/ Kết nối
/ Xử lý hành vi vi phạm pháp luật khiếu nại của người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại

Xử lý hành vi vi phạm pháp luật khiếu nại của người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại

30/07/2021 03:54 |3 năm trước

(LSVN) - Người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại (GQKN), người được giao nhiệm vụ xác minh nội dung khiếu nại có hành vi vi phạm pháp luật khiếu nại thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm bị xử lý kỷ luật. Nếu có dấu hiệu tội phạm thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Đây quy định mới về nguyên tắc xử lý hành vi vi phạm quy định tại Nghị định 124/2020/NĐ-CP về việc quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Khiếu nại.

Theo đó, Nghị định 124/2020/NĐ-CP đã quy định nguyên tắc xử lý hành vi vi phạm pháp Luật Khiếu nại và xử lý kỷ luật đối với người có thẩm quyền GQKN, người đưọc giao nhiệm vụ xác minh nội dung khiếu nại; người có trách nhiệm tổ chức thi hành quyết định GQKN có hiệu lực pháp luật, với các hành vi vi phạm và hình thức kỷ luật, cụ thể:

Đối với người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại

Hình thức kỷ luật khiển trách áp dụng đối một trong những hành vi vi phạm pháp luật sau đây: Sách nhiễu, cản trở, gây khó khăn, phiền hà cho người khiếu nại, người được ủy quyền khiếu nại, người bị khiếu nại; Bao che cho người bị khiếu nại; Đe dọa trả thù, trù dập người khiếu nại, người được ủy quyền khiếu nại, người bị khiếu nại.

Hình thức kỷ luật cảnh cáo áp dụng đối một trong các hành vi vi phạm pháp luật sau đây: Cố ý không thụ lý GQKN đối với vụ việc khiếu nại đủ điều kiện thụ lý thuộc thẩm quyền; Cố ý bỏ qua các bằng chứng, bỏ lọt các thông tin, tài liệu hoặc làm sai lệch hồ sơ vụ việc; Cố ý không ban hành quyết định GQKN.

Hình thức kỷ luật giáng chức hoặc cách chức áp dụng đối với một trong các hành vi vi phạm pháp luật sau đây: Vi phạm nghiêm trọng trong việc thực hiện trình tự, thủ tục GQKN gây mất ổn định nghiêm trọng về an ninh, trật tự xã hội hoặc gây hậu quả chết người; Cố ý ban hành quyết định GQKN trái pháp luật gây mất ổn định nghiêm trọng về an ninh, trật tự xã hội hoặc gây hậu quả chết người.

Đối với người được giao nhiệm vụ xác minh nội dung khiếu nại

Hình thức kỷ luật khiển trách áp dụng đối với một trong những hành vi vi phạm pháp luật sau đây: Sách nhiễu, cản trở, gây khó khăn, phiền hà cho người khiếu nại, người được ủy quyền khiếu nại, người bị khiếu nại; Bao che cho người bị khiếu nại; Đe dọa trả thù, trù dập người khiếu nại, người được ủy quyền khiếu nại, người bị khiếu nại.

Hình thức kỷ luật cảnh cáo áp dụng đối với một trong những hành vi cố ý bỏ qua các bằng chứng, bỏ lọt các thông tin, tài liệu hoặc làm sai lệch hồ sơ vụ việc trong quá trình xác minh nội dung khiếu nại.

Hình thức kỷ luật giáng chức hoặc cách chức áp dụng đối với hành vi cố ý báo cáo sai lệch kết quả xác minh nội dung khiếu nại dẫn đến quyết định GQKN sai gây mất ổn định nghiêm trọng về an ninh, trật tự xã hội hoặc gây hậu quả chết người. Trường hợp người được giao nhiệm vụ xác minh không có chức vụ thì áp dụng hình thức kỷ luật hạ bậc lương.

Đối với người có trách nhiệm tổ chức thi hành quyết định GQKN có hiệu lực pháp luật

Hình thức kỷ luật khiển trách áp dụng đối với một trong các hành vi vi phạm pháp luật sau đây: Bao che,dung túng, không xử lý đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm mà không thi hành quyết định GQKN có hiệu lực pháp luật; Tổ chức thực hiện không đúng, không đầy đủ quyết định  GQKN có hiệu lực pháp luật.

Hình thức kỷ luật cảnh cáo áp dụng đối với hành vi cố ý không tổ chức thi hành quyết định GQKN có hiệu lực pháp luật.

