Cụ thể, theo Điều 7 Thông tư liên tịch 05/2025/TTLT-BCA-BQP-VKSNDTC-TANDTC, trường hợp đã có quyết định truy tố vắng mặt bị can, Tòa án phải kiểm tra tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án, nếu có đủ căn cứ, điều kiện quy định tại Điều 4 của Thông tư liên tịch này thì hết thời hạn chuẩn bị xét xử, Tòa án căn cứ quy định tại điểm a hoặc điểm b khoản 2 Điều 290 của Bộ luật Tố tụng hình sự để xem xét, quyết định đưa vụ án ra xét xử vắng mặt bị cáo.

Ảnh minh hoạ. Nguồn: Internet.
Trường hợp trong giai đoạn chuẩn bị xét xử hoặc giai đoạn xét xử, bị can, bị cáo trở về, đầu thú hoặc bắt được bị can, bị cáo thì Tòa án giải quyết vụ án theo thủ tục chung.
Trường hợp Viện kiểm sát quyết định việc truy tố theo thủ tục chung, nhưng trong giai đoạn chuẩn bị xét xử không biết rõ bị can, bị cáo đang ở đâu thì Thẩm phán chủ tọa phiên tòa yêu cầu Cơ quan điều tra ra quyết định truy nã bị can, bị cáo. Sau khi hết thời hạn chuẩn bị xét xử mà việc truy nã không có kết quả thì Cơ quan điều tra đã ra quyết định truy nã phải thông báo cho Tòa án biết để xem xét, quyết định đưa vụ án ra xét xử vắng mặt bị can, bị cáo nếu có đủ căn cứ, điều kiện theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 290 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 4 của Thông tư liên tịch này.
Trường hợp Viện kiểm sát quyết định việc truy tố theo thủ tục chung, sau khi đã có quyết định đưa vụ án ra xét xử mà bị cáo trốn thì Hội đồng xét xử tạm đình chỉ vụ án và yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã bị cáo theo quy định tại khoản 1 Điều 290 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Hết thời hạn 15 ngày kể từ ngày có quyết định truy nã mà việc truy nã không có kết quả thì Cơ quan điều tra ra quyết định truy nã phải thông báo cho Tòa án biết để xem xét, quyết định phục hồi vụ án và quyết định đưa vụ án ra xét xử vắng mặt bị cáo nếu đủ căn cứ, điều kiện quy định tại điểm a khoản 2 Điều 290 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 4 của Thông tư liên tịch này. Trường hợp không đủ căn cứ, điều kiện để xét xử vắng mặt thì Tòa án giải quyết vụ án theo thủ tục chung.
Trường hợp đã có cáo trạng truy tố vắng mặt bị can, nhưng Tòa án xét thấy không có đủ căn cứ, điều kiện quy định tại khoản 2 Điều 4 của Thông tư liên tịch này và có căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 280 của Bộ luật Tố tụng hình sự thì Tòa án quyết định trả hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung hoặc Tòa án quyết định tạm đình chỉ vụ án. Sau khi điều tra bổ sung theo yêu cầu của Tòa án và có đủ căn cứ, điều kiện theo quy định tại khoản 2 Điều 4 của Thông tư liên tịch này thì Tòa án xem xét, quyết định đưa vụ án ra xét xử vắng mặt bị cáo.
Trình tự, thủ tục tại phiên tòa khi xét xử vắng mặt bị cáo được thực hiện theo quy định tại Chương XXI và Chương XXII của Bộ luật Tố tụng hình sự và các thủ tục sau đây:
- Hội đồng xét xử công bố lý do xét xử vắng mặt bị cáo, lý lịch; phổ biến quyền và nghĩa vụ của bị cáo vắng mặt; kêu gọi bị cáo đầu thú, có mặt tại phiên tòa để thực hiện quyền tự bào chữa và được hưởng các tình tiết giảm nhẹ, khoan hồng theo quy định của pháp luật;
- Người bào chữa, người đại diện hoặc người thân thích của bị cáo vắng mặt phát biểu ý kiến, đưa ra tài liệu, chứng cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo; đọc bản tự bào chữa của bị cáo, nếu có.
