/ Hồ sơ - Tư liệu
/ VKSND tối cao thông báo rút kinh nghiệm vụ án hành chính

VKSND tối cao thông báo rút kinh nghiệm vụ án hành chính

05/01/2021 18:12 |

(LSVN) - Thông qua công tác kiểm sát việc giải quyết theo thủ tục giám đốc thẩm đối với vụ án hành chính, VKSND tối cao thông báo đến VKSND các cấp để rút kinh nghiệm chung về công tác kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính “Khiếu kiện quyết định hành chính về quản lý đất đai”.

Ảnh minh họa.

Người khởi kiện: Bà Nguyễn Thị Kim C, sinh năm 1966.

Địa chỉ: Khu phố 3, phường X, thành phố P, tỉnh B

Người bị kiện: UBND thành phố P, tỉnh B

Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1/ Văn phòng Công chứng AP;

2/ Ông N, sinh năm 1949;

3/ Bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1950;

4/ Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1956;

5/ Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1959;

6/ Ông Nguyễn Quang G, sinh năm 1963;

7/ Bà Nguyễn Thị Kim M, sinh năm 1961;

I. Tóm tắt nội dung vụ án

Ông Nguyễn Văn K (mất năm 2014) và bà Nguyễn Thị O (mất năm 1984) có 07 người con chung gồm N, Nguyễn Thị L, Nguyễn Thị T, Nguyễn Thị Kim M, Nguyễn Thị H, Nguyễn Quang G, Nguyễn Thị Kim C. Khi còn sống ông K, bà O có tạo dựng được diện tích đất 7,428 ha tọa lạc tại thôn E, xã V, huyện R (nay là xã V, thành phố P, tỉnh B).

Năm 1979, UBND tỉnh Z (nay là tỉnh B) đã trưng thu toàn bộ diện tích 7,428 ha đất của gia đình ông K giao cho Ty Xây dựng Z để xây dựng Xí nghiệp gạch ngói Z nhưng UBND tỉnh chưa thực hiện chính sách bồi thường cho gia đình ông K.

Sau khi bị trưng thu đất, gia đình ông K đã liên tục khiếu nại đến các cơ quan chức năng có thẩm quyền để được giải quyết. Trong quá trình khiếu nại, ngày 06/10/2010, ông K ủy quyền cho bà C được thay mặt ông đại diện cho gia đình thực hiện việc đòi đền bù đất bị Nhà nước thu hồi.

Ngày 04/8/2014, ông K chết, các con của ông K tiếp tục ủy quyền cho bà C đại diện cho gia đình kế thừa việc khiếu nại của ông K (Giấy ủy quyền ngày 06/05/2010 có chứng thực).

Ngày 25/10/2014, ông N, bà Nguyễn Thị L, bà Nguyễn Thị T, bà Nguyễn Thị Kim M, bà Nguyễn Thị H, ông Nguyễn Quang G và bà C lập Văn bản thỏa thuận, theo đó “các Ông, Bà đồng ý giao cho bà C được toàn quyền sử dụng quyền lợi và nghĩa vụ (nếu nhận được hỗ trợ) từ UBND tỉnh B sau khi vụ khiếu nại chấm dứt”. Văn bản này không được chứng thực.

Ngày 05/8/2015, Thanh tra Chính phủ ban hành Báo cáo kết luận số 2237/BC-TTCP về việc kiểm tra việc giải quyết khiếu nại của ông Nguyễn Văn K, tỉnh B, trong đó có nội dung: “… kiến nghị Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo UBND tỉnh B giải quyết khiếu nại của các con ông K theo hướng: Trên cơ sở quỹ đất của địa phương, hỗ trợ giao đất cho các con của ông K…”. Kiến nghị này được Thủ tướng Chính phủ đồng ý và giao cho Chủ tịch UBND tỉnh B chỉ đạo ban hành kiến nghị nêu trên tại Công văn số 7447/VPCP-VI ngày 18/9/2015 của Văn phòng Chính phủ.