Nguyên tắc, thẩm quyền, trình tự, thủ tục và các nội dung khác có liên quan đến việc xử lý kỷ luật người có trách nhiệm giải quyết khiếu nại, người được giao nhiệm vụ xác minh nội dung khiếu nại, người thi hành quyết định  GQKN có hiệu lực pháp luật mà có vi phạm pháp luật khiếu nại nhưng chưa được quy định tại Nghị định này thì thực hiện theo quy định của pháp luật về xử lý kỷ luật đối với cán bộ, công chức, viên chức.

Nghị định này có hiệu lực từ 10/12/2020.

Luật sư HỒNG HÀ

Tiêu chuẩn phong đẳng cấp vận động viên thể thao thành tích cao

Bổ sung các giải pháp hỗ trợ người dân, doanh nghiệp chịu tác động của dịch Covid-19

(LSVN) - Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Minh Khái đồng ý đề xuất của Bộ Tài chính về sự cần thiết bổ sung các giải pháp tiếp theo để hỗ trợ người dân, doanh nghiệp chịu tác động của dịch Covid-19.

Theo đó, xét đề nghị của Bộ Tài chính về đề xuất một số giải pháp về thu ngân sách trong năm 2021 nhằm hỗ trợ doanh nghiệp, người dân chịu tác động của dịch Covid-19, Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Minh Khái đồng ý đề xuất của Bộ Tài chính về sự cần thiết bổ sung các giải pháp tiếp theo để hỗ trợ người dân, doanh nghiệp chịu tác động của dịch Covid-19.

Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Bộ Tư pháp và các Bộ, cơ quan liên quan, trên cơ sở nghị quyết của Quốc hội tại kỳ họp thứ nhất khóa XV, khẩn trương hoàn thiện đề xuất ban hành (các) văn bản pháp luật phù hợp theo trình tự thủ tục rút gọn về các giải pháp tiếp theo hỗ trợ người dân, doanh nghiệp chịu tác động của dịch Covid-19 theo đúng quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trước ngày 10/8/2021 để trình cấp thẩm quyền xem xét, quyết định.

Trong đó cần tiếp tục rà soát, đánh giá kỹ các giải pháp chính sách hỗ trợ đã thực hiện vừa qua, trên cơ sở đó, xác định sự cần thiết phải điều chỉnh, bổ sung về đối tượng thụ hưởng, nội dung chính sách, thời hạn thực hiện... bảo đảm các chính sách phát huy hiệu quả cao nhất, hỗ trợ kịp thời cho người dân, doanh nghiệp; đồng thời lưu ý lấy đủ ý kiến các đối tượng chịu tác động của chính sách.

Các Bộ, cơ quan liên quan có trách nhiệm phối hợp chặt chẽ với Bộ Tài chính để triển khai, hoàn thành nhiệm vụ nêu trên, bảo đảm thời hạn, chất lượng.

Trước đó, ngày 07/7/2021, Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Minh Khái đã ký Quyết định số 23/2021/QĐ-TTg quy định về việc thực hiện một số chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch Covid-19, trong đó, giảm mức đóng bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; hỗ trợ nâng cao trình độ kỹ năng nghề để duy trì việc làm cho người lao động; hỗ trợ người lao động nghỉ việc không lương; hỗ trợ người lao động ngừng việc...

HỒNG HẠNH

Tội trốn thuế theo quy định của pháp luật hình sự

Đương nhiên được xóa án tích theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 - Những khó khăn, vướng mắc và giải pháp kiến nghị

(LSVN) - Trong Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung cơ bản liên quan đến xóa án tích, đặc biệt đương nhiên được xóa án tích là một chế định quan trọng trong pháp luật hình sự thể hiện tính nhân đạo và nguyên tắc công bằng dân chủ, tôn trọng, bảo vệ quyền con người, tạo điều kiện cho những người được xóa án tích tái hòa nhập với cộng đồng, ổn định làm ăn, sinh sống. 

Điều 70 BLHS 2015 quy định:

1. Đương nhiên được xóa án tích được áp dụng đối với người bị kết án không phải về các tội xâm phạm an ninh quốc gia; tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh của Bộ luật này khi họ đã chấp hành xong hình phạt chính, thời gian thử thách án treo hoặc hết thời hiệu thi hành bản án và đáp ứng các điều kiện quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này.

2. Người bị kết án đương nhiên được xóa án tích, nếu từ khi chấp hành xong hình phạt chính hoặc hết thời gian thử thách án treo, người đó đã chấp hành xong hình phạt bổ sung, các quyết định khác của bản án và không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn sau đây:

a) 01 năm trong trường hợp bị phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, phạt tù nhưng được hưởng án treo;

b) 02 năm trong trong trường hợp bị phạt tù đến 05 năm;

c) 03 năm trong trường hợp bị phạt tù từ trên 05 năm đến 15 năm;

d) 05 năm trong trường hợp bị phạt tù từ trên 15 năm, tù chung thân hoặc tử hình nhưng đã được giảm án.

