền to, cấp thấp thì quyền nhỏ. Dù to hay nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm là có dịp đục khoét, có dịp ăn của đút, có dịp “dĩ công vi tư”(15). Do đó, nếu tổ chức việc kiểm tra cho chu đáo thì cũng như có ngọn đèn “pha” bao nhiêu tình hình, bao nhiêu ưu điểm và khuyết điểm, bao nhiêu cán bộ chúng ta đều thấy rõ. Có thể nói rằng: chín phần mười khuyết điểm trong công việc của chúng ta là vì thiếu sự kiểm tra”(16). Theo Hồ Chí Minh, muốn kiểm soát quyền lực phải có hai điều: “Một là việc kiểm soát phải có hệ thống, phải thường xuyên làm. Hai là, người đi kiểm soát phải là những người rất có uy tín”(17).
Để kiểm soát quyền lực thì việc lựa chọn cán bộ phụ trách kiểm tra, giám sát, kiểm soát là yêu cầu quan trọng bậc nhất. Hồ Chí Minh nhấn mạnh phải chú trọng lựa chọn những người biết đặt lợi ích của Đảng lên trên hết, trước hết, phải có tinh thần “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ” và “ít lòng tham muốn vật chất”, không vì cảnh nghèo mà thay lòng đổi dạ sinh ra bất liêm. Vì lợi ích của Đảng tức là lợi ích của dân tộc, của Tổ quốc. Theo Người, đây chính là căn cứ quan trọng bậc nhất trong đánh giá, lựa chọn cán bộ đảm trách công tác kiểm tra, giám sát.
Đồng thời, phải lựa chọn những người có đủ uy tín, kinh nghiệm, năng lực trình độ để lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực. Không phải gặp việc gì, gặp ai cũng có thể phái đi kiểm tra, giám sát, kiểm soát được. Do đó, Hồ Chí Minh cho rằng: cán bộ phụ trách công tác kiểm tra trước hết phải là người lãnh đạo và “người lãnh đạo cần phải có một nhóm cán bộ nhiều kinh nghiệm và giàu năng lực để giúp mình đi kiểm tra”(18). Trong công tác kiểm tra, người lãnh đạo cần chú trọng xây dựng một đội ngũ cán bộ thực hiện nhiệm vụ kiểm tra và phải chịu trách nhiệm đối với công tác kiểm tra của mình. Đồng thời, Hồ Chí Minh phê phán rất nghiêm khắc những người lãnh đạo, cán bộ kiệm tra mắc bệnh quan liêu, bệnh bàn giấy: “đầy túi quần thông cáo, đầy túi áo chỉ thị” mà công việc vẫn không chạy”(19).
Song song với việc lựa chọn cán bộ, để đảm bảo công tác kiểm tra, kiểm soát quyền lực thực sự là “thanh bảo kiếm nhiệm màu” trong phòng, chống tham nhũng đòi hỏi phải có phương pháp đúng, nghĩa là kiểm tra, kiểm soát phải có hệ thống và sát thực tiễn. Mục đích của việc kiểm tra, kiểm soát quyền lực nói chung, trong đấu tranh phòng chống tham nhũng nói riêng là “để giúp họ rút kinh nghiệm, sửa chữa khuyết điểm, phát triển ưu điểm”(20), tuyệt nhiên không phải là hành động “bới bèo ra bọ, quét nhà ra rác” rồi tìm cách hạ uy tín, hạ bệ nhau. Đối tượng kiểm tra theo Hồ Chí Minh bao gồm: Kiểm tra nhân viên công tác và kiểm tra việc chấp hành thực tế công tác - mấu chốt của toàn bộ công tác, của toàn bộ chính sách hiện nay là ở đấy, vẫn ở đấy và chỉ có ở đấy. Trong quá trình kiểm tra không nên chỉ căn cứ vào các báo cáo, mà phải sâu sát thực tiễn đi đến tận nơi.
Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý, hiệu quả công việc chính là thước đo đánh giá kết quả sử dụng quyền lực ủy thác. Thông qua công tác kiểm tra để xem những nghị quyết đó đã thực hành được đến đâu, có những sự khó khăn trở ngại gì, nhân dân có ra sức tham gia hay không. Trên cơ sở đó vừa phát huy ưu điểm, phát hiện cái mới, cái tốt hơn nhằm điều chỉnh phương thức lãnh đạo sát hợp hơn; đồng thời, ngăn ngừa, khắc phục những biểu hiện quan liêu, xa dân, không sâu sát thực tiễn trong tác phong công tác của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu.
Ngoài ra, để kiểm tra, kiểm soát quyền lực không chỉ dựa vào lực lượng chuyên trách mà quan trọng nhất cần phải dựa vào tai mắt của nhân dân. Trên thực tế, hầu hết các vụ việc tham nhũng đều do nhân dân phát hiện và tố giác. Muốn phát huy vai trò của nhân dân trong kiểm tra, kiểm soát quyền lực, theo Hồ Chí Minh, Đảng phải giữ mối liên hệ mật thiết với nhân dân; phải công khai mọi hoạt động của Nhà nước; phải hình thành các thiết chế dân chủ để mọi người dân “biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm”(21).
Đây chính là cơ sở để người dân tham gia kiểm tra, giám sát mọi hoạt động của các cơ quan nhà nước, của mọi cán bộ, đảng viên trong Nhà nước. Trên cơ sở đó, các hành vi tham nhũng dù tinh vi đến đâu cũng không thể che mắt nhân dân. Cán bộ phụ trách công tác kiểm tra phải thường xuyên gần gũi dân, lắng nghe dân, bảo vệ dân và học hỏi dân để phát hiện tiêu cực, kịp thời ngăn chặn và xử lý nghiêm các hành vi tham nhũng.
Trên cơ sở kết quả kiểm tra cần phải công khai trừng trị cán bộ, đảng viên đã tha hóa, biến chất, suy thoái để răn đe, cảnh tỉnh và nêu gương “tự chỉnh đốn” trước quần chúng. Theo Hồ Chí Minh, Đảng không dũng cảm cắt bỏ ung nhọt, sâu bệnh sẽ rất khó để phòng ngừa tham nhũng. Việc Chủ tịch Hồ Chí Minh bác đơn xin ân giảm án tử hình của Đại tá, Cục trưởng Cục Quân nhu Trần Dụ Châu được coi là điển hình của tinh thần “thượng tôn” pháp luật, đức trị kết hợp với pháp trị - thực sự có sức mạnh răn đe đối với những cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất, tha hóa quyền lực vào thời điểm lúc bấy giờ.
Giáo dục đạo đức công dân – “chất đề kháng hữu hiệu” để phòng, chống tham nhũng
Đạo đức công dân là những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội, nhằm điều chỉnh nhận thức, hành vi của công dân trong quan hệ với Nhà nước, nó được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống, sức mạnh của dư luận xã hội và pháp luật. Hồ Chí Minh coi giáo dục đạo đức công dân là nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách để ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng. Bởi vì, đạo đức công dân chính là nền tảng tinh thần định hướng, dẫn dắt công dân hướng tới những giá trị dân chủ mới, đề kháng với những biểu hiện phi dân chủ, ngăn chặn, đẩy lùi các hiện tượng tiêu cực trong bộ máy nhà nước, nhất là tệ quan liêu, tham nhũng. Nó được thể hiện ở hai khía cạnh: tạo ra môi trường chính trị - xã hội trong sạch, lành mạnh và tạo ra sức đề kháng từ bên trong để ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng.
