/ Dọc đường tố tụng
/ Vụ hủy hoại rừng ở Krông Pa: Luật sư chỉ rõ 5 vi phạm nghiêm trọng các thủ tục tố tụng

Vụ hủy hoại rừng ở Krông Pa: Luật sư chỉ rõ 5 vi phạm nghiêm trọng các thủ tục tố tụng

17/07/2025 12:20 |

(LSVN) - Ngày 14/7/2025, TAND tỉnh Gia Lai đã đưa vụ án hủy hoại rừng xảy ra vào tháng 10/2018 tại xã Chư Drăng ra xét xử phúc thẩm. Tại phiên tòa, các luật sư đã cung cấp thêm các tài liệu chứng cứ và viện dẫn các quy định của pháp luật để chứng minh cơ quan tố tụng đã vi phạm nghiêm trọng các thủ tục tố tụng. HĐXX cũng đã nhận định, vụ án có nhiều tình tiết phức tạp cần nghị án kéo dài.

Trả lời phỏng vấn của phóng viên ngay sau khi phiên tòa kết thúc, Luật sư Ngô Thanh Quảng nêu quan điểm, mặc dù vi phạm thủ tục tố tụng đã được chỉ rõ tại phiên tòa, nhưng nếu như HĐXX cấp phúc thẩm quyết định giữ nguyên bản án sơ thẩm, thì mặc nhiên đã hợp thức hóa các vi phạm về thủ tục tố tụng của cấp sơ thẩm và có lẽ công lý và pháp quyền còn rất xa vời với thực tế.

PV: Quan điểm của luật sư về việc HĐXX quyết định nghị án kéo dài...?

Luật sư Ngô Thanh Quảng: Quyết định nghị án kéo dài của HĐXX không chỉ thể hiện sự cẩn trọng mà còn khẳng định vụ án có nhiều tình tiết phức tạp như HĐXX đã nhận định. Tại phiên tòa, các luật sư cũng đã cung cấp thêm các chứng cứ thể hiện cơ quan tố tụng đã vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong việc thu thập chứng cứ và sử dụng chứng cứ buộc tội và đã đề nghị HĐXX cho ngừng phiên tòa để triệu tập thêm một số tổ chức, cá nhân có liên quan đến phiên tòa nhằm làm sáng tỏ các tình tiết, chứng cứ còn gây tranh cãi. Luật sư Đào Thanh Tuấn thì đề nghị HĐXX hủy án để điều tra, giải quyết lại tránh tạo hệ lụy, gây oan sai.

PV: Luật sư có thể phân tích rõ hơn về các vi phạm tố tụng trong vụ án này...?

Luật sư Ngô Thanh Quảng: Vi phạm thủ tục tố tụng là hành vi không tuân thủ các quy định về trình tự, thủ tục, thời hạn, thẩm quyền và các hoạt động khác mà BLTTHS quy định cơ quan, người tiến hành tố tụng phải thực hiện trong quá trình giải quyết vụ án. Các vi phạm này có thể xảy ra ở mọi giai đoạn của tố tụng, từ khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử đến thi hành án. Tham chiếu các quy định của pháp luật tố tụng và Hướng dẫn 34/HD-VKSTC ban hành ngày 29/11/2022 của VKSNTC có thể khẳng định vi phạm thủ tục tố tụng trong vụ án này đã xảy ra trong giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử sơ thẩm gồm các vi phạm sau:

Thứ nhất, vi phạm khi thu thập chứng cứ không hợp pháp, không khách quan, trái quy định của pháp luật

Ngày 11/12/2018, Hạt Kiểm lâm huyện Krông Pa ban hành Quyết định khởi tố vụ án hình sự số 01/QĐ-KTVAHS  về hành vi hủy hoại rừng xảy ra tại: Lô 3, Khoảnh 3, Tiểu khu 1396, xã Chư Đrăng, huyện Krông Pa (cũ). Căn cứ để khởi tố là từ 02 biên bản vi phạm được lập không đúng theo quy định của pháp luật vì không có chữ ký của người vi phạm, lập không đúng thực trạng tại hiện trường. Nội dung này đã được làm rõ tại các phiên tòa trước được bị cáo Khoa và Tuyển trình bày trước HĐXX xét xử phúc thẩm. Ngoài ra, Hạt kiểm lâm và Ban QLRPH Nam Sông Ba lại tự nhận định 03 ha bị tác động là đất rừng theo bản đồ quy hoạch 03 loại rừng được HĐND tỉnh Gia Lai thông qua tại Nghị quyết số 100/NQ-HĐND ngày 07/12/2017 trái với nội dung tại Quyết định số 72/QĐ-UBND ngày 13/02/2018 của UBND tỉnh “Khoảnh 1,3 Tiểu khu 1396 không thuộc quy hoạch đất lâm nghiệp”. (Quyết định số 72 được ban hành sau khi Nghị quyết 100 được thông qua).

