/ Chưa được phân loại
/ Về hợp đồng chuyển nhượng đất có diện tích dưới mức quy định tách thửa

Về hợp đồng chuyển nhượng đất có diện tích dưới mức quy định tách thửa

23/12/2021 04:04 |

(LSVN) - Chuyển nhượng quyền sử dụng đất bằng “giấy tay” mà diện tích đất chuyển nhượng dưới hạn mức tách thửa có được công nhận hay không? Tranh chấp này cần được giải quyết như thế nào? Bài viết sau đây phân tích các quy định pháp luật có liên quan, các quan điểm giải quyết vụ việc, kiến nghị hướng giải quyết [1].

Ảnh minh họa.

Quy định pháp luật liên quan

Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất bằng “giấy tay” được xem là hợp đồng vi phạm về mặt hình thức hợp đồng. Bỡi lẽ, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải được công chứng, chứng thực (điểm a khoản 3 Điều 167 Luật Đất đai năm 2013).

Tuy nhiên, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất không tuân thủ về hình thức hợp đồng nhưng một trong các bên đã thực hiện ít nhất 2/3 nghĩa vụ trong giao dịch thì hợp đồng có thể được công nhận có hiệu lực theo Điều 129 Bộ luật Dân sự 2015. Trước đó, Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình cũng có quy định trong nhiều trường hợp, hợp đồng chuyển nhượng vi phạm hình thức hợp đồng nhưng các bên đã thực hiện xong về nội dung hợp đồng thì tòa án công nhận hợp đồng [2].

Liên quan đến nội dung hợp đồng, liệu việc chuyển nhượng đất có diện tích dưới mức quy định tách thửa có hiệu lực không?

Như vậy, vấn đề đặt ra là hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nhưng diện tích chuyển nhượng dưới mức quy định để tách thửa thì có bị xem là vi phạm điều cấm của luật hay không?

Điều 29 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 (Nghị định 43/2014) của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai 2013 quy định: “Không được công chứng, chứng thực, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất và không được làm thủ tục thực hiện các quyền của người sử dụng đất đối với trường hợp tự chia tách thửa đất đã đăng ký, đã được cấp giấy chứng nhận thành hai hoặc nhiều thửa đất mà trong đó có ít nhất một thửa đất có diện tích nhỏ hơn diện tích tối thiểu theo quy định của ủy ban nhân dân cấp tỉnh”.

Quy định này cho thấy, tuy Luật Đất đai không trực tiếp quy định cấm việc chuyển nhượng diện tích đất dưới mức tách thửa nhưng việc Nghị định 43/2014 không cho phép công chứng, chứng thực hợp đồng cũng là gián tiếp cấm chuyển nhượng.

Cũng cần lưu ý rằng, Điều 29 Nghị định 43/2014 còn quy định thửa đất đang sử dụng được hình thành từ trước ngày văn bản quy định của ủy ban nhân dân cấp tỉnh về diện tích tối thiểu được tách thửa có hiệu lực thi hành mà diện tích thửa đất nhỏ hơn diện tích tối thiểu theo quy định của ủy ban nhân dân cấp tỉnh nhưng có đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất thì người đang sử dụng đất được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.

Một số quan điểm giải quyết

Có quan điểm cho rằng, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất mà diện tích chuyển nhượng dưới mức tối thiểu diện tích tách thửa là vô hiệu. Nếu tòa án công nhận giá trị thì coi như tòa án có quyền công nhận quyền sử dụng đất và quyết định của ủy ban nhân dân quy định về diện tích tối thiểu không còn giá trị [3]. Quan điểm này cho rằng, việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất có diện tích dưới mức tối thiểu để tách thửa là vi phạm điều cấm của pháp luật.

Bên cạnh đó cũng có quan điểm theo hướng công nhận hợp đồng và cho rằng quyết định của ủy ban nhân dân cấp tỉnh về diện tích tối thiểu cần quy định hài hòa giữa thẩm quyền của tòa án và cơ quan quản lý đất đai[4]. Quan điểm này kiến nghị bổ sung vào Điều 29 Nghị định số 43/2014 rằng: “Trong trường hợp tách thửa, cấp giấy chứng nhận theo quyết định của tòa án nếu thửa đất không đủ điều kiện để tách thửa theo quy định thì người sử dụng đất thực hiện việc phân chia quyền sử dụng đất theo giá trị quyền sử dụng đất hoặc sử dụng chung thửa đất theo quy định”. Kiến nghị này tương tự như quy định về diện tích tối thiểu để tách thửa của ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh hiện hành.

Thực tế, tranh chấp về dạng này cũng đã được tòa án công nhận. Trên cơ sở hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất bằng “giấy tay”, diện tích chuyển nhượng là 81,4m2 (loại đất trồng cây lâu năm), bên nhận chuyển nhượng là ông Nguyễn Văn L và bà Hoàng Thị H đã được công nhận quyền sử dụng đất trên cơ sở hợp đồng chuyển nhượng [5]. Trong khi diện tích đất trồng cây lâu năm tối thiểu để tách thửa tại quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ là 150m2 theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 4 Quyết định số 05/2017/QĐ-UBND ngày 02/10/2017 của Ủy ban nhân dân thành phố Cần Thơ.

Theo chúng tôi, Tòa án công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất khi hợp đồng chuyển nhượng thỏa mãn các điều kiện có hiệu lực khác là đúng pháp luật. Bỡi lẽ, việc chuyển nhượng diện tích dưới mức tách thửa không bị xem là vi phạm điều cấm của luật. Mặc dù, Điều 29 Nghị định 43/2014 cấm việc công chứng, chứng thực hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Tuy nhiên, quy định cấm này chỉ được quy định ở cấp độ văn bản là nghị định mà không phải là cấp độ luật. Do đó, theo chúng tôi, việc chuyển nhượng diện tích đất dưới diện tích tách thửa không bị xem là vi phạm điều cấm của luật.

Quan điểm này còn thuyết phục bởi các lập luận và quy định liên quan. Quyền sử dụng đất là quyền về tài sản. Người sử dụng đất có quyền đứng tên chung giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (khoản 2 Điều 98 Luật Đất đai năm 2013). Mặc dù diện tích chuyển nhượng dưới hạn mức tách thửa nhưng khi hợp đồng có hiệu lực pháp luật thì người sử dụng đất được công nhận quyền sử dụng chung. Hơn nữa, quyền sử dụng đất trong trường hợp này được ghi nhận để bảo đảm quyền lợi hợp pháp khác của người sử dụng đất như thừa kế, tặng cho, chuyển nhượng, thế chấp quyền sử dụng đất,….

