Ngày 27/3/2021, Văn phòng Chính phủ có Công văn số 2080/VPCP-V.I gửi Tòa án nhân dân Tối cao (TANDTC) về việc giải quyết đơn kiến nghị của Công ty Cổ phần Đầu tư ATS.
Trong công văn nêu rõ, Công ty Cổ phần đầu tư ATS (tầng 8, toà nhà ATS, 252 Hoàng Quốc Việt, phường Cổ Nhuế 1, quận Bắc Từ Liêm, TP. Hà Nội) có đơn gửi Thủ tướng Chính phủ phản ánh kiến nghị một số nội dung liên quan đến Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 04/2021/KN-HC ngày 09/02/2021 của TANDTC đối với Bản án hành chính phúc thẩm số 148/2019/HC-PT ngày 30/8/2019 của TAND Cấp cao tại Đà Nẵng.
Thực hiện Quy chế phối hợp công tác giữa Chính phủ với TANDTC, Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao (VKSNDTC), Văn phòng Chính phủ chuyển đơn của Công ty Cổ phần đầu tư ATS đến TANDTC để xem xét, giải quyết theo quy định.
Liên quan đến vụ Công ty Cổ phần đầu tư ATS (Công ty ATS) kiện Ngân hàng Thương mại Cổ phần Việt Nam Thịnh Vượng (VPBank), vừa qua đại diện Công ty ATS đã gửi đơn thư đến các cơ quan chức năng và cơ quan báo chí để kêu cứu.
Theo đó, năm 2011, Công ty ATS thế chấp 08 tài sản và Công ty Tập đoàn Tư vấn đầu tư tài chính và Bất động sản Quảng Đại thế chấp 01 tài sản cho Ngân hàng VPBank để đảm bảo cho khoản vay của 04 Hợp đồng tín dụng tại VPBank với tổng số tiền vay là 796.210.224.046 đồng. Trong các tài sản thế chấp có quyền sử dụng diện tích 62.539,8m2 đất tại thửa số 2, tờ bản đồ số 95, phường Khuê Mỹ, quận Ngũ Hành Sơn, TP. Đà Nẵng đã được UBND quận Ngũ Hành Sơn cấp Giấy CNQSDĐ số AM607502 ngày 23/9/2009 tại Văn phòng Đăng ký đất đai thành phố Đà Nẵng. Ngoài ra, giữa VPBank và Công ty ATS còn ký kết 01 hợp đồng đặt cọc mua bán tài sản, 01 Hợp đồng cho thuê văn phòng.
Ngày 11/01/2013, VPBank khởi kiện vụ án kinh doanh thương mại đối với Công ty ATS tại TAND quận Ba Đình, TP. Hà Nội để giải quyết tranh chấp đối với 06 hợp đồng nêu trên.
Ngày 26/3/2013, Công ty ATS và VPBank ký văn bản thỏa thuận về việc chuyển nhượng tài sản để cấn trừ nợ. Theo đó, VPBank giảm một phần tiền lãi, tiền phạt cho 06 hợp đồng nêu trên và Công ty ATS sẽ chuyển nhượng 08/09 tài sản thế chấp để cấn trừ nợ tổng số tiền 1.461.754.235.760 đồng (bao gồm cả gốc lẫn lãi). Trong đó, có tài sản là khu đất 6,25ha tại Đà Nẵng.
Sau đó, Công ty ATS đã ký các hợp đồng chuyển nhượng tài sản thế chấp cho VPBank, trong đó có Hợp đồng ngày 04/6/2013 chuyển nhượng quyền sử dụng đất của khu đất 6,25ha tại TP. Đà Nẵng. Ngày 11/6/2013, TAND quận Ba Đình ban hành Quyết định số 05/2013/QĐST-KDTM về việc công nhận sự thoả thuận của các đương sự.