Quá trình điều tra đã không trưng cầu giám định tư pháp về lâm nghiệp để giám định khu vực bị tác động mà lại dùng kết quả khám nghiệm hiện trường, tự nhận định về trạng thái rừng, tự xác định thiệt hai khi lập ô tiêu chuẩn trái với các quy định của pháp luật, để làm tài liệu trưng cầu HĐĐG tài sản, từ đó lấy kết quả định giá của HĐĐG tài sản trong tố tụng hình sự huyện Krông Pa làm căn cứ quy trách nhiệm dân sự dẫn đến sai lệch bản chất của vụ việc. Bên cạnh đó, HĐĐG tính toán thiệt hại dựa trên các tài liệu thu thập không những không đúng với thực tế mà còn trái với các quy định tại Nghị định 30/2018/NĐ-CP và Thông tư 43/2018/TT- BTC quy định và hướng dẫn về định giá. Kết luận định giá số 31/KL-ĐGTS ngày 01/8/2019 không thõa mãn các quy định của pháp luật về định giá tài sản, nhất là định giá thiệt hại về môi trường rừng, do vậy không thể coi là một chứng cứ để sử dụng khi xử lý vụ án được quy định tại Điều 101 BLTTHS quy định về Kết luận định giá. 

Thứ hai, sử dụng và đánh giá chứng cứ không chính xác

Như đã phân tích nêu trên, việc sử dụng kết quả khám nghiệm hiện trường đặc biệt là việc lập ô tiêu chuẩn do các cán bộ Ban QLRPH thực hiện không có căn cứ pháp lý khi xác định trạng thái rừng tại khu vực bị tác đọng, dẫn đến việc sử dụng, đánh giá chứng cứ không theo đúng bản chất của vụ án. Sai lầm này đã được Sở NN&PTNT tỉnh Gia Lai (cũ) trả lời cho Cơ quan CSĐT tại Văn bản số 341/SNNPTNT-CCKL ngày 25/02/2019 với nội dung, không có cơ sở để tính toán thiệt hại và để xác định được trạng thái rừng thì phải thì cần đo đếm các chỉ tiêu trên thực tế, hiện trạng khu vực bị phá. Tuy nhiên các cơ quan tố tụng đã bỏ qua ý kiến của Sở NN&PTNT tại Văn bản 341 dẫn đến việc đánh giá không đúng tính chất trạng thái khu vực tác động và cơ sở để tính toán thiệt hại.

Ngày13/02/2018, UBND tỉnh Gia Lai ban hành Quyết định số 72/QĐ-UBND, phê duyệt chủ trương đầu tư Dự án trồng rừng sản xuất tại xã Chư Drăng, các căn cứ để UBND tỉnh ban hành Quyết định số 72 là Quyết định số 53/QĐ-UBND ngày 04/02/2008 của UBND tỉnh Gia Lai phê duyệt quy hoạch 3 loại rừng tỉnh Gia Lai và các kết quả tổ chức khảo sát, đo đạc, lập bản đồ hiện trạng và đánh giá sự phù hợp quy hoạch của các sở ngành liên quan. Kết quả khảo sát đã xác định hiện trạng đất như sau: đất trống chưa có rừng (822,70 ha); đất trồng cây lâu năm 1,21 ha; đất trồng cây hàng năm 17,30 ha; đất giao thông 6,21 ha; đất sông suối 12,07 ha. “Khoảnh 8, 9, Tiểu khu 1395; Khoảnh 1,3 Tiểu khu 1396 không thuộc quy hoạch đất lâm nghiệp” và không có bất cứ vị trí nào được xác định là rừng.

Tuy nhiên, cơ quan tố tụng lại cho rằng Quyết định số 72 không phải là cơ sở pháp lý để Công ty Phúc Phong được quyền quản lý và diện tích 3 ha không phải là đất trống mà là rừng do có nhiều cây đã tái sinh do Ban QLRPH Nam Sông Ba quản lý mặc dù chính Ban QLRPH Nam Sông Ba đã lập biên bản bàn giao cho Công ty Phúc Phong tổ chức phát dọn thực bì. Cơ quan tố tụng mặc nhiên cũng không công nhận tính pháp lý của tấm bản đồ hiện trạng do Công ty Nhật Tuấn lập có xác nhận của 6 Sở, ngành (bản đồ này là một trong những tài liệu được làm căn cứ để UBND tỉnh ban hành Quyết định số 72/QĐ-UBND ngày 13/02/2018 và Ban QLRPH bàn giao thực địa cho Công ty Phúc Phong) và phủ định cả giá trị pháp lý của Quyết định 72/QĐ-UBND ngày 13/02/2018 vốn là quyết định cao nhất và quyết định cuối cùng trong chuỗi thủ tục hành chính về đầu tư.

