Từ những quyết định 'buộc' Luật sư rời khỏi phòng xử án: Những bất cập và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động nghề Luật sư

06/11/2020 17:25 | 3 năm trước

(LSVN) - Các quyết định của thẩm phán chủ tọa thường dựa vào quyền điều hành phiên tòa với những quy định còn chung chung, có chủ tọa buộc Luật sư rời khỏi phòng xét xử khi phiên tòa đang diễn ra. Quyết định này dưới góc độ nào cũng đều tước bỏ quyền nhờ người khác bào chữa được Hiến định, nguy cơ xâm phạm nghiêm trọng hoạt động nghề nghiệp Luật sư và các nỗ lực cải cách tư pháp.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.

Quan hệ giữa Luật sư với thẩm phán chủ tọa phiên tòa

Ngay từ khi Nhà nước Dân chủ cộng hòa ra đời, ngày 13/9/1945, Chính phủ lâm thời kịp ban hành Sắc lệnh số 33C[1] trao quyền cho tòa án trọng trách phán xét, trừng phạt người phạm tội. Cũng theo Sắc lệnh, sự có mặt của Luật sư trực tiếp tại tòa được ghi nhận như một phần không thể thiếu được của nền tư pháp dân chủ, mọi hoạt động tố tụng tập trung tại phiên tòa công khai, được kế thừa trong các quy định cho đến nay[2]. Diễn biến tại phiên tòa là bức tranh rõ nét nhất thể hiện nền tư pháp đã đạt được đến mức độ nào, tiệm cận với các quan điểm tiến bộ và thực tiễn pháp lý ở các nước trên thế giới hay chưa?

Trong các vụ án hình sự, xét xử, trừng phạt tội phạm, có người buộc tội phải có người gỡ tội, Luật sư chính là người thực hiện thiên chức “gỡ tội” đó. Thực tiễn tố tụng ở các nước còn đề cao mô hình tranh tụng công bằng, vị trí của Luật sư trong mô hình này được đề cao. Đặc trưng của mô hình tranh tụng công bằng là: “nhấn mạnh một quy trình tìm kiếm bằng chứng nặng tính hình thức thông qua tranh tụng”;[3] các chứng cứ được xác nhận trước tòa bởi nhân chứng, Luật sư được đưa ra nhiều câu hỏi, chứng cứ mình tự thu thập được để làm rõ mức độ sự thật...[4].

Các quy định của pháp luật Việt Nam về sau ghi nhận vai trò của viện kiểm sát trong việc tìm kiếm chứng cứ gỡ tội. Song, Luật sư trực tiếp có mặt tại phiên tòa vẫn là yêu cầu bắt buộc để thực thi tốt nhất quyền của người yêu cầu, bị cáo, đương sự. Ngay cả trong các vụ án phi hình sự, những mâu thuẫn về lợi ích giữa các chủ thể tồn tại khá phức tạp, hơn lúc nào hết cũng cần có Luật sư tham gia xuyên suốt các hoạt động tố tụng, bảo vệ công lý, xây dựng xã hội công bằng... (Điều 3 Luật Luật sư năm 2006 sửa đổi năm 2012).

Qua đó cho thấy, quan hệ giữa Luật sư với thẩm phán vừa mang tính ràng buộc được pháp định, vừa mang tính hỗ trợ nhằm giải quyết khách quan, đúng luật, đúng tính chất, tình tiết của vụ án. Cả hai (Luật sư và thẩm phán chủ tọa) khi hoạt động nghề nghiệp, cho dù ở bất kỳ giai đoạn tố tụng nào, đặc biệt là tại phiên tòa, đều phải hướng đến nhiệm vụ cao cả được Hiến định là “Bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa”[5].

Hiện nay, với việc bổ sung quyền tư pháp trong Hiến Pháp năm 2013, quyền con người, quyền tự do dân chủ của công dân tiếp tục khẳng định được trao cho thiết chế độc lập là tòa án, thẩm phán vẫn là trụ cột trong thiết chế này. Thẩm phán không chỉ là người thực thi pháp luật, mà còn phải xử lý tinh tế các tình huống phát sinh tại phiên tòa công khai, dân chủ... Đó chính là kỹ năng chuyên biệt của người thẩm phán, thể hiện khả năng am hiểu pháp luật, tinh thông nghề nghiệp, năng lực tiếp thu tinh thần cải cách tư pháp đã được các nhà hoạch định Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 (Nghị quyết 49)[6] vạch ra, đang được tổng kết đánh giá rút kinh nghiệm.