Việc tách thửa là thủ tục quản lý hành chính về đất đai của từng địa phương. Tùy vào thời điểm cụ thể và tùy vào quy định về hạn mức thay đổi thì người được quyền sử dụng đất trong trường hợp này có thể tách thửa để đứng tên độc lập, nếu không họ vẫn được công nhận với tư cách là đồng sử dụng.

Kết luận

Trên cơ sở các phân tích, lập luận nêu trên và căn cứ vào quy định tại Điều 29 Nghị định 43/2014, có thể rút ra một số vấn đề sau:

Thứ nhất, đối với hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã được công chứng, chứng thực trước ngày có hiệu lực của ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định tối thiểu về tách thửa và đáp ứng các điều kiện được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì các bên có quyền đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Trong trường hợp có tranh chấp thì các bên có quyền khởi kiện. Khi đó, tòa án công nhận hợp đồng và cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo bản án, quyết định có hiệu lực của tòa án.

Thứ hai, đối với các hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất không tuân thủ về hình thức (giấy tay), xác lập trước ngày quyết định của ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định diện tích tối thiểu về tách thửa có hiệu lực, nhưng các bên đã thực hiện 2/3 hợp đồng theo quy định tại Điều 129 Bộ luật Dân sự 2015 hoặc đã thực hiện xong nội dung hợp đồng theo quy định tại mục 2 Phần II Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao và đáp ứng đủ điều kiện khác về chuyển nhượng quyền sử dụng đất thì tòa án công nhận hợp đồng và cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quyết định, bản án của tòa án.

Thứ ba, đối với các hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất xác lập sau ngày quyết định của ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định diện tích tối thiểu về tách thửa thì các bên không có quyền tách thửa (không được xem xét cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất riêng đối với thửa đất có diện tích dưới mức tối thiểu được tách thửa). Khi tranh chấp, nếu hợp đồng đủ điều kiện công nhận như đã thực hiện 2/3 hợp đồng và tuân thủ các điều kiện khác của pháp luật đất đai thì tòa án công nhận hợp đồng. Trong trường hợp này, bên nhận chuyển nhượng được quyền yêu cầu cơ quan quản lý đất đai chỉnh lý về đồng sử dụng quyền sử dụng đất trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã được cấp cho bên chuyển nhượng (cùng đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và được ghi rõ về diện tích được quyền sử dụng tương ứng).

Thấy rằng, để giảm thiểu các thủ tục hành chính và bảo đảm các quyền của người sử dụng đất trong trường hợp các bên đã thực hiện việc chuyển nhượng không tuân thủ về hình thức hợp đồng và diện tích chuyển nhượng dưới mức tách thửa theo quy định của ủy ban nhân dân cấp tỉnh, thiết nghĩ cần kiến nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn để thống nhất việc giải quyết một cách đúng pháp luật.

[1] Trong phạm vi bài viết, thuật ngữ “hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” được hiểu là hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất có diện tích đất chuyển nhượng dưới mức tối thiểu để tách thửa.

[2] Mục 2 Phần II Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình.

[3] Võ Thái Sơn, Thạc sĩ Huỳnh Xuân Tình, Vướng mắc trong quá trình giải quyết tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, https://www.tapchitoaan.vn/bai-viet/xet-xu/vuong-mac-trong-qua-trinh-giai-quyet-tranh-chap-hop-dong-chuyen-nhuong-quyen-su-dung-dat; truy cập ngày 14/9/2021.

[4] Thạc sĩ Trương Thanh Hòa, Quy định diện tích tối thiếu để tách thửa của ủy ban nhân dân cấp tỉnh đối với quyết định của tòa án, https://www.tapchitoaan.vn/bai-viet/phap-luat/quy-dinh-dien-tich-toi-thieu-de-tach-thua-cua-ubnd-cap-tinh-doi-voi-quyet-dinh-cua-toa-an, truy cập ngày 14/9/2021.

[5] Quyết định số 36/2020/QĐST-DS ngày 17/9/2020 của Tòa án nhân dân quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ, http://congbobanan.toaan.gov.vn/2ta607216t1cvn/chi-tiet-ban-an, truy cập ngày 15/9/2021.

THẠC SĨ NGUYỄN THỊ VÂN ANH

Trường Đại học Luật Huế

2. Luật sư với công tác xã hội: Nâng cao hình ảnh, uy tín của nghề Luật sư

(LSVN) - Công tác xã hội là những hoạt động với sứ mệnh giúp đỡ, hỗ trợ, chăm sóc những người kém may mắn, có hoàn cảnh đặc biệt, khó khăn trong cộng đồng, nhằm giúp họ hòa nhập và có cuộc sống tốt đẹp hơn. Những người này có thể là người khuyết tật, người nghèo, những người không có khả năng tự chăm sóc, tự vệ, những người mắc bệnh nan y, hoặc những nạn nhân của các biến cố chính trị, xã hội hoặc thiên tai… Hoạt động công tác xã hội hiện diện ở khắp nơi trên thế giới, nơi nào có người cần được giúp đỡ, ở đó có mặt các tổ chức, các cá nhân làm công tác xã hội. 

Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh là một trong số những tổ chức đoàn thể của Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội có hoạt động công tác xã hội thường xuyên, liên tục, nhiều lĩnh vực, dành cho nhiều đối tượng không chỉ trên địa bàn thành phố Hà Nội mà còn ở nhiều tỉnh thành khắp cả nước.

Trong nhiều năm qua Đoàn thanh niên Đoàn Luật sư Hà Nội luôn duy trì, phát huy tinh thần "lá lành đùm lá rách" vì mục tiêu xây dựng hình ảnh đẹp về người Luật sư Thủ đô nói riêng và góp phần vào sự phát triển của giới Luật sư cả nước nói chung.

Đối với công tác giúp đỡ người có hoàn cảnh khó khăn, mỗi dịp cuối năm Đoàn thanh niên Luật sư Hà Nội lại tổ chức kêu gọi quyên góp ủng hộ các cháu bé đang điều trị căn bệnh ung thư tại khoa Nhi - Bệnh viện K cơ sở Tân Triều, cơ sở Tam Hiệp và luôn nhận được sự đóng góp, ủng hộ nhiệt tình của các tổ chức, cá nhân.

Ngoài việc ủng hộ về vật chất, các Đoàn viên và Luật sư Hà Nội còn thường xuyên ủng hộ về mặt tinh thần như thực hiện chương trình hiến máu tình nguyện tại Viện Huyết học và Truyền máu TW. Đặc biệt trong hai năm 2020, 2021 vừa qua, mặc dù dịch bệnh Covid 19 diễn biến phức tạp nhưng hoạt động này vẫn được Đoàn thanh niên tổ chức, cung cấp hàng chục đơn vị máu quý giá cứu người. 