Xét ở khía cạnh thứ nhất, bản chất của đạo đức công dân chính là việc đề cao trách nhiệm, nghĩa vụ của công dân với nhà nước. Với tư cách là người chủ quyền lực, khi đạo đức công dân được nâng cao họ sẽ sáng suốt lựa chọn những đại biểu ưu tú để “ủy thác quyền lực”, tránh hiện tượng trao nhầm quyền lực dẫn đến các hành vi tham nhũng và các căn bệnh xấu xa, hư hỏng khác. Đồng thời, nó tạo ra dư luận xã hội tích cực mà ở đó các hành vi tham nhũng bị phát hiện, theo dõi, lên án và phê phán kích liệt vì tham nhũng là ăn cắp, là “tội lỗi đê tiện nhất”. Hồ Chí Minh khẳng định: “...nhân dân lại có nhiệm vụ giúp đỡ Chính phủ, theo đúng kỷ luật của Chính phủ và làm đúng chính sách của Chính phủ, để Chính phủ làm tròn phận sự mà nhân dân đã giao phó cho”(22).
Mặt khác, trong xã hội dân chủ, chuẩn mực đạo đức công dân quan trọng nhất đó là “tuân theo pháp luật nhà nước”, thể hiện ở tinh thần “thượng tôn pháp luật”, không ai được phép đứng trên hoặc đứng ngoài pháp luật. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Pháp luật phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề nghiệp gì”(23). Đây chính là cơ sở pháp lý quan trọng thúc đẩy mọi công dân tham gia đấu tranh phòng chống tham nhũng. Theo đó, kể từ nay, bất cứ ai, dù giữ cương vị gì trong nhà nước, nếu phạm phải tham nhũng thì đều bị nghiêm trị.
Xét ở khía cạnh thứ hai, cán bộ, đảng viên của Đảng là người thực hiện chức năng kép, vừa là người thừa hành quyền lực ủy thác của nhân dân vừa là những “công dân đứng đắn”, “công dân tốt”, “công dân kiểu mẫu”. Theo Hồ Chí Minh: sự tha hóa đạo đức của đối tượng này thể hiện rõ rằng họ “Chẳng những không làm tròn nhiệm vụ của người cán bộ, mà còn không làm tròn bổn phận của người công dân; đã đặt lợi ích riêng của cá nhân lên trên lợi ích chung của Nhà nước”(24). Người luôn căn dặn cán bộ, đảng viên toàn Đảng: “Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”(25). Do đó, việc tu dưỡng đạo đức công dân, biểu hiện cao nhất ở tuân thủ tính nghiêm minh của pháp luật chính là chất đề kháng hữu hiệu giúp cán bộ, đảng viên “không muốn tham nhũng” và “không dám tham nhũng”.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn đề cao trách nhiệm nêu gương của đội ngũ cán bộ, đảng viên, “đảng viên đi trước, làng nước theo sau”. Mọi hành vi bất liêm sẽ dễ dàng bị phát hiện, bị tố giác nếu cán bộ, đảng viên không đề cao nghĩa vụ và trách nhiệm công dân của mình. Trách nhiệm nêu gương của những “công dân kiểu mẫu” không chỉ thể hiện trong công tác mà còn biểu hiện sinh động trong sinh hoạt hàng ngày ở gia đình và nơi cư trú. Dự luận cũng đồng tình theo quan điểm: “Bộ mặt đạo đức thực sự của con người biểu hiện trong cách sống ở gia đình. Người ích kỷ nhỏ nhen và độc đoán trong gia đình không thể là một công dân chân chính”(26). Càng gần dân, cọ sát với dân càng học hỏi được ở nhân dân nhiều điều hay, nhiều kiến thức của cuộc sống bổ ích và chắc chắn sẽ càng vì dân, tránh xa các hành vi tham nhũng.
Sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước đạt được những thành tựu to lớn, “đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế, uy tín quốc tế như ngày nay”(27). Tuy nhiên, sự nghiệp đấu tranh phòng, chống tham nhũng của Đảng đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức không nhỏ. Tình trạng “suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống”, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” từ chỗ chỉ là “một bộ phận” đã lây lan sang “một bộ phận không nhỏ” cán bộ, đảng viên; làm sói mòn niềm tin của nhân dân đối với Đảng….