Thật vậy, các chủ thể tố tụng (Luật sư, Thẩm phán) ở địa vị nào cũng đều mong muốn khẳng định giá trị nghề nghiệp thông qua thái độ, cách ứng phó, kỹ năng xử lý tình huống tại tòa. Thẩm phán điều khiển một phiên tòa diễn ra thông suốt, có chất lượng, đích đến vẫn chính là “sự thật vụ án”[7] được phơi bày. Các quy định này (sự thật vụ án) vốn dĩ trải dài, phức tạp, nhiều chứng cứ đan xen lẫn nhau, quan điểm tiếp cận của các chủ thể luôn có những khác biệt. Song về phương diện nghề nghiệp, Luật sư khó có thể tiếp cận, nêu lên một hoặc một vài chứng cứ nếu đơn thuần chỉ dựa vào hồ sơ vụ án chưa được kiểm chứng công khai trước tòa để thực hiện tốt trọng trách, góp phần làm sáng tỏ sự thật đó.

Những năm trước đây, gần như không có tình trạng Luật sư bị thẩm phán chủ tọa buộc rời khỏi phòng xử. Trường hợp có mâu thuẫn về quan điểm xử lý vụ án, chủ tọa chỉ dừng lại nhắc nhở. Nặng nề hơn, tòa án gửi công văn đến văn phòng đoàn Luật sư hoặc sở tư pháp nơi Luật sư sinh hoạt, yêu cầu xử lý theo quy chế hoạt động nghề Luật sư. Giải quyết vấn đề này, ban chủ nhiệm đoàn thường liên hệ với chánh án tòa án và thẩm phán chủ tọa nắm bắt sự việc, sau đó tổ chức họp đoàn để xử lý. Dù vậy, phần lớn chỉ nhắc nhở các Luật sư nâng cao ý thức trách nhiệm, thận trọng trong các phát ngôn, ứng xử tại tòa có thể gây ảnh hưởng đến hình ảnh cao quý của thẩm phán, hay hoạt động bình thường của tòa án.

Trước những diễn biến của các vụ án nhạy cảm, phức tạp, có đông Luật sư tham gia, việc điều hành phiên tòa trong bối cảnh này có phần cứng rắn hơn. Xung đột giữa thẩm phán chủ tọa với Luật sư tham gia vụ án tiềm tàng, nay càng bộc lộ rõ, phát sinh những xung đột là không thể tránh khỏi.

Tình trạng Luật sư bị buộc rời khỏi phòng xử đặt ra những vấn đề pháp lý, nghiệp vụ cần giải quyết

Thời gian gần đây, Luật sư bị “buộc” rời khỏi phòng xử dưới các hình thức với các lý do khác nhau (LS. Nguyễn Duy B., LS. Vũ Thị Ng., LS. Trần Quốc T.,...) được dư luận phản ánh khá nhiều. Điều này minh chứng cho thấy, quan hệ giữa Luật sư với tòa án vốn dĩ tương tác, hỗ trợ nhau, được ghi nhận trong các tài liệu về đạo đức nghề nghiệp[8] đã không còn tốt đẹp như trước. Quan điểm tiếp cận vấn đề này, ngay chính trong giới Luật sư cũng có những trái chiều (cho dù cá biệt),[9] thiết nghĩ cần được nghiên cứu, đánh giá nghiêm túc.

Theo tôi được biết, các trường hợp trên đều có sự phản ứng kịp thời của lãnh đạo các đoàn Luật sư và Liên đoàn Luật sư Việt Nam. Tuy chưa có kết quả rõ ràng, qua đó cũng cho thấy rằng, một cơ chế phối kết hợp, xử lý mâu thuẫn trên tinh thần xây dựng, hợp tác và tôn trọng giữa Luật sư và tòa án nói chung và với thẩm phán phụ trách vụ án nói riêng đã không còn tốt đẹp như trước. Trong mỗi vụ việc đều có những nguyên nhân, cũng như căn cứ pháp lý được áp dụng khác nhau:

(i) Đối với trường hợp của LS. Trần Hồng Ph trong phiên tòa giám đốc thẩm được dư luận đặc biệt quan tâm - xem xét lại thân phận tử từ Hồ Duy H. LS. Trần Hồng Ph. rời tòa không theo nghĩa bị tước bỏ quyền bào chữa, theo quy định của luật. Song, quyền tham gia các hoạt động tố tụng xuyên suốt, nắm bắt toàn diện vụ án, bảo vệ tối ưu quyền lợi của thân chủ (Hồ Duy H.) tại phiên giám đốc thẩm lịch sử không được trọn vẹn.