Cũng tại Viện Huyết học, Đoàn thanh niên phối hợp với Phòng Công tác xã hội bệnh viện tổ chức đưa đón miễn phí bệnh nhi nghèo và mua vé cho bệnh nhi cùng gia đình từ bệnh viện đến các bến xe khắp Hà Nội để trở về quê nhà. Trong hơn một năm qua, Đoàn thanh niên đã đưa đón được hơn 100 lượt bệnh nhi.

Trong đợt lũ lụt gây thiệt hại nặng nề cho đồng bào miền Trung năm 2020, Đoàn thanh niên Luật sư Hà Nội đã vận động được số tiền 100 triệu đồng và đã trực tiếp vào tận huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình để trao tặng cho trường mầm non Lâm Trạch (Xã Lâm Trạch), trường mầm non Cổ Giang (Xã Hưng Trạch) mỗi trường 50 triệu góp phần giúp Nhà trường cải tạo cơ sở vật chất cho học sinh.

Đối với công tác phổ biến pháp luật, Đoàn thanh niên Luật sư Hà Nội đã tổ chức nhiều buổi tuyên truyền pháp luật, trợ giúp pháp lý cho học sinh các trường THCS, THPT trên địa bàn thành phố như THPT Phan Đình Phùng, THPT Quang Minh, THPT Tiên Phong, THPT Thượng Cát, THPT Tân Dân, Trung tâm GDTX Phú Xuyên, Trung cấp nghề tổng hợp, THCS Hoàng Hoa Thám… về Luật An ninh mạng, bạo lực học đường, phòng chống tác hại của thuốc lá. Các buổi tuyên truyền luôn nhận được rất nhiều sự tương tác, hứng khởi của các em học sinh.

Bên cạnh đó, Luật sư Đoàn thanh niên Hà Nội cũng tham gia đóng góp ý kiến vào dự thảo luật như Luật Báo chí, Luật Doanh nghiệp, Luật Điện ảnh, Luật Cảnh sát Cơ động,…

Nhiều Luật sư thuộc Đoàn thanh niên còn tham gia tiếp công dân, tư vấn, hướng dẫn người khiếu nại tố cáo tại trụ sở tiếp dân Trung ương theo chương trình phối hợp giữa Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Liên đoàn Luật sư Việt Nam, giúp đảm bảo tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức; góp phần bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa.

Các phong trào của Đoàn thanh niên phát động đều mang lại kết quả cao, lan tỏa giá trị truyền thống tốt đẹp, được sự ủng hộ của mọi tầng lớp nhân dân. Điều đó góp phần nâng cao hình ảnh, uy tín của nghề Luật sư. Với những thành tích trong hoạt động của mình, Đoàn thanh niên Luật sư Hà Nội đã nhận được sự biểu dương, đánh giá tích cực của các cơ quan, tổ chức như Đảng ủy Đoàn Luật sư, của Thành đoàn Hà Nội, Đoàn khối các Cơ quan thành phố Hà Nội, nhận được thư cảm ơn của Viện Huyết học và Truyền máu Trung ương, Bệnh viện K…

Luật sư GIANG HỒNG THANH

Bí thư Đoàn thanh niên Đoàn Luật sư Hà Nội

Chuyển đổi số - Phương tiện đưa nghề Luật sư về đích nhanh và bền vững nhất

3. Hành vi kết hôn giả tạo sẽ bị xử lý như thế nào?

(LSVN) - Hiện này, có rất nhiều trường hợp lợi dụng việc kết hôn để xuất cảnh, có quốc tịch nước ngoài,… Đây là hành vi kết hôn giả tạo và bị nghiêm cấm theo quy định của pháp luật. Vậy, hành vi kết hôn giả như vậy sẽ bị xử lý như thế nào? Bạn đọc L.A. hỏi.

Ảnh minh họa.

Hôn nhân là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi kết hôn. Kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng với nhau theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn.

Khoản 11 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định rõ: “Kết hôn giả tạo là việc lợi dụng kết hôn để xuất cảnh, nhập cảnh, cư trú, nhập quốc tịch Việt Nam, quốc tịch nước ngoài; hưởng chế độ ưu đãi của Nhà nước hoặc để đạt được mục đích khác mà không nhằm mục đích xây dựng gia đình”.

Quan hệ hôn nhân và gia đình được xác lập, thực hiện theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ. Trong đó, kết hôn giả tạo là một trong những hành vi bị nghiêm cấm được quy định tại điểm a khoản 2 Điều 5 Luật này.

Kết hôn giả tạo nói chung là vẫn đảm bảo về mặt thủ tục và cặp vợ chồng vẫn được cấp hôn thú tuy nhiên mục đích kết hôn không đảm bảo, việc kết hôn và các thủ tục pháp lý chỉ là hình thức trên mặt giấy tờ, chứ hai người không hề chung sống với nhau hoặc nhanh chóng ly hôn sau khi đã đạt mục đích.

Mọi hành vi vi phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình phải được xử lý nghiêm minh, đúng pháp luật. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền yêu cầu Tòa án, cơ quan khác có thẩm quyền áp dụng biện pháp kịp thời ngăn chặn và xử lý người có hành vi vi phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình.

Khi xác định được hành vi kết hôn giả với mục đích để xuất cảnh, nhập cảnh, cư trú… hoặc những hành vi không được pháp luật cho phép khác thì trên cơ sở các quy định, cơ quan chức năng sẽ có căn cứ để thực hiện quyết định xử lý.

Về xử lý hành chính, theo điểm d, khoản 2, Điều 59 Nghị định số 82/2020/NĐ-CP ngày 15/7/2020 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp; hành chính tư pháp; hôn nhân và gia đình; thi hành án dân sự; phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã nêu rõ phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với hành vi lợi dụng việc kết hôn để xuất cảnh, nhập cảnh, cư trú, nhập quốc tịch Việt Nam, quốc tịch nước ngoài; hưởng chế độ ưu đãi của Nhà nước hoặc để đạt được mục đích khác mà không nhằm mục đích xây dựng gia đình. Ngoài mức phạt tiền, cá nhân vi phạm còn buộc phải nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi kết hôn giả tạo.

Ngoài ra tùy theo tính chất, mức độ vi phạm, người vi phạm còn bị thu hồi và bị Tòa án có thẩm quyền hủy bỏ Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn đã cấp.

