Bảo vệ quyền sở hữu tài sản của người vợ khi vợ chồng lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận 

09/12/2023 23:24 | 5 tháng trước

(LSVN) - Gia đình là tế bào của xã hội; hôn nhân và gia đình là nền tảng của xã hội, nơi sinh ra, nuôi dưỡng và giáo dục các thế hệ tương lai của đất nước, nơi gìn giữ và phát triển các nét đặc trưng của văn hóa, truyền thống của một dân tộc, một quốc gia. Gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt. Ngày 24/6/2021, Ban Bí thư đã ban hành Chỉ thị số 06-CT/TW về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác xây dựng gia đình trong tình hình mới” đã xác định rõ xây dựng gia đình là mục tiêu, đồng thời cũng là động lực phát triển của đất nước. 

Ảnh minh họa.

Cơ sở vững chắc để tiến đến hôn nhân và xây dựng gia đình hạnh phúc, đó là tình yêu, là trách nhiệm và nghĩa vụ, là chuẩn mực đạo đức của nam và nữ. Nội dung này đã được Điều 36 Hiến pháp 2013 ghi nhận: “Nam, nữ có quyền kết hôn, ly hôn. Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau”. Tuy nhiên, khi mục đích của hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài và vấn đề ly hôn được đặt ra, trên thực tế đã xảy ra nhiều vụ án ly hôn có tranh chấp về việc xác định tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng rất khó giải quyết trong khi Luật Hôn nhân và gia đình qua từng thời kỳ có quy định khác nhau về cách giải quyết tranh chấp tài sản trong các vụ án ly hôn. 

Theo khoản 1 Điều 95 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: “Việc chia tài sản khi ly hôn do các bên thỏa thuận; nếu không thoả thuận được thì yêu cầu Toà án giải quyết. Tài sản riêng của bên nào thì thuộc quyền sở hữu của bên đó”. Như vậy, Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 chỉ quy định duy nhất chế định chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp luật. Ngoài ra, theo khoản 1, khoản 3 Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 thì “tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng thoả thuận là tài sản chung” và “trong trường hợp không có chứng cứ chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó là tài sản chung”. Như vậy, theo quy định của luật này thì việc xác định tài sản chung và tài sản riêng của vợ chồng khi có tranh chấp xảy ra rất phức tạp. Ngoài ra, Điều 219 Bộ luật Dân sự năm 2005 cũng chỉ quy định sở hữu chung của vợ chồng là sở hữu chung hợp nhất và tài sản chung của vợ chồng có thể phân chia theo thoả thuận hoặc theo quyết định của Tòa án. Như vậy, Bộ luật Dân sự năm 2005 và Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 đều không quy định về chế độ tài sản theo thỏa thuận của vợ chồng, quy định của luật hiện hành không bảo đảm quyền tự định đoạt của chủ sở hữu tài sản. 

Để hạn chế những tranh chấp về tài sản của vợ chồng khi ly hôn, lần đầu tiên trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 ghi nhận sự thỏa thuận của vợ chồng về quan hệ tài sản, cụ thể khoản 1 Điều 28 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về việc áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng như sau: “Vợ chồng có quyền lựa chọn áp dụng chế độ tài sản theo luật định hoặc chế độ tài sản theo thỏa thuận”. 

Dưới góc độ pháp luật, việc xác lập cụ thể tài sản của vợ chồng trước khi kết hôn sẽ đảm bảo được quyền sở hữu về tài sản của hai bên. Bởi lẽ mục đích của giao dịch dân sự là lợi ích mà chủ thể mong muốn đạt được khi xác lập giao dịch đó. Việc xác lập chế độ tài sản của vợ chồng cũng góp phần đảm bảo quyền sở hữu tài sản của cả người vợ và người chồng khi ly hôn xảy ra. Khoản 4, khoản 5 Điều 213 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định tài sản chung của vợ chồng có thể phân chia theo thỏa thuận hoặc theo quyết định của Tòa án, trường hợp vợ chồng lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình thì tài sản chung của vợ chồng được áp dụng theo chế độ tài sản này.