Cần phân tích thêm rằng, tính chất của phiên tòa giám đốc thẩm với những đặc thù về tố tụng, có thể không có bị cáo trực tiếp tham gia. Chỉ có Luật sư là người duy nhất gần gũi, gióng lên tiếng nói, bảo vệ tối ưu quyền lợi của thân chủ trong bối cảnh vụ án còn khá phức tạp về chứng cứ, có nhiều quan điểm pháp lý trái chiều.

(ii) Đối với các vụ án còn lại, dường như một số tòa án ví Luật sư với tư cách “người tham gia tố tụng” thuần túy, không phải là hình tượng phản ánh nét đẹp, tiến bộ của nền tư pháp dân chủ - công bằng mà Nghị quyết số 49-NQ/TW hướng đến. Trong đó, quyền lợi người yếu thế (bị cáo, người không am hiểu pháp luật, hạn chế năng lực hành vi,...) phải được can thiệp, bảo vệ kịp thời. Không vì bất cứ lý do gì, cũng như không ai tự ý nhân danh quyền lực nhà nước tước bỏ quyền cơ bản của con người - nhờ Luật sư bào chữa.

Xung đột tiềm tàng giữa Luật sư và Thẩm phán chủ tọa phiên tòa

Về phương diện nghề nghiệp, các Luật sư thường dựa vào lời khai thực tế tại tòa hoặc chứng cứ tự thu thập được (có ngoài hồ sơ vụ án) làm “chất liệu” bào chữa tạo bất ngờ, chuyển biến trong quan điểm xét xử. Bằng kinh nghiệm được đúc kết qua thực tiễn, Luật sư khai thác những chứng cứ có lợi, thực thi sáng tạo quyền năng này được các nhà làm luật tin tưởng trao cho. Điều đó không cản trở quyền điều hành của thẩm phán chủ tọa, như chính kiến của Liên đoàn Luật sư Việt Nam có nêu rõ khi can thiệp bảo vệ các Luật sư đồng nghiệp, theo đó, “Việc Luật sư tham gia xét hỏi đối với bị cáo liên quan tới bị cáo mà Luật sư bào chữa không thể bị coi là hành vi vi phạm nội quy phiên tòa, hoàn toàn không phải là biểu hiện không tôn trọng hội đồng xét xử hay làm mất trật tự trong phiên tòa”[10].

Quan điểm này có những khác biệt với một số thẩm phán, tiềm ẩn những xung đột giữa quyền điều khiển phiên tòa diễn ra đúng trình tự thủ tục, bảo đảm tiến độ, kế hoạch đề ra (đặc biệt trong các vụ án điểm, phức tạp) trước những ứng xử linh hoạt của Luật sư luôn có phần khó đoán định.

Do đó, theo tôi, cần có một quy chế pháp lý điều chỉnh, giải quyết những xung đột, không chỉ ở khía cạnh pháp lý, mà cả về đạo đức nghề nghiệp. Thay vì tư duy theo nghĩa, quyền điều hành phiên tòa của thẩm phán chủ tọa là “tối thượng”, dựa theo các quy định về trật tự theo nội quy phiên tòa được trao cho thẩm phán[11]? Luật sư cũng như những người tham gia tố tụng khác phải tuân thủ tuyệt đối quyết định của thẩm phán chủ tọa (cho dù dưới mệnh lệnh miệng, hay bằng văn bản) là chưa có cơ sở thuyết phục.