Ngày 07/6/2017, Văn phòng Chính phủ có Công văn số 5914/VPCP-VI thông báo ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng Chính phủ, trong đó có nội dung: “… đề nghị giao cho 05 người con của ông Nguyễn Văn K, mỗi người 01 lô đất tại Khu tái định cư Đông X thuộc thành phố P, không thu tiền sử dụng đất, chỉ nộp tiền cơ sở hạ tầng và hỗ trợ di dời mồ mả theo quy định thay cho việc giải quyết bồi thường 7,428 ha đất là thiện chí và chính đáng. Giao Chủ tịch UBND tỉnh B giải quyết theo hướng chấp thuận đề nghị nêu trên, không để kéo dài, báo cáo kết quả lên Thủ tướng Chính phủ trước ngày 01/8/2017”.

Ngày 09/11/2017, UBND tỉnh B ban hành Quyết định số 3184/QĐ-UBND về việc thu hồi 05 lô đất ở đô thị do Trung tâm Phát triển quỹ đất tỉnh quản lý và giao toàn bộ diện tích đất đã thu hồi nêu trên cho UBND thành phố P để quyết định giao đất cho hộ gia đình ông Nguyễn Văn K theo chủ trương của UBND tỉnh tại Công văn số 3321/UBND-NC ngày 25/8/2017.

Ngày 22/12/2017, UBND thành phố P đã ban hành 05 Quyết định (số 8805, 8806, 8807, 8808 và 8809/QĐ-UBND) về việc giao đất ở cho bà Nguyễn Thị Kim C.

Sau khi UBND thành phố P ban hành 05 Quyết định nêu trên thì ngày 06/01/2018 các bà M, H, L, T đã làm đơn tố cáo gửi Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh B tố cáo bà C có hành vi giả mạo Văn bản thỏa thuận ngày 25/10/2014 để chiếm đoạt tài sản của mình.

Ngày 22/5/2018, UBND thành phố P ban hành Quyết định số 3783/QĐ-UBND về việc hủy bỏ 05 Quyết định (số 8805, 8806, 8807, 8808 và 8809/QĐ-UBND) về việc giao đất ở cho bà Nguyễn Thị Kim C.

Không đồng ý với Quyết định số 3783/QĐ-UBND của UBND thành phố P, ngày 01/6/2018, bà C khởi kiện ra TAND tỉnh B yêu cầu Tòa án hủy Quyết định số 3783/QĐ-UBND ngày 22/5/2018 của UBND thành phố P.

II. Quá trình giải quyết vụ án

Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 29/2018/HC-ST ngày 23 tháng 10 năm 2018 của TAND tỉnh B đã quyết định như sau:

Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Kim C về việc:

  • Yêu cầu hủy Quyết định số 3783/QĐ-UBND ngày 22/5/2018 của UBND thành phố P về việc hủy bỏ 05 Quyết định giao đất số 8805, 8806, 8807, 8808, 8809 ngày 22/12/2017 của UBND thành phố P đối với bà Nguyễn Thị Kim C.
  • Yêu cầu UBND thành phố P phải bồi thường thiệt hại do quyết định hành chính trái pháp luật của Ủy ban gây ra.

Ngày 06/11/2018, người khởi kiện là bà Nguyễn Thị Kim C kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.

Tại Bản án hành chính phúc thẩm số 436/2019/HC-PT ngày 10/7/2019, TAND cấp cao tại thành phố HC áp dụng điểm a khoản 2 Điều 241 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 tuyên chấp nhận kháng cáo của bà Nguyễn Thị Kim C sửa Bản án hành chính sơ thẩm số 29/2018/HC-ST ngày 23/10/2018 của TAND tỉnh B tuyên xử:

Hủy Quyết định số 3783/QĐ-UBND ngày 22/5/2018 của UBND thành phố P về việc hủy bỏ 05 Quyết định giao đất số 8805/QĐ-UBND, 8806/QĐ-UBND, 8807/QĐ-UBND, 8808/QĐ-UBND, 8809/QĐ-UBND cùng ngày 22/12/2017 của UBND thành phố P đối với bà Nguyễn Thị Kim C.