Ngày 11/6/2013, TAND quận Ba Đình ban hành Quyết định số 05/2013/QĐST-KDTM về việc công nhận sự thoả thuận của các đương sự: Công ty ATS xác nhận còn nợ VPBank các khoản tiền theo 04 Hợp đồng tín dụng có tổng giá trị là 1.528.886.167.897 đồng; trong đó VPBank đồng ý miễn giảm cho Công ty ATS số tiền lãi 67.131.932.137 đồng. Tuy nhiên, các con số này không có trong hồ sơ được thiết lập giữa Công ty ATS và VPBank, tổng toàn bộ nghĩa vụ nợ của ATS và Quảng Đại là 1.461.754.235.760 đồng. Như vậy, theo thỏa thuận thì Công ty ATS thanh toán cho VPBank tổng số tiền 1.461.754.235.760 đồng cho 06 hợp đồng nhưng trong Quyết định chỉ liệt kê chỉ có 04 hợp đồng.
Do vậy, công ty ATS không đồng ý thực hiện bàn giao, nộp thuế, ký đăng ký sang tên các tài sản thế chấp cho VPBank nữa và đã gửi đơn đề nghị kháng nghị đối với Quyết định số 05/2013/QĐST-KDTM của TAND quận Ba Đình. Đồng thời, Công ty ATS đã gửi đơn đến các Sở, ban, ngành TP. Đà Nẵng… đề nghị ngăn chặn, dừng không thực hiện việc đăng ký sang tên khu đất 6,25ha tại Đà Nẵng cho VPBank. Thế nhưng, theo Công ty ATS thì họ không nhận được bất cứ phản hồi nào thời gian sau đó.
Tuy nhiên, ngày 07/12/2016, Công ty ATS nhận được văn bản phúc đáp của Văn phòng Đăng ký đất đai TP. Đà Nẵng thì được biết khu đất 6,25ha đã được sang tên cho VPBank.
Ngày 12/7/2017, VPBank chuyển nhượng khu đất này vợ chồng ông Ngô Trọng Hiếu (SN 1984) và bà Nguyễn Thị Hải Yến (SN 1986) với giá 480 tỉ đồng. Đúng 4 tháng 5 ngày sau, ông bà Hiếu - Yến tiếp tục chuyển nhượng cho Công ty Hai Hạnh với giá 920 tỉ đồng. Sau đó không lâu, Công ty Hai Hạnh dùng 23.018m2 của khu đất tách thành 18 thửa, số diện tích còn lại là 35.521,8m2 tiếp tục được đăng ký biến động vào ngày 24/12/2017.
Do đó, Công ty ATS khởi kiện cho rằng Văn phòng Đăng ký đất đai (VPĐKĐĐ) TP. Đà Nẵng căn cứ bộ hồ sơ VPBank tự lập, không có chữ ký đồng ý của Công ty Công ty ATS để đăng ký biến động tài sản của Công ty ATS sang tên VPBank là không đúng trình tự, thủ tục pháp luật quy định; trái nội dung Quyết công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 05/2013/QĐST-KDTM ngày 11/6/2013 của TAND quận Ba Đình, xâm phạm nghiêm trọng quyền và lợi ích hợp pháp của Công ty ATS, yêu cầu Tòa án giải quyết hủy đăng ký chỉnh lý biển động do VPĐKĐĐ TP. Đà Nẵng thực hiện ngày 20/03/2015 sang tên cho VPBank quyền sử dụng thửa đất số 02, tờ bản đồ số 95, phường Khuê Mỹ, quận Ngũ Hành Sơn, TP. Đà Nẵng tại trang sau của Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) số AM607502 do UBND quận Ngũ Hành Sơn cấp ngày 23/9/2009.
Kết thúc phiên tòa sơ thẩm, TAND TP. Đà Nẵng quyết định không chấp nhận khởi kiện của Công ty ATS về việc yêu cầu huỷ phần chỉnh lý biến động ngày 20/3/2015 tại GCNQSDĐ và quyền sở hữu nhà ở do VPĐKĐĐ TP. Đà Nẵng cấp tại số 2, tờ bản đồ số 95, phường Khuê Mỹ, quận Ngũ Hành Sơn (sang tên khu đất 6,25ha của ATS sang cho VPBank); chấp nhận yêu cầu độc lập của ông Ngô Trọng Hiếu và bà Nguyễn Thị Hải Yến về việc công nhận giá trị pháp lý Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 1925/2017 với VPBank và công nhận pháp lý của chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 5932/2017 giữa ông Hiếu, bà Yến với Công ty Hai Hạnh.
Ngày 30/8/2019, TAND Cấp cao tại Đà Nẵng tiếp tục mở phiên toà xét xử phúc thẩm theo kháng cáo của Công ty ATS đối với Bản án hành chính sơ thẩm số 01/2019/HC-ST ngày 18/3/2019.