Ở chiều ngược lại, quy định về trình tự thủ tục phiên tòa được các Luật sư nắm khá rõ. Vì vậy, những ứng xử không đúng trình tự quy định phải được sự chấp thuận bằng các quyết định kịp thời của chủ tọa phiên tòa. Chẳng hạn, Luật sư phải giơ tay xin phép khi chưa đến phần trình bày, phát biểu của mình, chỉ khi được chủ tọa cho phép mới thực hiện; nội dung bài bào chữa đi vào trọng tâm, mang đến những luận cứ có chất lượng, giúp hội đồng xét xử đánh giá đúng bản chất, tình tiết vụ án. Đó chính là thái độ tôn trọng hội đồng xét xử, cũng như tôn trọng quyền lợi của các chủ thể khác tham gia tố tụng. Đồng nghĩa rằng, những sai phạm của Luật sư (nếu có) cũng phải được nhắc nhở, xử lý kịp thời từ tòa án và cả Liên đoàn.

Giá trị tích cực từ hoạt động tranh tụng tại các phiên tòa xét xử công khai

Không thể phủ nhận những thành quả của hoạt động cải cách tư pháp từ mệnh lệnh của Bộ Chính trị, có tính bước ngoặc lịch sử. Từ Nghị quyết 08-NQ/TW ban hành năm 2002 đến Nghị quyết 49-NQ/TW ban hành năm 2005 đều xuất phát từ các hoạt động tố tụng tại phiên tòa công khai. Các Nghị quyết đã tạo ra những giá trị mới trong hoạt động lập pháp, chuyển biến tích cực trong hoạt động tư pháp, cũng như hoạt động nghề Luật sư nói riêng, cả về nhận thức, định hướng chỉ đạo lẫn thực tiễn pháp lý.

Những thành quả đáng kể từ hoạt động nghề của Luật sư tại tòa được ghi nhận như sau:

i) Luật sư được tham gia các hoạt động tố tụng hình sự từ giai đoạn điều tra, tiếp xúc bị can, bị cáo trao đổi việc gia đình mời bào chữa;

ii) Luật sư được sao chụp toàn bộ hồ sơ vụ án, thay vì phải xin phép, ghi chép như trước; iii) Luật sư được ngồi “ngang hàng” với đại diện viện kiểm sát tạo ra hình ảnh tương phản rõ nét giữa vai trò công tố và bào chữa;

iv) Luật sư được phát biểu quan điểm pháp lý bào chữa, bảo vệ quyền lợi cho thân chủ không bị giới hạn thời gian;...

Đó là kết quả đáng kể từ quá trình đấu tranh không mệt mỏi, tâm huyết của những người hành nghề Luật sư, trong đó có lãnh đạo Liên đoàn Luật sư Việt Nam, các Luật sư “gạo cội” ở các đoàn Luật sư.

Như vậy, trên bước đường cải cách tư pháp, trọng tâm vẫn là hoạt động xét xử tại tòa án, Luật sư chính là tiếng nói, quyền lợi của những con người yếu thế. Vai trò của Luật sư cho dù đã có nhiều tiến bộ, nhưng vẫn còn bộc lộ những bất cập, đáng lo ngại.

Thật vậy, trong vụ việc của LS. Nguyễn Duy B. (Tòa án thành phố Nh.T), Liên đoàn Luật sư Việt Nam đã chỉ rõ các quy định của luật về việc áp dụng biện pháp “dùng vũ lực” cưỡng chế Luật sư rời khỏi phòng xử đưa áp giải về công an địa phương khi không có quyết định tạm giữ hành chính công bố tại phiên tòa[12]. Trong vụ việc của LS. Ng. (Tòa án tỉnh Đ.B), Tòa tự ý cắt ngang, không cho Luật sư tiếp tục xét hỏi, buộc rời khỏi tòa (trường hợp của LS. Trần Quốc T. cũng tương tự[13]). Lý do được các tòa đưa ra rằng Luật sư không theo sự điều khiển của thẩm phán chủ tọa để buộc rời khỏi phòng xử rõ là khiên cưỡng, chưa thuyết phục.

Đáng chú ý cả 3 vụ án trên đây đều là những án hình sự, việc đánh giá chứng cứ thường có phần quyết liệt, tính đấu tranh tại phiên tòa rất cao. Vấn đề khẩn thiết được đặt ra là, pháp luật Việt Nam hiện nay đã điều chỉnh quan hệ này thế nào? Điều quan trọng hơn là, khi buộc Luật sư rời khỏi phòng xử, tòa đang nhân danh ai? Nếu quyết định sai, cơ chế nào để xác định trách nhiệm và thực thi các chế tài vi phạm trách nhiệm đó?