Trường hợp người bị kết án đang chấp hành hình phạt bổ sung là quản chế, cấm cư trú, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định, tước một số quyền công dân mà thời hạn phải chấp hành dài hơn thời hạn quy định tại các điểm a, b và c khoản này thì thời hạn đương nhiên được xóa án tích sẽ hết vào thời điểm người đó chấp hành xong hình phạt bổ sung.

3. Người bị kết án đương nhiên được xóa án tích, nếu từ khi hết thời hiệu thi hành bản án, người đó không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn quy định tại khoản 2 Điều này.

4. Cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp có trách nhiệm cập nhật thông tin về tình hình án tích của người bị kết án và khi có yêu cầu thì cấp phiếu lý lịch tư pháp xác nhận không có án tích, nếu có đủ điều kiện quy định tại khoản 2 hoặc khoản 3 Điều này.

Án tích tác động và hạn chế việc thực hiện các quyền của người bị kết án như: Quyền được hành nghề, công việc nhất định, quyền ứng cử,... và ảnh hưởng đến việc tái hòa nhập cộng đồng của người bị kết án. Đồng thời, án tích ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của người bị kết án vì trong một số trường hợp nếu người phạm tội đã bị kết án, thuộc trường hợp có án tích nhưng chưa được xóa là một trong những cơ sở để định tội, để xem xét tái phạm, tái phạm nguy hiểm là tình tiết định khung hình phạt trong một số tội phạm hoặc là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

So với quy định tại khoản 2 Điều 64 BLHS năm 1999, quy định tại khoản 1 Điều 70 BLHS năm 2015 là quy định mới có lợi cho người phạm tội được áp dụng kể từ ngày 01/7/2016. Theo đó, người bị kết án đương nhiên được xóa án tích nếu kể từ khi chấp hành xong hình phạt chính, người đó đã chấp hành xong hình phạt bổ sung, các quyết định khác của bản án và không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn quy định tại khoản 2 Điều 70 BLHS năm 2015. Tuy nhiên, điều kiện để người bị kết án đương nhiên được xóa án tích quy định tại Điều 70 BLHS năm 2015 không thay đổi so với Điều 64 BLHS năm 1999.

Thủ tục đương nhiên được xóa án tích.

Khoản 4 Điều 70 BLHS 2015 quy định “Cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp có trách nhiệm cập nhật thông tin về tình hình án tích của người bị kết án và khi có yêu cầu thì cấp phiếu lý lịch tư pháp xác nhận không có án tích, nếu có đủ điều kiện quy định tại khoản 2 hoặc khoản 3 Điều này”.

Theo đó, Trung tâm lý lịch tư pháp Quốc gia - Bộ Tư pháp sẽ hướng dẫn cho các Sở Tư pháp trực tiếp quy định các thủ tục chi tiết để xóa án tích cho các trường hợp được đương nhiên xóa án tích. Những người muốn làm thủ tục đương nhiên xóa án tích sẽ nộp đơn tới Sở Tư pháp của tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi mình thường trú.Theo quy định của luật lý lịch tư pháp thì cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp bao gồm Trung tâm lý lịch tư pháp và Sở tư pháp.

Sở Tư pháp quy định thủ tục đương nhiên xóa án tích như sau:

Thứ nhất, nộp hồ sơ xác minh điều kiện đương nhiên xóa án tích

Hồ sơ gồm có:

- Chứng minh thư và sổ hộ khẩu bản sao công chứng.

- Trích lục hoặc bản sao Bản án hình sự sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật, nếu đã xét xử tại cấp phúc thẩm thì cung cấp cả trích lục hoặc bản sao Bản án sơ thẩm và Bản án phúc thẩm.

- Căn cứ vào hình phạt chính tại Bản án, công dân phải nộp một trong các giấy tờ (bản chính) sau đây:

+ Giấy chứng nhận đặc xá do Trại giam nơi thi hành án cấp (trường hợp bị xử phạt tù giam nhưng được đặc xá).

+ Giấy chứng nhận đã chấp hành xong hình phạt tù do Trại giam nơi thi hành án cấp hoặc giấy tờ có giá trị thay thế (trường hợp bị xử phạt tù giam và đã chấp hành xong hình phạt tù).