Thứ ba, vi phạm nghiêm trọng khi viện dẫn và áp dụng văn bản trái luật

Các cơ quan tố tụng và Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ vào Quyết định số 693/QĐ-UBND ngày 3/12/2014 của UBND tỉnh Gia Lai phê duyệt kết quả kiểm kê rừng Nghị quyết 100/NQ-HĐND tỉnh Gia Lai (kèm bản đồ quy hoạch 03 loại rừng) để là cơ sở xác định 03 ha đất (trong tổng số 859,49 ha đất được giao cho Dự án) là rừng để truy tố và kết tội các bị cáo. Trong suốt quá trình giải quyết vụ án, các cơ quan tố tụng và ngay tại các phiên tòa Ban QLRPH và Kiểm lâm cũng khẳng định Nghị quyết 100 là văn bản quy phạm pháp luật và có hiệu lực thực thi ngay khi ban hành. Các luật sư đã nhiều lần viện dẫn Luật Ban hành quy phạm pháp luật; Luật Bảo vệ và Phát triển rừng… để chứng minh Nghị quyết 100 không phải là văn bản quy phạm pháp luật và UBND tỉnh chưa ban hành quyết định phê duyệt theo thẩm quyền để triển khai trong thực tế, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm vẫn nhận định là văn bản quy phạm pháp luật (thể hiện rõ tại bản án).

Tại phiên tòa, tôi đã cung cấp cho HĐXX Văn bản số 23 ngày 11/03/2025 của Cục Kiểm tra và Quản lý xử lý vi phạm hành chính, Bộ Tư pháp để chứng minh Nghị quyết 100 không chứa quy phạm pháp luật. Do vậy việc sử dụng Nghị quyết 100 để làm căn cứ pháp lý buộc tội các bị cáo là trái với các quy định của pháp luật và không được coi là một chứng cứ để giải quyết vụ án.

Còn Quyết định số 693/QĐ-UBND ngày 3/12/2014 của UBND tỉnh Gia Lai phê duyệt kết quả kiểm kê rừng là văn bản phục vụ công tác quản lý rừng, được ban hành trước khi Công ty Phúc Phong lập hồ sơ đề nghị thực hiện dự án và trước khi cơ quan chức năng thẩm định dự án để trình UBND tỉnh Gia Lai ban hành Quyết định số 72/QĐ-UBND ngày 13/02/2018 chấp thuận chủ trương đầu tư.

Thứ tư, trong quá trình giải quyết vụ án, cơ quan tố tụng đã không tham khảo ý kiến của UBND tỉnh Gia Lai về việc triển khai thực hiện Nghị quyết 100 cũng như không triệu tập thêm cơ quan chuyên môn tham gia tố tụng

Trong vụ án này có 02 căn cứ mà cơ quan tố tụng đã sử dụng để truy tố và buộc tội các bị cáo đó là Nghị quyết 100 của HĐND tỉnh và Kết luận định giá tài sản số 31/KL-ĐGTS của HĐĐG huyện Krông Pa. Như đã phân tích nêu trên, cả hai căn cứ này đều không thỏa mãn các quy định của pháp luật và không được coi là chứng cứ để giải quyết vụ án theo quy định tại Điều 87 BLTTHS. Tuy nhiên các cơ quan tố tụng đã không tham khảo ý kiến của UBND tỉnh để làm rõ về việc triển khai thực hiện Nghị quyết 100  cũng như quyền lợi và trách nhiệm của Công ty Phúc Phong tại quyết định chấp thuận chủ trương đầu tư (Quyết định số 72/QĐ-UBND). Các cơ quan tố tụng cũng không triệu tập thành viên HĐĐG đến tham gia phiên tòa để làm rõ căn cứ pháp lý mà HĐĐG sử dụng và cơ sở khoa học để xác định thiệt hại môi trường rừng.

Ngoài ra, Sở NN&PTNT là cơ quan chuyên môn cao nhất tại tỉnh Gia Lai có thẩm quyền và có chuyên môn để xác định trạng thái khu vực bị tác động, tính pháp lý của tấm bản đồ hiện trạng, quy trình thực hiện việc lập ô tiêu chuẩn để xác định trạng thái rừng... cũng không được các cơ quan tố tụng triệu tập tham gia tố tụng để minh bạch những tranh cãi về khu vực bị tác động có phải là rưng. Đây là những những vi phạm rất nghiêm trọng của cơ quan tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án.