Trả lời những câu hỏi này không đơn thuần chỉ dừng lại ở các quy định về nội quy phiên tòa mà còn ở nhận thức, thái độ ứng xử, năng lực của thẩm phán chủ tọa khi điều khiển một phiên tòa nhằm đạt được mục tiêu sự thật của vụ án đó. Đặc biệt, trong bối cảnh hiện nay, tình trạng oan, sai trong hoạt động xét xử vẫn còn xảy ra thì các yêu cầu này trở nên hết sức cần thiết đối với thẩm phán - những người chịu trách nhiệm chính cho các phán quyết của mình, vừa bảo đảm chính xác, khách quan, kể cả lời bào chữa, bảo vệ của Luật sư, theo luật cũng phải được minh thị đầy đủ. Cho dù, các quyết định không chấp nhận cũng phải được ghi nhận cụ thể vào bản án, quyết định.

Những bất cập qua các quy định

Quy định về sự có mặt của Luật sư tại phiên tòa để thực thi quyền bào chữa được Hiến định

Sự có mặt của Luật sư tại tòa là bắt buộc để thực hiện đầy đủ quyền bào chữa, bảo vệ được luật tố tụng quy định[14]. Chúng tôi không đồng tình việc có những Luật sư đồng nghiệp gửi bài bào chữa bằng văn bản như một giải pháp thay thế có mặt trực tiếp tại phiên tòa nếu không có lý do thật sự chính đáng. Quy định của luật cho phép gửi bài bào chữa không đồng nghĩa Luật sư được phép vắng mặt, vì các yêu cầu nghề nghiệp vẫn đòi hỏi Luật sư phải tận tâm với khách hàng[15]. Đặc biệt, trong việc khai thác, cung cấp kịp thời các tình tiết, chứng cứ có lợi cho bị cáo, đương sự tại tòa được trao cho Luật sư. Chỉ khi Luật sư có mặt trực tiếp tại phiên tòa, theo dõi nắm bắt xuyên suốt vụ án, khi đó mới đạt được tốt nhất các yêu cầu này.

Tòa án không được phép tự ý tước bỏ quyền bào chữa của Luật sư hoặc quyền nhờ người khác bào chữa của bị cáo, đương sự. Càng không được suy diễn, bị cáo có nhiều Luật sư, việc “loại bỏ” một Luật sư nào đó không ảnh hưởng đến quyền bào chữa. Quyết định nhờ nhiều Luật sư bào chữa (pháp luật không hạn chế các quyền này) là để tối ưu hóa các lợi ích của chính bị cáo, đương sự. Chính họ là người hiểu rõ nhất mức độ phức tạp của vụ án, vụ việc đó đến đâu để cần Luật sư tham gia hỗ trợ pháp lý. Vì vậy, tòa án có trách nhiệm xem xét khi quyết định buộc Luật sư rời khỏi tòa có ảnh hưởng đến quyền bào chữa của bị cáo, đương sự hay không.

Tóm lại, việc thiếu hụt Luật sư hoặc Luật sư không có mặt trực tiếp tại phiên tòa cho dù ở khía cạnh nào, theo luật đều dẫn đến quyền nhờ người khác bào chữa bị xâm hại nghiêm trọng. Ngay cả khi vụ án đó không phải án “chỉ định”. Do đó, cần có những quy định cụ thể để quyền nhờ người khác bào chữa như Hiến định được bảo đảm thực thi nghiêm túc, không ai được phép lạm dụng.

Quy định thẩm phán chủ tọa điều hành phiên tòa tuân thủ nguyên tắc tranh tụng bình đẳng, hướng đến sự thật khách quan của vụ án

Cần phân định rõ quyền quyết định điều hành phiên tòa theo ý chí chủ quan của chủ tọa phiên tòa với trách nhiệm điều hành phiên tòa diễn ra bình thường, khách quan, thể hiện rõ nét những tiến bộ của hoạt động cải cách tư pháp, các chủ thể tham gia tố tụng không bị cản trở dưới bất kỳ hình thức nào. Ở đó, mọi người tham gia phiên tòa phải tôn trọng lẫn nhau, quyền lợi của các bên được bày tỏ đúng mực.