Về xử lý kỉ luật đối với người vi phạm là công chức, viên chức, theo Nghị định 112/2020/NĐ-CP, công chức, viên chức có hành vi vi phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình (trong đó có việc kết hôn giả tạo) thì sẽ phải chịu một trong các hình thức kỷ luật sau đây:

 - Đối với công chức: Tùy theo mức độ mà bị khiển trách, cảnh cáo, hạ bậc lương, giáng chức.

 - Đối với viên chức: Cũng tùy theo mức độ mà bị khiển trách, cảnh cáo, cách chức, buộc thôi việc.

Về xử lý kỷ luật đảng, căn cứ Điều 24 Quy định số 102-QĐ/TW ngày 15/11/2017 của Ban Chấp hành TW Đảng quy định về vi phạm quy định về hôn nhân và gia đình, tùy từng trường hợp, mức độ, hậu quả vi phạm mà đảng viên có thể bị xử lý kỉ luật bằng hình thức khiển trách, cảnh cáo, cách chức hoặc khai trừ.

HỒNG HẠNH

Trách nhiệm Bộ KH&CN trong việc công bố thông tin không chính xác về kit test Covid-19

4. Nghiêm cấm đảng viên chiếm hữu, định đoạt, sử dụng trái phép tài sản công

(LSVN) – Đảng viên không được chiếm hữu, định đoạt, sử dụng trái phép tài sản công (vào mục đích cá nhân, cho thuê, cho mượn, liên doanh, liên kết, khai thác tài sản công...), hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản công của cơ quan, đơn vị, tổ chức.

Ảnh minh họa.

Ủy ban Kiểm tra Trung ương vừa ban hành Hướng dẫn số 02-HD/UBKTTW hướng dẫn việc thực hiện Quy định về những điều đảng viên không được làm. Trong đó, về nội dung tại Điều 16 Quy định 37-QĐ/TW: “Không thực hành tiết kiệm; để xảy ra thất thoát, lãng phí trong việc quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công; mua sắm, quản lý, sử dụng tài sản công trái quy định”.

Ủy ban Kiểm tra Trung ương hướng dẫn thực hiện Quy định này, cụ thể Đảng viên không được dùng tiền ngân sách nhà nước hoặc có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước, quỹ khen thưởng, phúc lợi của cơ quan, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp có vốn nhà nước, nguồn hỗ trợ, tài trợ để:

- Chi tiêu không đúng nội dung, mục đích, yêu cầu.

- Thăm viếng, tiếp khách, thưởng, biếu, tặng, cho, chiếm giữ, cho vay dưới mọi hình thức trái quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước.

Nghiêm cấm đảng viên đầu tư xây dựng, mua sắm, giao, thuê, sử dụng tài sản công vượt tiêu chuẩn, định mức do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành hoặc chưa được cơ quan có thẩm quyền cho phép.

Chiếm hữu, định đoạt, sử dụng trái phép tài sản công (vào mục đích cá nhân, cho thuê, cho mượn, liên doanh, liên kết, khai thác tài sản công...), hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản công của cơ quan, đơn vị, tổ chức.

Xử lý tài sản công trái quy định của pháp luật hoặc chưa được cơ quan có thẩm quyền cho phép. Không thực hiện đấu thầu, đấu giá với các trường hợp đầu tư xây dựng, mua sắm, cho thuê, bán tài sản công mà theo quy định phải thực hiện đấu thầu, đấu giá.

Đồng thời, không được triển khai thực hiện dự án đầu tư xây dựng, mua sắm tài sản không đúng quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước và kế hoạch đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt làm thay đổi, kéo dài thời gian thi công, xây dựng, mua sắm gây thất thoát, lãng phí.

PHƯƠNG HOA

Đến năm 2025 diện tích nhà ở bình quân đầu người toàn quốc đạt khoảng 27m2 sàn/người

5. Mua bán thông tin tài khoản ngân hàng của cá nhân: Có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự

(LSVN) – Hành vi mua bán những thông tin về tài khoản ngân hàng là hành vi vi phạm pháp luật, tùy theo tính chất mức độ, tuỳ thuộc vào hậu quả xảy ra mà người mua bán trái phép thông tin tài khoản ngân hàng có thể bị xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự. 

Tang vật của vụ án.

Thu thập, mua bán thông tin về tài khoản ngân hàng lừa đảo gần 1.000 tỉ đồng

Liên quan đến vụ việc ngày 18/12 vừa qua, lực lượng phá án Công an tỉnh Quảng Bình đã phá thành công chuyên án về đường dây thu thập, tàng trữ, trao đổi, mua bán, công khai hóa thông tin về tài khoản ngân hàng. Bước đầu xác định 15 đối tượng có liên quan và tổng số tiền giao dịch trong các tài khoản ngân hàng, lừa đảo chiếm đoạt tài sản gần 1.000 tỉ đồng.

Bước đầu xác định Nguyễn Cao Hoàng (sinh năm 1993, trú tại quận Hải Châu, Đà Nẵng) đã thuê Hoàng Trung Thương (sinh năm 1995, trú tại phường Bắc Lý, thành phố Đồng Hới) kêu gọi người khác mở các tài khoản ngân hàng từ năm 2019 đến nay. Mỗi số tài khoản Thương nhận được từ Hoàng 400.000 đồng.

Sau khi nhận được thông tin cá nhân của người đăng ký mở tài khoản thì Thương và Hoàng tự tạo ví Momo, ZaloPay để hưởng các gói quà ưu đãi (sử dụng để thanh toán tiền điện, nước, internet…) trị giá 700.000 đồng/tài khoản. Sau khi hưởng lợi, Hoàng bán tài khoản Momo cho các đối tượng hoạt động tổ chức đánh bạc trực tuyến và lừa đảo chiếm đoạt tài sản với giá 50.000 đồng/tài khoản.

Đối với tài khoản mua từ Nguyễn Tiến Đức (sinh năm 2000, trú tại xã Kỳ Văn, huyện Kỳ Anh, Hà Tĩnh), Hà Đăng Tiến (sinh năm 2002, trú tại xã Ninh Nhất, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình) thì Hoàng tổng hợp thông tin gửi cho Nguyễn Công Nam (sinh năm1995, trú tại quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng) tạo CMND giả để liên kết ngân hàng, định danh ví Momo. 