Thực tế, trong nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng, “đã thi hành kỷ luật 2209 cán bộ, đảng viên có liên quan đến tham nhũng; trong đó có 113 cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý cả đương chức và nghỉ hưu”(28). Quyết tâm của Đảng ta trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng được thể hiện rõ trong lời phát biểu của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Chính phủ với địa phương: “Chúng ta rất nhân văn, nhân đạo, nhân ái, nhân tình; không thích thú gì khi phải kỷ luật đồng chí, đồng đội của mình, trái lại rất khổ tâm, đau xót. Nhưng vì sự tiến bộ chung, vì để mong nhiều người không mắc sai phạm, chúng ta phải kỷ luật; kỷ luật một vài người để cứu muôn người”(29).
Quan điểm “kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng” được thể hiện rõ trong phát biểu của người đứng đầu Đảng: “Tinh thần là phải tiếp tục làm, làm quyết liệt, làm tập trung, dứt điểm những việc đang dở dang, những khâu còn yếu, những địa bàn trọng điểm. Toàn Đảng, toàn Dân quyết tâm. Không có chuyện dừng lại hay ngập ngừng. Mà cũng không thể ngừng lại được. Đây là yêu cầu của cách mạng, yêu cầu, tình cảm của Nhân dân, mong muốn của Đảng ta. Phải khẳng định quyết tâm ấy. Còn trong chúng ta có ai dao động, ngập ngừng thì tự giác báo cáo, xin tự thôi đi!”(30).
Lịch sử nhân loại đã có hàng nghìn năm bàn đến nạn tham nhũng dưới các chế độ nhà nước, với nhiều tên gọi khác nhau. Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, cha ông ta còn lưu truyền một lễ hội quan trọng thường được tổ chức dịp đầu năm - Lễ hội “Thề không tham nhũng”. Điều đó nói lên rằng, cũng giống như phần còn lại của thế giới, nhân dân Việt Nam không bao giờ chấp nhận hành vi tham nhũng trong đời sống xã hội. Đồng thời, cũng cho thấy tính chất khó khăn, phức tạp, lâu dài, gian khổ của cuộc đấu tranh ấy. Bằng những tư tưởng đúng đắn, sáng tạo, độc đáo, tư tưởng Hồ Chí Minh về phòng, chống tham nhũng đã, đang và mãi mãi là kim chỉ nam định hướng cho toàn Đảng và toàn dân tộc trong cuộc “chiến đấu khổng lồ” nhằm ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, để Đảng ta thực sự xứng đáng với sứ mệnh thiêng liêng, cao cả và vĩ đại - là “người lãnh đạo, người đày tớ thật trung thành của nhân dân”./.
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, H, 2011, t.4, tr. 65. (2) (14) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.13, tr. 90, 421. (3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.14, tr. 141. (4) (6) (9) (10) (12) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 368, 358, 221, 80, 82, (5) V. I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1977, t.36, tr. 346. (7) (8) (11) (16) (17) (18 (19) (20) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 302, 633, 279, 637, 327, 637, 637, 316. (13) (23) (25) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr. 459, 127, 16. (21) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr. 293. (22) (24) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 9, tr. 90, 314. (26) V.A.Xukhômlĩnki: Giáo dục con người chân chính như thế nào, Nxb. Giáo dục, H,1984, tr.453. (27) (28) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, H, 2021, t.I. tr.25, 209. (29) https://ubkttw.vn/phat biểu của đồng chí Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị toàn quốc tổng kết công tác kiểm tra, giám sát thi hành kỷ luật đảng năm 2016. (30) https://cand.com.vn/ Tổng bí thư - Chủ tịch nước chủ trì phiên họp về công tác phòng chống tham nhũng. |
THẠC SĨ NGUYỄN TRUNG THÀNH
Trường Đại học Chính trị, Bộ Quốc phòng
tuyengiao.vn
5.