Ngày 22/7/2019, bà Nguyễn Thị Kim M là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có đơn đề nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm. Ngày 10/9/2019, VKSND cấp cao tại thành phố HC ban hành Thông báo số 39/TB-VKS-HC gửi VKSND tối cao về việc đề nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm đối với Bản án hành chính phúc thẩm nêu trên.

III. Một số vấn đề cần rút kinh nghiệm

  1. Trong vụ án này, đối tượng khởi kiện là Quyết định số 3783/QĐ-UBND ngày 22/5/2018 của UBND thành phố P, có nội dung hủy bỏ 05 Quyết định giao đất số 8805, 8806, 8807, 8808, 8809 ngày 22/12/2017 của UBND thành phố P cho bà C. Để xác định Quyết định số 3783/QĐ-UBND là đúng hay sai thì cần phải xem xét 05 Quyết định giao đất nêu trên để từ đó có căn cứ xem xét hủy hay không hủy Quyết định số 3783/QĐ-UBND ngày 22/5/2018.
  2. Có căn cứ cho thấy việc UBND thành phố P ban hành Quyết định số 3783/QĐ-UBND ngày 22/5/2018 về việc hủy bỏ 05 Quyết định giao đất cho bà C là đúng quy định của pháp luật, cụ thể như sau:

Một là, xét về bản chất, đối tượng được giao đất không phải là cá nhân bà C, nhưng 05 Quyết định giao đất lại giao cho cá nhân bà Nguyễn Thị Kim C là sai, bởi lẽ: 05 Quyết định giao đất của UBND thành phố P ban hành không dựa trên cơ sở chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Công văn số 5914/VPCP-VI ngày 07/6/2017 có nội dung “xem xét giao cho 05 người con của ông K mỗi người một lô đất” và Quyết định số 3184/QĐ-UBND ngày 09/11/2017 của UBND tỉnh B về việc “thu hồi và giao đất cho hộ gia đình ông K”. Việc giao đất này xuất phát từ khiếu nại của gia đình ông K về việc UBND tỉnh Z (cũ) trưng thu 7,428 ha đất vào năm 1979 nhưng không bồi thường. Sai sót của 05 Quyết định giao đất là chỉ giao cho mỗi cá nhân bà C, trong khi đối tượng được giao đất là 05 người con của ông K.

Hai là, Điều 1 của các Quyết định giao đất có nội dung giao đất ở cho bà C “theo Quyết định số 3184/QĐ-UBND ngày 09/11/2017 của UBND tỉnh B (nhận thừa kế từ hộ ông Nguyễn Văn K)” là trái thực tế, bởi lẽ: Không có bất cứ tài liệu nào thể hiện những người thừa kế của ông K đồng ý nhượng phần thừa kế của mình cho bà C mà chỉ có Văn bản thỏa thuận do Văn phòng công chứng AP lập vào ngày 25/10/2014 có nội dung “Bên A (6 anh chị em của bà C) đồng ý cho bên B (bà C) toàn quyền sử dụng quyền và nghĩa vụ (nếu nhận được hỗ trợ) từ UBND tỉnh B sau khi vụ khiếu nại chấm dứt”. Văn bản này không phải là văn bản về thừa kế và nội dung thỏa thuận cho phép bà C được “toàn quyền sử dụng quyền và nghĩa vụ (nếu nhận được hỗ trợ) từ UBND tỉnh B” không đồng nghĩa với việc bà C được thừa kế toàn bộ 05 lô đất trên.