Tại phiên tòa phúc thẩm, Công ty ATS bổ sung yêu cầu kháng cáo là hiện nay do thửa đất số 2, tờ bản đồ số 95, phường Khuê Mỹ, quận Ngũ Hành Sơn, TP. Đà Nẵng sau khi VPĐKĐĐ TP. Đà Nẵng chỉnh lý biến động sang tên VPBank thì VPBank đã chuyển nhượng cho vợ chồng ông Ngô Trọng Hiếu, bà Nguyễn Thị Hải Yến; vợ chồng ông Hiếu, bà Yến đã chuyển nhượng lại cho Công ty Hai Hạnh; Công ty Hai Hạnh đã chia lô, bán nền cho nhiều người và tất cả các lần chuyển nhượng sau này đều đã được cấp GCNQSDĐ. Do đó, Công ty ATS đề nghị nếu trường hợp HĐXX phúc thẩm xét việc VPĐKĐĐ TP. Đà Nẵng chỉnh lý sang tên tài sản cho VPBank không đúng trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật; nhưng vì quyền lợi hợp pháp của người thứ ba ngay tình mà không tuyên hủy phần đăng ký, biến động sang tên thì phải nhận định rõ sai phạm của VPBank cũng như VPĐKĐĐ TP. Đà Nẵng để Công ty ATS khởi kiện yêu cầu bồi thường theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.
TAND Cấp cao tại Đà Nẵng nhận định: “… Xét kháng cáo bổ sung của Công ty ATS không vượt quá phạm vi kháng cáo ban đầu vì nếu căn cứ theo quy định của pháp luật phải hủy đăng ký biến động sang tên quyền sử dụng thửa đất số 02, bản đồ số 95, phường Khuê Mỹ, quận Ngũ Hành Sơn cho VPBank thì Công ty ATS sẽ được khôi phục ngay quyền sử dụng thửa đất này. Do đó, HĐXX chấp nhận kháng cáo bổ sung của Công ty ATS không hủy đăng ký chỉnh lý biến động sang tên VPBank ngày 20/3/2015 trên GCNQSDĐ số AM607502 của Công ty ATS, xác định Công ty ATS có quyền khởi kiện theo thủ tục tố tụng dân sự yêu cầu VPBank bồi thường thiệt hại vì giao dịch dân sự (do VPBank chủ động, tích cực tiến hành sang tên VPBank quyền sử dụng thửa đất số 02, bản đồ số 95, phường Khuê Mỹ, quận Ngũ Hành Sơn trái thỏa thuận của hai bên đã được TAND quận Ba Đình công nhận tại Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 05/2013/QĐST-KDTM ngày 11/6/2013) vô hiệu (do căn cứ quy định tại khoản 5 Điều 87 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ và Điều 133 Bộ luật Dân sự 2015, Hội đồng xét xử không tuyên hủy đăng ký chỉnh lý biến động sang tên VPBank ngày 20/3/2015 trên GCNQSDĐ số AM 607502 nên vấn đề này không cần đặt ra); và yêu cầu xem xét trách nhiệm của VPĐKĐĐ TP. Đà Nẵng theo quy định tại Điều 206, 207 Luật Đất đai 2013, được hướng dẫn tại khoản 5 Điều 87 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ, nhưng vì đây là vụ án hành chính nên Hội đồng xét xử phúc thẩm không tuyên bố về quyền khởi kiện của Công ty ATS trong phần quyết định của bản án này".