Điều 4 Thông tư liên tịch 05/2025/TTLT-BCA-BQP-VKSNDTC-TANDTC quy định cụ thể như sau:
"Điều 4. Trường hợp, điều kiện ban hành bản kết luận điều tra đề nghị truy tố, bản cáo trạng và xét xử vắng mặt bị can, bị cáo
1. Cơ quan điều tra áp dụng quy định tại khoản 2 Điều 233, Viện kiểm sát áp dụng quy định tại khoản 2 Điều 243, Tòa án áp dụng quy định tại điểm a và điểm b khoản 2 Điều 290 của Bộ luật Tố tụng hình sự để điều tra, truy tố, xét xử vắng mặt bị can, bị cáo trong các trường hợp sau:
a) Bị can, bị cáo trốn hoặc không biết bị can, bị cáo ở đâu và việc truy nã không có kết quả.
Bị can, bị cáo trốn là trường hợp bị can, bị cáo cố ý trốn tránh, vắng mặt, cơ quan tiến hành tố tụng không giao được giấy triệu tập cho bị can, bị cáo hoặc đã giao giấy triệu tập nhưng bị can, bị cáo không chấp hành, trình diện theo giấy triệu tập mà không vì lý do bất khả kháng, trở ngại khách quan hoặc che giấu tung tích, nơi cư trú, nơi làm việc, nơi học tập nhằm không chấp hành quyết định, yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.
Không biết bị can, bị cáo ở đâu là trường hợp cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã tiến hành các hoạt động xác minh theo quy định pháp luật nhưng không xác định được bị can, bị cáo ở đâu.
Việc truy nã không có kết quả là trường hợp Cơ quan điều tra đã ra quyết định truy nã bị can, bị cáo, áp dụng các biện pháp xác minh, truy bắt bị can, bị cáo nhưng đến khi hết thời hạn điều tra, hết thời hạn truy tố, hết thời hạn chuẩn bị xét xử hoặc hết thời hạn theo quy định tại khoản 3 Điều 7 của Thông tư liên tịch này mà bị can, bị cáo không đầu thú hoặc không bắt được bị can, bị cáo.
b) Bị can, bị cáo đang ở nước ngoài mà không thể triệu tập để phục vụ hoạt động điều tra, truy tố, xét xử.
Bị can, bị cáo đang ở nước ngoài mà không thể triệu tập để phục vụ hoạt động điều tra, truy tố, xét xử là trường hợp có căn cứ xác định bị can, bị cáo đã xuất cảnh nhưng chưa có thông tin nhập cảnh và không xác định được nơi đang sinh sống, làm việc, học tập của bị can, bị cáo ở nước ngoài, không triệu tập, dẫn độ được bị can, bị cáo để phục vụ hoạt động điều tra, truy tố, xét xử hoặc trường hợp cơ quan tiến hành tố tụng có căn cứ xác định nơi đang sinh sống, làm việc, học tập của bị can, bị cáo ở nước ngoài, đã triệu tập, đã yêu cầu dẫn độ nhưng không thể đưa được bị can, bị cáo trở về Việt Nam để phục vụ hoạt động điều tra, truy tố, xét xử.
2. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể ban hành bản kết luận điều tra đề nghị truy tố, bản cáo trạng, xét xử vắng mặt bị can, bị cáo trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này khi có đủ các điều kiện sau:
a) Đã thu thập đủ chứng cứ, tài liệu để làm rõ các vấn đề phải chứng minh trong vụ án theo quy định tại Điều 85 của Bộ luật Tố tụng hình sự và đủ căn cứ xác định bị can, bị cáo đã thực hiện tội phạm bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử;
b) Bảo đảm quyền bào chữa cho bị can, bị cáo vắng mặt theo quy định tại các điều 16, 291, 351 và Chương V của Bộ luật Tố tụng hình sự. Cơ quan tiến hành tố tụng đang thụ lý, giải quyết vụ án phải thông báo về quyền nhờ người bào chữa cho người đại diện hoặc người thân thích của bị can, bị cáo để họ nhờ người bào chữa. Trường hợp người đại diện hoặc người thân thích của bị can, bị cáo không nhờ người bào chữa thì cơ quan tiến hành tố tụng phải chỉ định người bào chữa cho bị can, bị cáo vắng mặt theo quy định tại Điều 76 của Bộ luật Tố tụng hình sự".