Quá trình giải quyết vụ án kéo dài, tính chất mức độ phức tạp khác nhau, mỗi Luật sư bằng năng lực riêng, đều có thái độ ứng phó chuyên biệt. Giải quyết vấn đề này đòi hỏi sự điều khiển của chủ tọa còn mang tính sáng tạo hướng đến gợi mở những vấn đề cần tranh luận nhằm tìm kiếm “sự thật vụ án”, tạo điều kiện cho các bên thực hiện tối ưu các quyền năng của mình tại tòa - nơi mà mọi chứng cứ, theo nghĩa phải phù hợp với tình tiết chứng cứ khác, được kiểm tra, xem xét kỹ lưỡng, bao hàm cả tiếp nhận các chứng cứ mới phát sinh do các bên chủ động cung cấp tại tòa án.

Quyền điều khiển phiên tòa diễn ra bình thường, đúng kế hoạch, không được phép áp đặt, cố ý lược bỏ các tiến bộ của hoạt động cải cách tư pháp, các quyền cơ bản của con người được pháp luật ghi nhận, từ đó tạo tâm lý phản kháng của các Luật sư. Trong đó có các nguyên tắc chung về quan hệ phối kết hợp giữa Luật sư với các cơ quan tố tụng, cũng như quy tắc đạo đức ứng xử nghề nghiệp của các chủ thể (Luật sư, thẩm phán) đã được các nghiên cứu đề cập rõ nét.

Như vậy, quyền điều khiển của chủ tọa không phải là “tối tượng”. Trong đó, các kiến nghị có cơ sở của Luật sư cho dù ở bất kỳ giai đoạn tố tụng nào phải được chấp nhận, được giám sát thông qua hoạt động kiểm sát, hoặc qua các chứng cứ được ghi trong bút ký phiên tòa. Không vì quan điểm trái chiều, chủ tọa phiên tòa tự ý tước bỏ quyền bào chữa, quyền có mặt của Luật sư khi phiên tòa đang diễn ra công khai.

Quy định của luật tố tụng điều chỉnh quan hệ giữa thẩm phán chủ tọa với Luật sư tham vụ án

Điều hành phiên tòa đáp ứng yêu cầu như đúng nghĩa, thẩm phán chủ tọa không chỉ đơn thuần vận dụng những quy định cứng nhắc, mà phải có kỹ năng, sự nhạy bén, kinh nghiệm nhất định. Bằng năng lực của mình, thẩm phán dễ dàng nhận diện những hành vi nào gây cản trở hoạt động tố tụng, hành vi nào thể hiện năng lực, mục tiêu làm sáng tỏ sự thật vụ án theo tinh thần tiến bộ của hoạt động cải cách tư pháp.

Thông tư số 02/2017/TT-TANDTC ban hành ngày 28/7/2017 về quy chế tổ chức phiên tòa, tại Điều 3 có quy định: “1. Nội quy phòng xử án bao gồm nội quy phiên tòa theo quy định tại Điều 256 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 234 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Điều 153 của Luật Tố tụng hành chính”, suy cho cùng cũng chỉ lược lại các quy định của luật mang tính thủ tục. Tại các điều luật được viện dẫn, các quy định vẫn còn chung chung theo nghĩa, mọi người trong phòng xử án phải tôn trọng hội đồng xét xử, giữ gìn trật tự và tuân theo sự điều hành của chủ tọa phiên tòa. Vô hình trung, các nhà làm luật trao cho thẩm phán chủ tọa quá nhiều quyền nếu họ cố ý lược bỏ yêu cầu xác định sự thật vụ án, thực thi nguyên tắc tranh tụng công bằng.

Mặt khác, quyết định buộc Luật sư rời khỏi phòng xử được thực hiện theo trình tự, thủ tục được pháp luật tố tụng quy định chứ không phải mệnh lệnh miệng, mang tính ngẫu hứng, chủ quan từ phía thẩm phán chủ tọa, vì dễ tạo sự tùy tiện, lạm dụng nếu các kế hoạch xét xử của tòa đúng không như dự định, hoặc khi có những mâu thuẫn, hiềm khích cá nhân với Luật sư.

Quy định về cơ chế xử lý trách nhiệm trong trường hợp thẩm phán chủ tọa buộc Luật sư rời khỏi phòng xét xử trái pháp luật

Cơ chế giải quyết khiếu nại, bồi thường thiệt hại của Luật sư trong trường hợp bị thẩm phán chủ tọa buộc rời khỏi phiên tòa trái pháp luật chưa được pháp luật Việt Nam ghi nhận. Nếu dựa vào các quy định của pháp luật dân sự về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng sẽ không phù hợp với những đặc thù của quan hệ này.