Tuy nhiên, ngày 09/02/2021 TANDTC đã ban hành Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 04/2021/KN-HC đối với Bản án hành chính phúc thẩm số 148/2019/HC-PT, ngày 30/08/2019 của TAND Cấp cao tại Đà Nẵng. Tại Quyết định kháng nghị Giám đốc Thẩm này, TANDTC cho rằng, yêu cầu bổ sung đơn kháng cáo của Công ty ATS là vượt quá phạm vi khởi kiện, văn bản nêu rõ: "Sau khi xét xử sơ thẩm, Công ty ATS có đơn kháng cáo yêu cầu sửa bản án sơ thẩm, tuyên hủy đăng ký chỉnh lý biến động tên VPBank trên GCNQSDĐ, đình chỉ giải quyết yêu cầu độc lập của ông Ngô Trọng Hiếu, bà Nguyễn Thị Hải Yến và Công ty Cổ phần Thương mại - Dịch vụ Hai Hạnh. Tại phiên Tòa phúc thẩm, Công ty ATS bổ sung yêu cầu kháng cáo là nếu HĐXX xét thấy việc VPĐKĐĐ TP. Đà Nẵng chỉnh lý sang tên tài sản cho VPBank không đúng trình tự thủ tục theo quy định của pháp luật, nhưng vì quyền lợi của người thứ ba ngay tình mà không hủy đăng ký biến động sang tên thì phải nhận định rõ sai phạm của VPBank cũng như VPĐKĐĐ TP. Đà Nẵng để Công ty ATS khởi kiện yên cầu bồi thường theo quy định pháp luật dân sự. Yêu cầu kháng cáo bổ sung này của Công ty ATS làm phát sinh quan hệ pháp luật khác của VPBank vượt quá phạm vi kháng cáo ban đầu nên theo quy định tại khoản 2, Điều 218 và Điều 220 Luật Tố tụng hành chính thì Tòa án cấp phúc thẩm không có thẩm quyền xem xét".
Khoản 5 Điều 87 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP, ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định về thủ tục thu hồi Giấy chứng nhận, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, Giấy chứng nhận quyền sở hữu công trình xây dựng đã cấp. Theo đó, Nhà nước không thu hồi Giấy chứng nhận đã cấp trái pháp luật trong các trường hợp quy định tại Điểm d Khoản 2 Điều 106 của Luật Đất đai nếu người được cấp Giấy chứng nhận đã thực hiện thủ tục chuyển đổi, chuyển nhượng quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất hoặc chuyển mục đích sử dụng đất và đã được giải quyết theo quy định của pháp luật. |
Đánh giá về việc này, Luật sư Hoàng Tùng, Đoàn Luật sư TP. Hà Nội nhận định, Điều 284 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 sửa đổi 2017 quy định về việc bổ sung kháng cáo:
“Điều 284. Thay đổi, bổ sung, rút kháng cáo, kháng nghị:
1. Trường hợp chưa hết thời hạn kháng cáo theo quy định tại Điều 273 của Bộ luật này thì người đã kháng cáo có quyền thay đổi, bổ sung kháng cáo mà không bị giới hạn bởi phạm vi kháng cáo ban đầu…
2. Trước khi bắt đầu phiên tòa hoặc tại phiên tòa phúc thẩm, người kháng cáo có quyền thay đổi, bổ sung kháng cáo, Viện kiểm sát đã kháng nghị có quyền thay đổi, bổ sung kháng nghị, nhưng không được vượt quá phạm vi kháng cáo, kháng nghị ban đầu, nếu thời hạn kháng cáo, kháng nghị đã hết.
… 4. Việc thay đổi, bổ sung, rút kháng cáo, kháng nghị trước khi mở phiên tòa phải được lập thành văn bản và gửi cho Tòa án cấp phúc thẩm. Tòa án cấp phúc thẩm phải thông báo cho các đương sự về việc thay đổi, bổ sung, rút kháng cáo, kháng nghị, thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp về việc thay đổi, bổ sung, rút kháng cáo.
Việc thay đổi, bổ sung, rút kháng cáo, kháng nghị tại phiên tòa phải được ghi vào biên bản phiên tòa”.
Nghị quyết số 06/2012/NĐ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao quy định về bổ sung kháng cáo:
“Điều 11. Thay đổi, bổ sung, rút kháng cáo, kháng nghị quy định tại Điều 256 của BLTTDS (nay là Điều 284).
1. Về việc thay đổi, bổ sung kháng cáo, kháng nghị cần phân biệt như sau:
a) Trường hợp vẫn còn thời hạn kháng cáo, kháng nghị quy định tại Điều 245 và Điều 252 của BLTTDS (nay là Điều 273 và Điều 280), thì người kháng cáo, Viện kiểm sát đã kháng nghị có quyền thay đổi, bổ sung nội dung kháng cáo, kháng nghị đối với phần bản án hoặc toàn bộ bản án mà mình có quyền kháng cáo, kháng nghị.