+ Giấy chứng nhận đã chấp hành xong thời gian thử thách án treo do Cơ quan thi hành án hình sự Công an quận, huyện, thị xã hoặc giấy tờ có giá trị thay thế (trường hợp bị xử phạt tù nhưng được hưởng án treo).

+ Giấy chứng nhận chấp hành xong án phạt cải tạo không giam giữ do Cơ quan thi hành án hình sự Công an quận, huyện, thị xã cấp hoặc giấy tờ có giá trị thay thế (trường hợp bị xử phạt cải tạo không giam giữ).

- Biên lai nộp tiền án phí, tiền phạt và các nghĩa vụ dân sự khác như: Bồi thường, truy thu,… trong bản án hình sự hoặc Giấy xác nhận kết quả thi hành do Cơ quan thi hành án dân sự cấp hoặc các giấy tờ khác có liên quan đến việc xác nhận đã nộp tiền án phí, tiền phạt và các nghĩa vụ dân sự khác.

Thứ hai, tờ khai yêu cầu cấp Phiếu lý lịch Tư pháp

Thứ ba, nộp lệ phí hồ sơ

Sau khi công dân nộp đầy đủ các giấy tờ nêu trên, Sở Tư pháp sẽ gửi văn bản yêu cầu xác minh cho UBND cấp xã hoặc cơ quan, tổ chức nơi người bị kết án cư trú, làm việc sau khi chấp hành xong bản án về việc người đó có bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử trong thời gian đang có án tích hay không.

UBND cấp xã, cơ quan, tổ chức có trách nhiệm gửi văn bản thông báo kết quả xác minh (theo mẫu quy định) cho Sở Tư pháp trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn bản yêu cầu xác minh.

Ngay sau khi nhận được văn bản thông báo kết quả xác minh của UBND cấp xã, cơ quan, tổ chức, Sở Tư pháp sẽ giải quyết việc xóa án tích cho công dân.

Khó khăn vướng mắc trong thực hiện chế định đương nhiên được xóa án tích.

Đương nhiên được xóa án tích là một chế định quan trọng trong pháp luật hình sự Việt Nam nhưng qua thực tiễn triển khai thực hiện các quy định của pháp luật đã bộc lộ một số khó khăn, vướng mắc sau:

Thứ nhất, BLHS năm 2015 và Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS)năm 2015 đã giao thẩm quyền xác nhận các trường hợp đủ điều kiện đương nhiên được xóa án tích cho cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp nhưng Luật lý lịch tư pháp chưa quy định cụ thể trình tự, thủ tục, thời gian và cơ chế phối hợp xác minh các trường hợp đương nhiên xóa án tích.

Điểm mới của BLHS năm 2015 là quy định thời điểm để tính thời hạn xóa án tích sớm hơn so với BLHS năm 1999 theo hướng kể từ khi người bị kết án đã chấp hành xong hình phạt chính, thời gian thử thách án treo hoặc hết thời hiệu thi hành bản án; đồng thời, rút ngắn thời hạn để được xóa án tích theo hướng còn 2 năm (đối với trường hợp bị phạt tù đến 5 năm); 3 năm (đối với trường hợp bị phạt tù từ trên 5 năm đến 15 năm) và 5 năm (đối với trường hợp bị phạt tù từ trên 15 năm, tù chung thân hoặc tử hình nhưng đã được giảm án, khoản 2, 3 Điều 70). Đặc biệt, BLHS năm 2015 đã bỏ quy định Tòa án cấp giấy chứng nhận đương nhiên được xóa án tích cho người bị kết án, mà giao trách nhiệm cho Cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp cập nhật thông tin về tình hình án tích của người bị kết án và khi có yêu cầu thì cấp phiếu lý lịch tư pháp xác nhận không có án tích nếu có đủ điều kiện theo quy định của BLHS.

Khoản 1 Điều 369 BLTTHS năm 2015 quy định: “Trong thời hạn 05 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu của người đương nhiên được xóa án tích và xét thấy có đủ điều kiện quy định tại Điều 70 BLHS thì cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp cấp Phiếu lý lịch tư pháp là họ không có án tích”.