Ba là, căn cứ để ban hành các Quyết định giao đất cho cá nhân bà C là Văn bản thỏa thuận ngày 25/10/2014 do Văn phòng công chứng AP lập nhưng văn bản thỏa thuận này là trái pháp luật, bởi lẽ: Theo kết quả xác minh của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh B, tại thời điểm công chứng không có mặt các anh chị em của bà C, văn bản thỏa thuận đã được soạn sẵn và đã có chữ ký của các bên, các anh, chị, em của bà C đều xác nhận không ký vào văn bản này; Công chứng viên không chứng kiến những người thỏa thuận ký trước mặt nhưng vẫn làm chứng; đặc biệt văn bản này không có trong hồ sơ lưu trữ của tổ chức công chứng, lấy số công chứng trùng với số công chứng của một văn bản công chứng khác. Cơ quan Cảnh sát điều tra cũng xác định bà Nguyễn Thị Kim C đã cố ý thực hiện hành vi gian dối, sử dụng văn bản cũ, đưa đi yêu cầu công chứng trái pháp luật; xác định Văn bản thỏa thuận ngày 25/10/2014 do Văn phòng công chứng AP lập là không hợp pháp, vi phạm Luật Công chứng năm 2006 và không có giá trị sử dụng.

Từ 03 căn cứ nêu trên cho thấy, 05 quyết định giao đất cho cá nhân bà C có các sai phạm là: (i) không đúng với đối tượng được giao đất; (ii) nội dung của các Quyết định giao đất thể hiện bà C được nhận thừa kế là trái thực tế; (iii) căn cứ để ban hành các Quyết định giao đất cho cá nhân bà C là Văn bản thỏa thuận được lập trái pháp luật. Vì vậy, UBND thành phố P ban hành Quyết định số 3783/QĐ-UBND ngày 22/5/2018 về việc hủy bỏ 05 Quyết định giao đất cho bà C là đúng pháp luật.

Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Kim C về việc yêu cầu hủy Quyết định số 3783/QĐ-UBND ngày 22/5/2018 của UBND thành phố P là đúng. Tòa án cấp phúc thẩm tuyên chấp nhận kháng cáo của người khởi kiện tuyên hủy bỏ Quyết định số 3783/QĐ-UBND ngày 22/5/2018 của UBND thành phố P là không có căn cứ và không đúng pháp luật.

Sau khi Bản án hành chính phúc thẩm số 436/2019/HC-PT ngày 10/7/2019 của TAND cấp cao tại thành phố HC có hiệu lực pháp luật, bà Nguyễn Thị Kim M có đơn đề nghị xem xét kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. Ngày 20/02/2020, Viện trưởng VKSND tối cao đã ban hành Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 01/2020/KN-HC đối với Bản án hành chính phúc thẩm số 436/2019/HC-PT ngày 10/7/2019 của TAND cấp cao tại thành phố HC đề nghị Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao xét xử giám đốc thẩm, hủy toàn bộ Bản án hành chính phúc thẩm số 436/2019/HC-PT ngày 10/7/2019 của TAND cấp cao tại thành phố HC và giữ nguyên Bản án hành chính sơ thẩm số 29/2018/HC-ST ngày 23/10/2018 của TAND tỉnh B.

Ngày 15/7/2020, Hội đồng toàn thể Thẩm phán TAND tối cao đã đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm. Sau khi xét xử, Hội đồng toàn thể Thẩm phán TAND tối cao đã chấp nhận toàn bộ Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm của Viện trưởng VKSND tối cao, hủy toàn bộ Bản án hành chính phúc thẩm số 436/2019/HC-PT ngày 10/7/2019 của TAND cấp cao tại thành phố HC và giữ nguyên Bản án hành chính sơ thẩm số 29/2018/HC-ST ngày 23/10/2018 của TAND tỉnh B.

LSO

/tron-thue-se-bi-phat-tien-tu-1-3-lan-so-thue-tron.html