Sau đó, các đối tượng bán tài khoản cho các đối tượng hoạt động tổ chức đánh bạc trực tuyến và lừa đảo chiếm đoạt tài sản để thu lợi với giá 250.000 – 350.000 đồng/tài khoản. Tổng số tiền giao dịch trong các tài khoản ngân hàng được các đối tượng thu thập, tàng trữ, trao đổi, mua bán trái phép nhằm mục đích đánh bạc trực tuyến và lừa đảo chiếm đoạt tài sản gần 1.000 tỉ đồng.

Dưới góc độ pháp lý, Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn Luật sư TP. Hà Nội cho rằng đây là hoạt động tội phạm với phương thức và thủ đoạn mới trong bối cảnh hoạt động tội phạm công nghệ cao đang gia tăng và phát triển nhanh chóng trên không gian mạng.

Hiện nay có rất nhiều hình thức thu nhập bất chính, chiếm đoạt tài sản bằng công nghệ cao, trong đó phổ biến nhất là lừa đảo chiếm đoạt tài sản và hoạt động đánh bạc trái phép trên mạng internet. Để thực hiện các hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì các đối tượng cần rất nhiều tài khoản ngân hàng, tài khoản mạng xã hội để làm công cụ, phương tiện cho hoạt động lừa đảo, ẩn danh người khác để thực hiện giao dịch cũng như để nhận tiền. Hoạt động lừa đảo phát triển mạnh trên không gian mạng những năm gần đây đã làm phát sinh một nhu cầu trung gian là tìm kiếm các thông tin cá nhân, tài khoản ngân hàng, tài khoản mạng xã hội của cá nhân để bán cho các nhóm đối tượng lừa đảo này. Đây là một trong những nguyên nhân làm phát sinh loại tội phạm mới này.

Ngoài ra, hoạt động tổ chức đánh bạc trái phép trên mạng internet là hoạt động bất hợp pháp nhưng có thể có khoản thu lợi bất chính nhanh hơn bất cứ hoạt động phi pháp nào, kể cả là buôn bán trái phép chất ma túy. Bởi vậy các đối tượng vì lợi nhuận mà bất chấp pháp luật, liên tục tổ chức các đường dây đánh bạc trái phép qua mạng internet với số tiền thu lợi bất chính hàng ngàn tỉ đồng. Để thực hiện các hoạt động tổ chức đánh bạc qua mạng internet thì các đối tượng cũng cần nhiều Tài khoản mạng xã hội, tài khoản ngân hàng, các phương tiện trung gian thanh toán. Đây là cơ hội, thời cơ cho các đối tượng mua bán tài khoản, mua bán thông tin cá nhân để tiếp tay, giúp sức cho các đối tượng tổ chức đánh bạc trái phép.

Bởi vậy, trong quá trình điều tra, trường hợp cơ quan điều tra có căn cứ cho thấy các đối tượng lừa đảo để chiếm đoạt tài khoản ngân hàng của các nạn nhân hoặc thu thập trái phép thông tin cá nhân để bán cho các đối tượng lừa đảo thì các đối tượng này cũng sẽ được xác định là đồng phạm về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo Điều 174 Bộ luật Hình sự với vai trò giúp sức. 

Ngoài ra, trường hợp các đối tượng thu thập trái phép thông tin tài khoản, thông tin cá nhân của người khác để bán cho các đối tượng tổ chức đánh bạc trái phép thì hành vi này cũng được xác định là đồng phạm giúp sức, sẽ cùng bị xử lý về tội “Tổ chức đánh bạc trái phép” với vai trò đồng phạm theo Điều 322 Bộ luật Hình sự.

Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn Luật sư TP. Hà Nội.

Luật sư Cường phân tích rõ, khoản 22 Điều 4 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 quy định: “Tài khoản thanh toán là tài khoản tiền gửi không kỳ hạn của khách hàng mở tại ngân hàng để sử dụng các dịch vụ thanh toán do ngân hàng cung ứng”. Do đó, “tài khoản ngân hàng” là một dạng tài sản của ngân hàng cung cấp cho khách hàng để thực hiện các giao dịch tiền tệ như: chuyển tiền, nhận tiền, rút tiền, gửi tiết kiệm, thanh toán,… 

Hành vi mua bán những thông tin về tài khoản ngân hàng là hành vi vi phạm pháp luật, tùy theo tính chất mức độ, tuỳ thuộc vào hậu quả xảy ra mà người mua bán trái phép thông tin tài khoản ngân hàng có thể bị xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự. 

Cụ thể với hành vi được xác định là chưa đến mức nguy hiểm cho xã hội thì sẽ bị xử phạt hành chính theo Điều 26 Nghị định 88/2019/NĐ-CP. Hành vi được xác định là nguy hiểm cho xã hội thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 291 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017 về tội “Thu thập, tàng trữ, trao đổi, mua bán, công khai hóa trái phép thông tin về tài khoản ngân hàng”.

Điều 291. Tội thu thập, tàng trữ, trao đổi, mua bán, công khai hóa trái phép thông tin về tài khoản ngân hàng

1. Người nào thu thập, tàng trữ, trao đổi, mua bán, công khai hóa trái phép thông tin về tài khoản ngân hàng của người khác với số lượng từ 20 tài khoản đến dưới 50 tài khoản hoặc thu lợi bất chính từ 20.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong những trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm:

a) Thu thập, tàng trữ, trao đổi, mua bán, công khai hóa trái phép thông tin về tài khoản ngân hàng của người khác với số lượng từ 50 tài khoản đến dưới 200 tài khoản;

b) Có tổ chức;

c) Có tính chất chuyên nghiệp;

d) Thu lợi bất chính từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;

đ) Tái phạm nguy hiểm.

3. Phạm tội thuộc một trong những trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 200.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:

a) Thu thập, tàng trữ, trao đổi, mua bán, công khai hóa trái phép thông tin về tài khoản ngân hàng của người khác với số lượng 200 tài khoản trở lên;

b) Thu lợi bất chính 200.000.000 đồng trở lên.

4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

Với hành vi thu thập, tàng trữ, trao đổi, mua bán trái phép thông tin tài khoản ngân hàng với số lượng tài khoản từ 200 tài khoản trở lên hoặc thu lợi bất chính từ 200.000.000 đồng trở lên thì các đối tượng trong vụ án này sẽ bị phạt tiền từ 200.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng hoặc bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm theo quy định tại khoản 3, Điều 291 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Đây là hoạt động tội phạm mới, ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh trật tự, an toàn xã hội, an ninh an toàn mạng. Bởi vậy việc cơ quan điều tra phát hiện, triệt phá các đường dây tội phạm như thế này là rất cần thiết để đảm bảo an ninh, an toàn mạng, đồng thời làm cơ sở để phát hiện ra các đường dây tổ chức đánh bạc trái phép, các đường dây lừa đảo chiếm đoạt tài sản để xử lý theo quy định của pháp luật.