Cần thẳng thắn nhìn nhận rằng, quyết định nếu có sai phạm, sẽ để lại những hậu quả pháp lý (khách thể bị xâm hại) như sau: tước mất quyền nhờ người khác bào chữa, bảo vệ quyền lợi của bị cáo, đương sự tại tòa, đồng nghĩa quyền con người bị xâm hại nghiêm trọng; xâm phạm đến uy tín, danh dự của Luật sư, hình ảnh tốt đẹp được Luật sư gây dựng với đồng nghiệp, với xã hội; phá vỡ các cam kết ghi trong hợp đồng dịch vụ pháp lý giữa Luật sư với khách hàng về hoạt động tranh tụng, tư vấn pháp luật, bao gồm cả các trách nhiệm vắng mặt tại phiên tòa; hình ảnh Luật sư bị cưỡng chế rời khỏi tòa theo như lan truyền khá phản cảm, xâm phạm đến mục tiêu tư pháp dân chủ.

Do đó, giải quyết các vấn đề này, phải được thực hiện trong một tổng thể, không đơn thuần chỉ dừng lại ở các kiến nghị, vì pháp luật Việt Nam trong vấn đề này vẫn còn thiếu cơ chế pháp lý đầy đủ và có hiệu quả.

Những giải pháp pháp lý khắc phục tình trạng Luật sư bị “buộc” rời khỏi phòng xử án, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động nghề Luật sư tại Việt Nam

Các kiến nghị của Liên đoàn Luật sư Việt Nam trong các vụ việc vừa qua là kịp thời. Việc giải quyết vấn đề này không chỉ tháo gỡ những vướng mắc của luật, đó còn là bài học, kinh nghiệm sâu sắc cho các Luật sư trẻ mới bước chân vào nghề cần có những giải pháp khả thi, tự bảo vệ mình khi gặp phải tình huống tương tự. Từ những quan ngại, cũng như qua phân tích, đánh giá cho thấy những bất cập nêu trên cần được kịp thời sửa đổi, bổ sung như sau:

Một là, các quy định hiện hành theo luật Việt Nam không minh định rõ các trường hợp được trao quyền cho thẩm phán chủ tọa phiên tòa quyết định buộc Luật sư rời khỏi phòng xử. Điều này dễ dẫn đến tình trạng lạm dụng quyền khi điều khiển phiên tòa, tước quyền bào chữa, xâm phạm nghiêm trọng đến các hoạt động nghề Luật sư như đã xảy ra.

Hai là, Liên đoàn Luật sư Việt Nam cần tiếp tục xác minh, làm rõ tình tiết sự thật trong các vụ việc vừa qua; kiến nghị Tòa án nhân dân tối cao vào cuộc xử lý sai phạm đối với thẩm phán chủ tọa, kiên định bảo vệ quyền lợi chính đáng, giúp các Luật sư an tâm khi tham gia các hoạt động tố tụng, cung ứng tốt nhất dịch vụ pháp lý cho khách hàng, nâng cao vị thế uy tín hoạt động nghề; tổ chức lấy ý kiến các nhà khoa học, Luật sư, tiếp tục đấu tranh, kiến nghị sửa đổi các quy định chưa phù hợp trong thời gian tới.

Ba là, tiếp tục hoàn thiện bộ tiêu chí ứng xử Luật sư trong quan hệ với các cơ quan tư pháp nói chung và khi tham gia phiên tòa nói riêng; cụ thể hóa các quy định của luật bảo đảm thực thi quyền bào chữa, bảo vệ quyền lợi cho thân chủ, xác lập quyền yêu cầu các chế tài thẩm phán chủ tọa vi phạm (nếu có).

Bốn là, thiết lập cơ chế pháp lý giải quyết khiếu nại, khắc phục các quy định còn bỏ ngỏ, kể cả trao quyền khiếu kiện các quyết định trái pháp luật, gây thiệt hại đến uy tín, vật chất của Luật sư trong trường hợp thẩm phán chủ tọa ban hành các quyết định trái pháp luật xâm phạm đến các quyền lợi.