Ngoài ra, theo Điều 47 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, trong trường hợp hai bên kết hôn lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận, thỏa thuận này phải được lập trước khi kết hôn, bằng hình thức văn bản có công chứng hoặc chứng thực. Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận được xác lập kể từ ngày đăng ký kết hôn. Thông qua thỏa thuận về chế độ tài sản sẽ xác định được là tài sản chung, tài sản riêng của vợ, chồng; xác định được quyền, nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung, tài sản riêng và giao dịch có liên quan; tài sản để bảo đảm nhu cầu thiết yếu của gia đình; điều kiện, thủ tục và nguyên tắc phân chia tài sản khi chấm dứt chế độ tài sản và các nội dung khác có liên quan. Đây là những nội dung cơ bản của thỏa thuận về chế độ tài sản được quy định cụ thể tại Điều 48 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Như vậy, thông qua chế độ tài sản theo thỏa thuận, tài sản của vợ chồng sẽ được bảo vệ chặt chẽ hơn. Tuy nhiên, do các yếu tố tác động đến nền kinh tế thị trường, do hội nhập văn hóa, phong tục tập quán, để quy định này được thực thi trong thực tiễn còn có nhiều khó khăn, vướng mắc cần phải giải quyết, cụ thể như sau:

Một là, về thời điểm xác lập chế độ tài sản theo thỏa thuận của vợ chồng: Điều 47 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “khi hai bên kết hôn lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận thì thỏa thuận này phải được lập trước khi kết hôn, bằng hình thức văn bản có công chứng hoặc chứng thực. Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận được xác lập kể từ ngày đăng ký kết hôn”. Theo khoản 2 Điều 117 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp luật có quy định. Ngoài ra, theo khoản 2 Điều 117 Bộ luật Dân sự năm 2015, trường hợp luật quy định giao dịch dân sự phải được thể hiện bằng văn bản có công chứng, chứng thực, đăng ký thì phải tuân theo quy định đó. Vì Bộ luật Dân sự năm 2015 là luật chung điều chỉnh các quan hệ dân sự, luật khác có liên quan điều chỉnh quan hệ dân sự trong các lĩnh vực cụ thể không được trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự. Như vậy, để thỏa thuận này có hiệu lực thì thỏa thuận này phải được lập trước khi kết hôn, bằng hình thức văn bản có công chứng hoặc chứng thực. Kể từ thời điểm được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn thì chế độ thỏa thuận tài sản của vợ chồng phát sinh hiệu lực.

Tuy nhiên, nếu Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định khi hai bên kết hôn lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận thì thỏa thuận này phải được lập trước khi kết hôn thì quyền tài sản của vợ chồng chưa được đảm bảo đầy đủ. Nếu trước khi kết hôn hai bên không có hoặc có rất ít tài sản nên không xác lập chế độ tài sản theo thỏa thuận. Trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng tạo lập được khối tài sản lớn do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và có nguyện vọng xác lập chế độ tài sản theo thỏa thuận nhưng pháp luật không quy định. Điều 158 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy định của luật. Cho nên, cần thiết phải mở rộng quyền trong việc định đoạt tài sản theo thỏa thuận cho vợ chồng đối với khối tài sản chung đã được tạo lập, duy trì, phát triển trong thời kỳ hôn nhân bởi chế độ tài sản theo thỏa thuận đóng vai trò quan trọng không những đối với các bên vợ, chồng mà còn đối với người thứ ba. Bởi một trong những nguyên tắc của pháp luật dân sự là cá nhân, pháp nhân xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình trên cơ sở tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận. Mọi cam kết, thỏa thuận không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội có hiệu lực thực hiện đối với các bên và phải được các chủ thể khác tôn trọng. 