Qua sự việc này thì cơ quan chức năng cũng cần tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật để người dân biết được về việc bảo vệ thông tin cá nhân, bảo vệ tài khoản ngân hàng để tránh trường hợp trở thành những bị hại trong những vụ việc lừa đảo, hoặc vô tình tiếp tay cho các hoạt động tội phạm. Trường hợp các cá nhân biết rõ việc cung cấp thông tin tài khoản ngân hàng của mình hoặc cung cấp thông tin nhân thân của mình cho các nhóm đối tượng lừa đảo mà vẫn thực hiện hành vi thì còn có thể bị xử lý hình sự về tội danh đó với vai trò giúp sức. Việc làm lộ lọt, bán thông tin cá nhân của mình không những có thể biến mình trở thành nạn nhân của các vụ lừa đảo mà còn có thể trở thành tội phạm khi tiếp tay, giúp sức cho các đối tượng lừa đảo.

Ngoài ra, cơ quan chức năng cũng cần tăng cường công tác kiểm sát hoạt động mở tài khoản của ngân hàng, các tổ chức tín dụng và hoạt động trung gian thanh toán. Trong trường hợp phát hiện ra việc mở tài khoản ngân hàng trái phép, có dấu hiệu mua bán thông tin tài khoản, lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì phải gánh trách nhiệm đối với các tổ chức tín dụng, cần phải có cơ chế kiểm tra giám sát và quy trách nhiệm đối với tổ chức cá nhân có liên quan đến hành vi giúp sức cho các đối tượng mở tài khoản ngân hàng trái phép hoặc mua bán, chiếm đoạt thông tin tài khoản ngân hàng. Cần phải thực hiện đồng thời phải đầy đủ các giải pháp từ cơ chế chính sách, pháp luật, tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật và nâng cao trách nhiệm ý thức của các tổ chức, cá nhân có liên quan thì mới quản lý tốt được vấn đề này, thực hiện tốt giải pháp phòng ngừa, hạn chế các hoạt động tội phạm công nghệ cao có thể xảy ra.

DUY ANH

Trách nhiệm Bộ KH&CN trong việc công bố thông tin không chính xác về kit test Covid-19

6. Đề xuất sửa đổi quy định về trang phục xét xử của hội thẩm nhân dân

(LSVN) - Tòa án Nhân dân Tối cao cho rằng, việc thay đổi trang phục xét xử của hội thẩm nhân dân từ bộ comple bằng áo choàng phù hợp với pháp luật hiện hành của Việt Nam.

Ảnh minh họa.

Tòa án Nhân dân Tối cao đang dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị quyết số 1214/2016/UBTVQH13 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về trang phục của thẩm phán, hội thẩm nhân dân; giấy chứng minh thẩm phán, giấy chứng minh hội thẩm.

Theo Dự thảo, hội thẩm nhân dân được cấp trang phục để sử dụng theo niên hạn gồm:

- Trang phục xét xử là áo choàng (được cấp 5 năm một bộ, sử dụng tại phiên tòa).

- Trang phục làm việc, gồm: Quần âu, áo sơ mi dài tay.

Tòa án Nhân dân Tối cao cho rằng, việc thay đổi trang phục xét xử của hội thẩm nhân dân từ bộ comple bằng áo choàng phù hợp với pháp luật hiện hành của Việt Nam. Qua kết quả tổng kết, đánh giá hiệu quả của việc cải cách tư pháp tại tòa án thời gian qua, việc thẩm phán mặc áo choàng khi xét xử đã tạo được vị thế trong hoạt động tư pháp, được nhân dân đồng tình ủng hộ.

Với tư cách là người tiến hành tố tụng, thành viên của hội đồng xét xử, ngang quyền đưa ra toàn bộ phán quyết thì việc thay thế trang phục xét xử áo choàng sẽ đồng bộ hơn và thể hiện sự tôn vinh của xã hội đối với hội thẩm nhân dân khi tham gia xét xử tại tòa án.

Bên cạnh sửa đổi quy định về trang phục xét xử của hội thẩm nhân dân, Dự thảo cũng bổ sung quy định về phù hiệu hội thẩm nhân dân. Theo đó, phù hiệu hội thẩm nhân dân được làm bằng kim loại, có hình chữ nhật màu xanh dương (kích thước 2 cm x 8 cm), được dùng để đeo trên ngực trái của hội thẩm nhân dân.

Trên mặt tấm biển phù hiệu này, phía bên trái có biểu tượng Quốc huy, chiếm 1/3 chiều dài phù hiệu; 2/3 chiều dài còn lại là họ và tên hội thẩm nhân dân, viết chữ in hoa, màu đỏ.

MAI HUỆ

Nghị quyết hướng dẫn xử lý tội cho vay lãi nặng có hiệu lực

7. Sửa đổi quy định cho vay đặc biệt đối với tổ chức tín dụng được kiểm soát đặc biệt

(LSVN) - Cho vay đặc biệt với lãi suất ưu đãi đến mức 0% đối với ngân hàng thương mại đã được mua bắt buộc trước ngày Luật số 17/2017/QH14 có hiệu lực theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ quy định tại khoản 2 Điều 3 Luật số 17/2017/QH14.

Ảnh minh họa.

Ngân hàng Nhà nước đang dự thảo Thông tư sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 08/2021/TT-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về cho vay đặc biệt đối với tổ chức tín dụng được kiểm soát đặc biệt.

Dự thảo sửa đổi điểm d khoản 1 Điều 4 các trường hợp cho vay đặc biệt như sau: "d) Cho vay đặc biệt với lãi suất ưu đãi đến mức 0% đối với ngân hàng thương mại đã được mua bắt buộc trước ngày Luật số 17/2017/QH14 có hiệu lực theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ quy định tại khoản 2 Điều 3 Luật số 17/2017/QH14".

Bên cạnh đó, dự thảo Thông tư sửa đổi khoản 1 Điều 5 Nguyên tắc cho vay đặc biệt, xử lý khoản cho vay đặc biệt. Cụ thể, đối với khoản cho vay đặc biệt quy định tại điểm b, c, đ khoản 1, điểm c khoản 2, điểm c khoản 3, điểm b khoản 4 Điều 4 Thông tư này, số tiền cho vay đặc biệt, mục đích sử dụng khoản cho vay đặc biệt, tài sản bảo đảm cho khoản cho vay đặc biệt, lãi suất cho vay đặc biệt, thời hạn cho vay đặc biệt, việc trả nợ cho vay đặc biệt, việc miễn, giảm tiền lãi cho vay đặc biệt, việc xử lý đối với khoản cho vay đặc biệt đã cho vay (bao gồm cả việc gia hạn khoản cho vay đặc biệt, lãi suất đối với nợ gốc cho vay đặc biệt quá hạn) thực hiện theo phương án cơ cấu lại, phương án chuyển nhượng đã được phê duyệt.