Thứ năm, vi phạm trong việc thu giữ tài liệu của doanh nghiệp

Cơ quan điều tra đã thu giữ toàn bộ tài liệu pháp lý của Công ty Phúc Phong Gia Lai (tài liệu gốc) trong khi những tài liệu này là tài sản của doanh nghiệp, phục vụ cho công tác quản lý, điều hành doanh nghiệp; phục vụ cho công tác thanh tra, kiểm tra của cơ quan nhà nước đối với doanh nghiệp. Những giấy tờ, tài liệu này không phải là tài liệu, chứng cứ để đưa vào hồ sơ vụ án. Do đó, việc thu giữ và đưa vào hồ sơ vụ án những tài liệu này là trái với quy định pháp luật và xâm phạm vào hoạt động hợp pháp của doanh nghiệp.

Tại phiên tòa phúc thẩm, HĐXX cũng đã nhận định vụ án có nhiều tình tiết phức tạp, luật sư có thể tóm lược lại các tình tiết cốt lỗi cần được giải quyết.

Từ các chứng cứ, hồ sơ tài liệu và diễn biến tranh tụng tại phiên tòa có thể khẳng định chưa có bất kỳ một tài liệu văn bản pháp lý nào để chứng minh khu vực 03 ha các bị cáo thuê nhân công phát dọn thực bì là đất rừng. Đồng thời, Nghị quyết số 100/NQ-HĐND mà cơ quan tố tụng đã viện dẫn để truy tố các bị cáo không phải văn bản quy phạm pháp luật như các cơ quan tố tụng đã nhận định, ghi rõ tại bản án sơ thẩm bởi cơ quan có chức năng và thẩm quyền cao nhất trong việc kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật là Cục Kiểm tra và Quản lý xử lý vi phạm hành chính, Bộ Tư pháp đã nêu rất rõ “Nghị Quyết số 100/NQ-HĐND ngày 07/12/2017 của HĐND tỉnh Gia Lai là văn bản hành chính cá biệt, không chứa quy phạm pháp luật”. (đến ngày 23/8/2021 UBND tỉnh Gia Lai mới ban hành quyết định phê duyệt để thực thi (Quyết định số 527/QĐ-UBND ngày 23/8/2021 của UBND tỉnh phê duyệt Nghị quyết số 100/NQ-HĐND ngày 7/12/2017 và Nghị quyết số 45/NQ-HĐND ngày 10/8/2021 điều chỉnh Nghị quyết số 100).

Còn Kết luận định giá tài sản số 31 được định giá trái với các quy định tại Nghị định số 30/2018/NĐ-CP và Thông tư 43/2018/TT–BTC, đặc biệt là không có cơ sở khoa học, chuyên môn để định giá thiệt hại về môi trường. Do vậy không được sử dụng làm chứng cứ để giải quyết vụ án theo quy định tại Điều 101 BLTTHS. Cả 02 chứng cứ buộc tội này (Nghị quyết 100 và Kết luận định giá số 31) không đảm bảo giá trị pháp lý và không được sử dụng làm chứng cứ để truy tố và kết tội các bị cáo theo quy định tại Điều 87 BLTTHS.

PV: Vậy theo Luật sư, sau khi nghị án kéo dài, HĐXX cấp phúc thẩm TAND tỉnh Gia Lai sẽ quyết định như thế nào?

Luật sư Ngô Thanh Quảng: Đây là một vụ án hết sức phức tạp, đã kéo dài nhiều năm, có nhiều tình tiết thể hiện các vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng mà tôi đã phân tích, trình bày và đề nghị tại phiên tòa phúc thẩm. Tuy nhiên sẽ là một quyết định rất khó khăn của HĐXX cấp phúc thẩm khi phải cân nhắc lựa chọn giữa công lý, công tâm và hành động dũng cảm để khắc phục sai lầm của cấp sơ thẩm. Bởi các bị cáo đã bị giam rất lâu, thậm chí đã gần hết thời hạn tù mà bản án sơ thẩm đã tuyên và cho dù có ngưng phiên tòa để triệu tập thêm người tham gia tố tụng hay hủy bản án sơ thẩm để điều tra, giải quyết lại thì các vi phạm thủ tục tố tụng (nêu trên) cũng rất khó có thể sửa chữa, khắc phục được. Nếu như HĐXX cấp phúc thẩm quyết định giữ nguyên bản án sơ thẩm, thì mặc nhiên đã hợp thức hóa các vi phạm về thủ tục tố tụng của cấp sơ thẩm và có lẽ công lý và pháp quyền còn rất xa vời với thực tế.

Trân trọng cảm ơn luật sư !

                                                                                        TẢ THANH THIÊN