Trường hợp người kháng cáo, Viện kiểm sát đã rút một phần hoặc toàn bộ kháng cáo, kháng nghị nhưng sau đó có kháng cáo, kháng nghị lại mà vẫn còn trong thời hạn kháng cáo, kháng nghị, thì vẫn được chấp nhận để xét xử phúc thẩm theo thủ tục chung.
b) Trường hợp đã hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị theo quy định tại Điều 245 và Điều 252 của BLTTDS (nay là Điều 273 và Điều 280), thì trước khi bắt đầu phiên toà hoặc tại phiên toà phúc thẩm người kháng cáo, Viện kiểm sát đã kháng nghị có quyền thay đổi, bổ sung kháng cáo, kháng nghị nhưng không được vượt quá phạm vi kháng cáo, kháng nghị đã gửi cho Toà án trong thời hạn kháng cáo, kháng nghị”.
Tuy nhiên, Luật sư Tùng cho biết, hiện nay chưa có văn bản nào định nghĩa cụ thể thế nào là vượt quá phạm vi kháng cáo ban đầu. Tuy nhiên, có thể hiểu vượt quá phạm vi kháng cáo ban đầu là vượt quá phạm vi các quan hệ pháp luật đã được giải quyết ở Tòa án cấp sơ thẩm hay vượt quá phạm vi giá trị các yêu cầu cụ thể đã được nêu trong kháng cáo ban đầu.
Trong trường hợp của Công ty ATS, Luật sư đồng tình với nhận định “kháng cáo bổ sung của Công ty ATS không vượt quá phạm vi kháng cáo ban đầu” của Tòa án. Bởi lẽ, kháng cáo ban đầu của Công ty ATS là hủy phần chỉnh lý biến động ngày 20/3/2015 tại GCNQSDĐ và quyền sở hữu nhà ở do VPĐKĐĐ TP. Đà Nẵng cấp tại số 2, tờ bản đồ số 95, phường Khuê Mỹ, quận Ngũ Hành Sơn (sang tên khu đất 6,25ha của ATS sang cho VPBank). Kháng cáo bổ sung của Công ty ATS là: Đề nghị nếu trường hợp HĐXX phúc thẩm xét việc VPĐKĐĐ TP. Đà Nẵng chỉnh lý sang tên tài sản cho VPBank không đúng trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật; nhưng vì quyền lợi hợp pháp của người thứ ba ngay tình mà không tuyên hủy phần đăng ký, biến động sang tên thì phải nhận định rõ sai phạm của VPBank cũng như VPĐKĐĐ TP. Đà Nẵng để Công ty ATS khởi kiện yêu cầu bồi thường theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.
Có thể thấy, kháng cáo bổ sung của Công ty ATS vẫn trong phạm vi quan hệ pháp luật đã được giải quyết ở Tòa án cấp sơ thẩm, đó là hủy phần chỉnh lý biến động sang tên quyền sử dụng thửa đất số 02, bản đồ số 95, phường Khuê Mỹ, quận Ngũ Hành Sơn. Việc TAND Cấp cao tại Đà Nẵng xác định Công ty ATS có quyền khởi kiện theo thủ tục tố tụng dân sự yêu cầu VPBank bồi thường thiệt hại vì giao dịch dân sự vô hiệu hoàn toàn phù hợp với quy định tại khoản 3, Điều 133 Bộ luật Dân sự 2015 là: “Chủ sở hữu không có quyền đòi lại tài sản từ người thứ ba ngay tình, nếu giao dịch dân sự với người này không bị vô hiệu theo quy định tại khoản 2 Điều này nhưng có quyền khởi kiện, yêu cầu chủ thể có lỗi dẫn đến việc giao dịch được xác lập với người thứ ba phải hoàn trả những chi phí hợp lý và bồi thường thiệt hại.
“Việc HĐXX phúc phẩm chấp nhận yêu cầu bổ sung kháng cáo của Công ty ATS và xác định Công ty ATS có quyền khởi kiện theo thủ tục tố tụng dân sự yêu cầu VPBank bồi thường thiệt hại vì giao dịch dân sự giữa Công ty ATS và VPBank vô hiệu là hoàn toàn có căn cứ, đúng pháp luật, không vượt quá phạm vi khởi kiện”, Luật sư Tùng nhận định.
PV