_______________________________
[1] Điều V của Sắc lệnh số 33C về thiết lập các tòa án quân sự ban hành ngày 13/9/1945 của Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hòa quy định: “…Bị cáo có thể tự bào chữa hay nhờ một người khác bênh vực cho”.
[2] Khoản 4 Điều 31 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ Luật sư hoặc người khác bào chữa”; Điều 16 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định: “Người bị buộc tội có quyền tự bào chữa, nhờ Luật sư hoặc người khác bào chữa”.
[3] Xem: Viện nghiên cứu khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp, Chuyên đề: Tư pháp hình sự so sánh, 1999, tr 83.
Mô hình này được áp dụng tại các quốc gia theo hệ thống thông luật Anh, theo thủ tục đối tụng. Phạm Minh, Những điều cần biết về luật pháp Hoa Kỳ, Nxb Lao động, 2003, tr 154, tr 207.
[4] Xem thêm: Luật bằng chứng (Law of evidence) của Hoa Kỳ, Phạm Minh, sđd (3), Nxb Lao động 2003, tr 207.
[5] Xem Điều 8 Hiến pháp năm 2013.
[6] Nghị quyết số 49 -NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, mục 2, điểm 2.3 quy định: “Hoàn thiện cơ chế bảo đảm để Luật sư thực hiện tốt việc tranh tụng tại phiên tòa, đồng thời xác định rõ chế độ trách nhiệm đối với Luật sư”.
[7] Nguyên tắc “sự thật vụ án” là kim chỉ Nam trong các hoạt động tố tụng tại tòa án. Nguyên tắc này được ghi nhận trong luật Việt Nam và các nước. Điều 15 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định:‘‘Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Người bị buộc tội có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội. Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải áp dụng các biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người bị buộc tội”.
[8] Khoản 1 Điều 10 Quyết định số 87/QĐ-HĐTC của Hội đồng tuyển chọn giám sát thẩm phán quốc gia ngày 04/7/2018 ban hành Bộ quy tắc đạo đức và ứng xử của thẩm phánquy định “b) Bảo đảm dân chủ, nghiêm minh, khách quan trong giải quyết các vụ việc; lắng nghe, tôn trọng ý kiến của những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng; c) Giải thích, hướng dẫn và tạo điều kiện thuận lợi cho người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của họ theo quy định của pháp luật;”
[9] Mai Thoa, Luật sư Phạm Công Hùng, nguyên Thẩm phán TANDTC: Luật sư bắt buộc phải tuân theo sự điều hành của chủ tọa phiên tòa, 2020, Công Lý online, https://congly.vn/hoat-dong-toa-an/tieu-diem/luat-su-pham-cong-hung-nguyen-tham-phan-tandtc-luat-su-bat-buoc-phai-tuan-theo-su-dieu-hanh-cua-chu-toa-phien-toa-334500.html, truy cập ngày 11/6/2020.
[10] Bảo Hưng, LĐLSVN kiến nghị giải quyết vụ Luật sư bị đưa ra khỏi tòa án áp giải về trụ sở công an phường, 2020,/lien-doan-luat-su-viet-nam-kien-nghi-vu-luat-su-bi-chu-toa-buoc-roi-khoi-phong-xu-an.html, truy cập ngày 18/8/2020.
[11] Theo các quy định tại Điều 234 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Điều 153 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 và Điều 256 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, nhìn chung quy định mọi người trong phòng xử án phải có thái độ tôn trọng hội đồng xét xử, giữ gìn trật tự và tuân theo sự điều hành của chủ tọa phiên tòa.
[12] Công văn số 49/LĐLSVN-BBVQLLS ngày 23/12/2019 của Liên đoàn Luật sư Việt Nam.
[13] Công văn số 297/CV-BCNĐLS ngày 31/7/2020 của Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội.
[14] Điều 291 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định: “Người bào chữa phải có mặt tại phiên tòa để bào chữa cho người mà mình đã nhận bào chữa…”.
[15]Tại Quy tắc 5, Bộ quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp Luật sư Việt Nam quy định: “Luật sư có nghĩa vụ tận tâm với công việc, phát huy năng lực, sử dụng kiến thức chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp và các biện pháp hợp pháp để bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng…”.
Tiến sĩ, Luật sư LƯƠNG KHẢI ÂN
Đoàn Luật sư thành phố Hồ Chí Minh
/nguyen-don-rut-don-khoi-kien-va-vuong-mac-ve-cach-ghi-hau-qua-phap-ly-cua-viec-dinh-chi-giai-quyet-vu-an.html