Đối với khoản cho vay đặc biệt quy định tại điểm d khoản 1 Điều 4 Thông tư này thực hiện theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ quy định tại khoản 2 Điều 3 Luật số 17/2017/QH14.

DUY ANH

Xử lý nghiêm hành vi lợi dụng danh nghĩa báo chí để hoạt động trái pháp luật

8. Xây dựng bộ tiêu chí đánh giá chuyển đổi số các cơ sở giáo dục và đào tạo

(LSVN) - Bộ Giáo dục và Đào tạo đang xây dựng bộ tiêu chí, chỉ số đánh giá chuyển đổi số các cơ sở giáo dục và đào tạo dựa trên tiêu chí bám sát nội dung chương trình chuyển đổi số quốc gia.

Ảnh minh họa.

Theo đó, bộ chỉ số được xây dựng để đánh giá 7 chỉ số đối với ngành giáo dục và đào tạo gồm:

- Chỉ số hạ tầng, nền tảng số và an toàn thông tin;

- Chỉ số phát triển nhân lực số;

- Chỉ số về nguồn lực;

- Chỉ số xây dựng thể chế;

- Chỉ số hoạt động quản trị số;

- Chỉ số hoạt động dạy - học số;

- Chỉ số hoạt động dịch vụ số học đường.

Các chỉ số từ bộ chỉ số sẽ là căn cứ để thúc đẩy chuyển đổi số ở các cơ sở giáo dục; đồng thời, chỉ ra điểm mạnh cần phát huy, điểm hạn chế cần khắc phục và cung cấp thông tin hỗ trợ các cơ sở giáo dục có giải pháp phù hợp.

Dự kiến sau khi được xây dựng và ban hành, bộ chỉ số sẽ giúp các cơ sở giáo dục và đào tạo tiết kiệm được rất nhiều thời gian để thực hiện công cuộc chuyển đổi số trong hoạt động của mình.

Trên thực tế, việc áp dụng công nghệ thông tin trong hoạt động điều hành, dạy và học đã đạt được nhiều thành quả, nhất là trong bối cảnh hai năm 2020-2021 nhiều cơ sở giáo dục, nhiều địa phương phải tạm dừng dạy học trực tiếp, chuyển sang dạy trực tuyến, từ xa để phòng, chống dịch bệnh Covid-19.

VĂN QUANG

Bàn về tình tiết định khung ‘giết người đang thi hành công vụ’ theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 321 BLHS

9, Người nhập cảnh ngắn ngày không phải cách ly y tế theo quy định mới nhất

(LSVN) - Ngày 24/12, Bộ Y tế đã ban hành hướng dẫn y tế phòng, chống dịch Covid-19 đối với người được phép nhập cảnh vào Việt Nam làm việc ngắn ngày (dưới 14 ngày).

Ảnh minh họa.

Theo đó, đối tượng áp dụng của hướng dẫn này là những người được phép nhập cảnh vào Việt Nam làm việc ngắn ngày bao gồm:

- Người nhập cảnh với mục đích ngoại giao, công vụ;

- Người nhập cảnh không phải mục đích ngoại giao công vụ (Nhà đầu tư, chuyên gia, lao động tay nghề cao, nhà quản lý doanh nghiệp, kinh doanh, thương mại, nghiên cứu thị trường cùng thân nhân và các đối tượng theo thỏa thuận với từng quốc gia);

- Những người tiếp xúc với người nhập cảnh ngắn ngày trong quá trình làm việc tại Việt Nam.

Bộ Y tế nêu rõ người nhập cảnh ngắn ngày không phải cách ly y tế song phải tuân thủ nghiêm ngặt và đầy đủ các quy định về phòng, chống dịch Covid-19, đề án, kế hoạch đã được phê duyệt, không tiếp xúc với cộng đồng, đảm bảo an toàn cho người nhập cảnh ngắn ngày và những người tiếp xúc, không để lây nhiễm chéo trong quá trình làm việc và không lây nhiễm ra cộng đồng. 

Trong trường hợp người nhập cảnh dự kiến làm việc, hoạt động tại nhiều địa phương, cần phải có kế hoạch, phương án di chuyển rõ ràng và được địa phương liên quan chấp thuận.

Người nhập cảnh ngắn ngày và người tiếp xúc với người nhập cảnh ngắn ngày phải thực hiện đầy đủ quy định 5K, tự theo dõi sức khỏe, khi có một trong các biểu hiện: sốt, ho, đau rát họng hoặc khó thở thì thông báo cho cơ quan quản lý và y tế địa phương để xử lý theo quy định.

Bộ Y tế lưu ý việc lập danh sách toàn bộ những người tiếp xúc với người nhập cảnh ngắn ngày trong quá trình làm việc, đi thực địa. Nơi lưu trú (khách sạn, nơi lưu trú do doanh nghiệp thu xếp, cơ sở lưu trú khác) được Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phê duyệt đảm bảo các quy định về phòng, chống dịch Covid-19. Bố trí riêng khu vực lưu trú cho người nhập cảnh ngắn ngày. Tuyệt đối không để lây nhiễm chéo tại nơi lưu trú và lây nhiễm ra cộng đồng. Đối với người nhập cảnh với mục đích ngoại giao, công vụ thì được miễn chi trả (trừ chi phí lưu trú tại khách sạn theo nguyện vọng).

Trường hợp sau thời gian làm việc ngắn ngày mà người nhập cảnh tiếp tục có nhu cầu ở lại Việt Nam làm việc thì phải thực hiện các quy định hiện hành về nhập, xuất cảnh và các quy định về phòng, chống dịch Covid-19.

Đối với người đã được tiêm đủ liều vaccine phòng Covid-19 hoặc đã khỏi bệnh Covid-19: Kết thúc thời gian làm việc trước 3 ngày kể từ ngày nhập cảnh phải tự theo dõi sức khỏe tại nơi lưu trú đến hết ngày thứ 3, không được tiếp xúc với người xung quanh, không được ra khỏi nơi lưu trú. Thực hiện xét nghiệm SARS- CoV-2 bằng phương pháp RT-PCR vào ngày thứ 3 kể từ ngày nhập cảnh. 