Thứ hai, do hệ thống lý lịch tư pháp chưa đầy đủ, không thuận tiện cho việc tra cứu thông tin, xác nhận đương nhiên được xóa án tích nên khi người yêu cầu cấp phiếu lý lịch tư pháp có án tích, cơ quan Quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp phải phối hợp với Tòa án đề nghị cung cấp Bản án và phối hợp với các cơ quan liên quan xác minh việc chấp hành các nội dung về thi hành án dân sự, hình sự, các quyết định khác của Bản án và tình hình phạm tội mới tại các cơ quan có liên quan như Tòa án, Viện Kiểm sát, Công an,... trong thời hạn 10 ngày làm việc. Nhưng bản án đã được Tòa án tuyên khá lâu nên người bị kết án cũng như các cơ quan có liên quan không còn lưu giữ được các giấy tờ, tài liệu liên quan đến việc thi hành bản án cho nên các cơ quan liên quan trả lời kết quả xác minh không đúng thời gian như quy định nêu trên. Có nhiều trường hợp một người có nhiều án tích hoặc cư trú ở nhiều địa phương khác nhau nên Sở tư pháp phải xác minh đến rất nhiều cơ quan, trong thời gian dài nhưng vẫn chưa đủ căn cứ xác định rõ tình trạng án tích của công dân để cấp phiếu lý lịch tư pháp. Ngoài ra, cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp hiện nay không quản lý và lưu trữ các thông tin từ giai đoạn khởi tố mà chỉ lưu trữ, quản lý thông tin từ giai đoạn bản án có hiệu lực pháp luật.

Thứ ba, để xác minh điều kiện đương nhiên được xóa án tích đòi hỏi nhiều thời gian, công sức, sự phối hợp chặt chẽ, trách nhiệm của các cơ quan có liên quan cũng như đòi hỏi cán bộ làm công tác này phải có trình độ nghiệp vụ chuyên sâu về pháp luật hình sự và pháp luật về lý lịch tư pháp. Trong khi đó, đội ngũ cán bộ làm công tác lý lịch tư pháp tại các Sở Tư pháp còn thiếu về số lượng, kiêm nhiệm nhiều nhiệm vụ.

Một số giải pháp, kiến nghị

Qua thực tế và những khó khăn đang gặp phải, tác giả có một số kiến nghị nhằm khắc phục những vướng mắc như sau:

Thứ nhất, đề nghị sửa đổi, bổ sung một số quy định của Luật Lý lịch tư pháp như: Trong trường hợp người yêu cầu cấp phiếu lý lịch tư pháp có án tích và đã đủ thời gian đương nhiên xóa án tích, sửa đổi theo hướng kéo dài thời gian xác minh đối với các trường hợp đương nhiên xóa án tích để các cơ quan đủ thời gian phối hợp xác minh và cung cấp thông tin về án tích.

Thứ hai, nghiên cứu và bổ sung quy định trường hợp những bản án được tuyên trước đây nhưng các cơ quan có thẩm quyền không còn lưu trữ được hồ sơ bản án, quá trình thi hành án nên không cung cấp được thông tin về án tích của người đã bị kết án. Trong trường hợp này, nên quy định theo hướng coi như người đó là người chưa có án tích.

Thứ ba, chủ động rà soát, cập nhật thông tin về điều kiện đương nhiên được xóa án tích của người đã bị kết án vào cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp. Xây dựng một hệ thống lý lịch tư pháp đầy đủ, hoàn thiện thuận tiện cho việc tra cứu, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác lý lịch tư pháp, áp dụng các phương thức cấp phiếu lý lịch tư pháp qua dịch vụ bưu chính, cấp phiếu trực tuyến, đẩy mạnh cải cách hành chính, rút ngắn thời hạn cấp phiếu lý lịch tư pháp, tạo thuận lợi nhất cho cá nhân, cơ quan, tổ chức.

Thứ tư, trang bị đầy đủ cơ sở vật chất, biên chế cùng với tăng cường công tác tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ, chú trọng bồi dưỡng kiến thức, nghiệp vụ cấp phiếu lý lịch tư pháp, đặc biệt là xác minh điều kiện đương nhiên được xóa án tích.

Có thể thấy, chế định đương nhiên xóa án tích mang tính nhân đạo sâu sắc, tạo điều kiện cho người phạm tội không bị mặc cảm bởi sự phân biệt đối xử trong xã hội sau khi chấp hành án. Tuy nhiên, bản chất nhân đạo của chính sách này chỉ được thể hiện khi nó được gắn liền với việc cấp phiếu lý lịch tư pháp cho người đã được xóa án tích với việc ghi “không có án tích”. Vì vậy, với việc xác nhận của phiếu lý lịch tư pháp, người được xóa án tích mới “thực sự” được coi như chưa bị kết án và hòa nhập cộng đồng một cách dễ dàng hơn./.

PHẠM LINH TRANG
Tòa án quân sự khu vực, Quân Khu 1

 

Tội trốn thuế theo quy định của pháp luật hình sự


 

Admin