Nếu kết quả xét nghiệm âm tính thì tiếp tục theo dõi sức khỏe đến hết 14 ngày, thực hiện đầy đủ quy định 5K. Trường hợp có dấu hiệu ho, sốt, khó thở, đau họng... phải báo ngay cho y tế địa phương để xử lý theo quy định.

Trường hợp kết thúc thời gian làm việc sau 3 ngày và có kết quả xét nghiệm SARS-CoV-2 bằng phương pháp RT-PCR âm tính vào ngày thứ 3 thì tiếp tục theo dõi sức khỏe đến hết 14 ngày, thực hiện đầy đủ quy định 5K. Nếu có dấu hiệu ho, sốt, khó thở, đau họng.thì phải báo ngay cho y tế địa phương để xử lý theo quy định.

Đối với người chưa tiêm vaccine hoặc tiêm chưa đủ liều vaccine Covid-19: Kết thúc thời gian làm việc trước 7 ngày kể từ ngày nhập cảnh phải tự cách ly tại nơi lưu trú đến hết ngày thứ 7. Thực hiện xét nghiệm SARS-CoV-2 bằng phương pháp RT-PCR vào ngày thứ 3 và ngày thứ 7 tính từ ngày nhập cảnh. Nếu kết quả xét nghiệm âm tính thì tiếp tục theo dõi sức khỏe đến hết 14 ngày, thực hiện đầy đủ quy định 5K. Trường hợp có dấu hiệu ho, sốt, khó thở, đau họng.thì phải báo ngay cho y tế địa phương để xử lý theo quy định.

Trường hợp kết thúc thời gian làm việc sau 7 ngày và có kết quả xét nghiệm SARS-CoV-2 bằng phương pháp RT-PCR âm tính vào ngày thứ 7 thì tiếp tục theo dõi sức khỏe đến hết 14 ngày, thực hiện đầy đủ quy định 5K. Nếu có dấu hiệu ho, sốt, khó thở, đau họng.thì phải báo ngay cho y tế địa phương để xử lý theo quy định. Trường hợp kết quả xét nghiệm dương tính thì xử lý theo quy định.

DUY ANH

Quy định mới quản lý hoạt động Trạm kiểm tra tải trọng xe

Hôm nay khai mạc Đại hội đại biểu Luật sư toàn quốc lần thứ III

(LSVN) - Ngày 25/12/2021, Đại hội đại biểu Luật sư toàn quốc lần thứ III, nhiệm kỳ 2021-2026 sẽ chính thức khai mạc tại Thủ đô Hà Nội, với sự tham dự của 458 đại biểu đại diện cho 63 Đoàn Luật sư tỉnh, thành phố và khách mời từ các cơ quan, bộ, ban, ngành Trung ương, TP. Hà Nội, nguyên lãnh đạo và cán bộ Liên đoàn Luật sư Việt Nam qua các thời kỳ.

Đại hội đại biểu Luật sư toàn quốc lần thứ II.

Đại hội đại biểu Luật sư toàn quốc lần thứ III, nhiệm kỳ 2021-2026 diễn ra trong bối cảnh hết sức đặc biệt, đất nước đang bước vào những ngày cuối cùng của năm 2021 với những biến động hết sức to lớn dưới tác động của đại dịch Covid-19.

Đây cũng là năm đầu tiên toàn Đảng, toàn quân và toàn dân triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng; công cuộc cải cách tư pháp đạt được nhiều thành tựu nổi bật sau 15 năm triển khai Chiến lược cải cách tư pháp theo Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị, theo đó, vị trí, vai trò của Luật sư, nghề Luật sư không ngừng được nâng cao trong xã hội.

Trong nhiệm kỳ vừa qua, dưới sự quan tâm lãnh đạo của Đảng, sự chỉ đạo, hỗ trợ của Chính phủ, sự phối hợp của các bộ, ban, ngành, các cơ quan và tổ chức hữu quan, hoạt động của Liên đoàn Luật sư Việt Nam đạt được những thành quả hết sức quan trọng, cơ bản hoàn thành các mục tiêu do Nghị quyết Đại hội lần thứ II đề ra.

Cụ thể, các phương hướng, nhiệm vụ trong Nghị quyết đã được cụ thể hóa bằng các chương trình, kế hoạch, đề án, hoạt động thiết thực, gắn với thực tiễn và chức năng, nhiệm vụ, tạo sự chuyển biến mới, tiếp tục khẳng định và phát huy vai trò của Liên đoàn Luật sư Việt Nam trong công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, trong tập hợp, đoàn kết đội ngũ Luật sư cùng nhau bảo vệ công lý, góp phần đảm bảo an ninh quốc gia và phát triển kinh tế xã hội của đất nước.

Theo kế hoạch, Đại hội đại biểu Luật sư toàn quốc lần thứ III, nhiệm kỳ 2021-2026 sẽ được tổ chức vào ngày 25 và 26/12/2021 tại Thủ đô Hà Nội. Đại hội sẽ tập trung thảo luận các nội dung chính sau:

- Thảo luận, thông qua Báo cáo tổng kết công tác nhiệm kỳ II (2015-2021) và phương hướng công tác nhiệm kỳ III (2021-2026) của Liên đoàn Luật sư Việt Nam;

- Báo cáo kiểm điểm công tác nhiệm kỳ II của Hội đồng Luật sư toàn quốc, Ban Thường vụ và Thường trực Liên đoàn Luật sư Việt Nam;

- Thông qua Báo cáo công tác tài chính nhiệm kỳ II và kế hoạch công tác tài chính nhiệm kỳ III của Liên đoàn;

- Thông qua dự thảo Điều lệ Liên đoàn Luật sư Việt Nam (sửa đổi);

- Bầu các cơ quan và các chức danh lãnh đạo chủ chốt của Liên đoàn Luật sư Việt Nam nhiệm kỳ III.

Ngoài ra, tại ngày làm việc thứ nhất, Đại hội sẽ tưởng niệm các Luật sư từ trần trong nhiệm kỳ II và mất vì dịch Covid-19.

Đại hội vinh dự được đón lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước tham dự và phát biểu chỉ đạo Đại hội. Với tinh thần “Đoàn kết – Dân chủ - Kỷ cương – Trí tuệ”, đội ngũ Luật sư trong cả nước sẽ phát huy truyền thống đoàn kết, chung sức đồng lòng, vượt qua khó khăn, thách thức, phấn đấu thực hiện thắng lợi mục tiêu nhiệm vụ đề ra.

DUY ANH

Đại hội đại biểu Luật sư toàn quốc lần thứ III sẽ diễn ra từ ngày 25-26/12/2021 tại Hà Nội

 

 

 

Admin