Hai là, đối với các tài sản vợ chồng mà chưa thỏa thuận hoặc thỏa thuận không rõ ràng: Khi thực hiện chế độ tài sản theo thỏa thuận mà phát sinh những vấn đề chưa được vợ chồng thỏa thuận hoặc thỏa thuận không rõ ràng thì áp dụng quy định tại các điều 29, 30, 31 và 32 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 và quy định tương ứng của chế độ tài sản theo luật định. Như vậy, để giải quyết các tranh chấp về tài sản của vợ chồng, pháp luật vẫn quy định theo hướng áp dụng những quy định tương ứng của chế độ tài sản theo luật định. Theo Điều 9 Bộ luật Dân sự năm 2015, cá nhân, pháp nhân thực hiện quyền dân sự theo ý chí của mình, không được trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự và giới hạn thực hiện quyền dân sự. Cho nên, khi thực hiện chế độ tài sản theo thỏa thuận mà phát sinh những vấn đề chưa được vợ chồng thỏa thuận hoặc thỏa thuận không rõ ràng thì nên cho phép vợ chồng thỏa thuận để giải quyết tranh chấp, không cần áp dụng quy định tương ứng của chế độ tài sản theo luật định. Bởi trong quan hệ dân sự, việc hòa giải giữa các bên phù hợp với quy định của pháp luật được khuyến khích. Theo khoản 2 Điều 213 Bộ luật Dân sự năm 2015, vợ chồng cùng nhau tạo lập, phát triển khối tài sản chung; có quyền ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung, 

Ba là, nội dung của thỏa thuận về tài sản của vợ chồng còn nhiều bất cập: Ngoài những quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 về những nội dung cơ bản của thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng, Điều 15 Nghị định số 126/2014/NĐ-CP ngày 31/12/2014 của Chính phủ cũng quy định về trường hợp lựa chọn áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận thì vợ chồng có thể thỏa thuận về xác định tài sản theo một trong các nội dung sau đây: Tài sản giữa vợ và chồng bao gồm tài sản chung và tài sản riêng của vợ, chồng; giữa vợ và chồng không có tài sản riêng của vợ, chồng mà tất cả tài sản do vợ, chồng có được trước khi kết hôn hoặc trong thời kỳ hôn nhân đều thuộc tài sản chung; giữa vợ và chồng không có tài sản chung mà tất cả tài sản do vợ, chồng có được trước khi kết hôn và trong thời kỳ hôn nhân đều thuộc sở hữu riêng của người có được tài sản đó; xác định theo thỏa thuận khác của vợ chồng. 

Ngoài ra, Điều 213 Bộ luật Dân sự năm 2015 cũng quy định nếu vợ chồng lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình thì tài sản chung của vợ chồng được áp dụng theo chế độ tài sản này. Tuy nhiên, trong trường hợp xảy ra ly hôn thì vợ, chồng được hưởng phần tài sản nào từ tài sản riêng của vợ, chồng hoặc từ tài sản chung của hai bên thì chế độ tài sản theo thỏa thuận chưa quy định rõ. Hoặc trường hợp vợ chồng ly thân và người vợ trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình thì người vợ được hưởng phần tài sản như thế nào thì chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận cũng chưa quy định. Bởi cha, mẹ có nghĩa vụ và quyền ngang nhau, cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng con. Như vậy, trong những trường hợp nêu trên thì quyền lợi về tài sản của người vợ chưa được đảm bảo. Bởi một trong những nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự là mọi cá nhân, pháp nhân đều bình đẳng, không được lấy bất kỳ lý do nào để phân biệt đối xử; được pháp luật bảo hộ như nhau về các quyền nhân thân và tài sản.

Trên cơ sở những phân tích trên đây, tác giả đưa ra một số kiến nghị sau:

Thứ nhất, cần có quy định cụ thể trong trường hợp vợ chồng ly hôn thì người vợ hoặc người chồng được hưởng phần tài sản nào từ tài sản chung của vợ chồng hoặc phần tài sản nào từ tài sản riêng của một bên vợ hoặc chồng. Đối với trường hợp này, tác giả đề xuất bổ sung thêm nội dung cơ bản của thỏa thuận về chế độ tài sản, cần quy định cụ thể hơn về nguyên tắc phân chia tài sản quy định tại Điều 48 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Cụ thể, tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng cần tính đến các yếu tố: Hoàn cảnh điều kiện kinh tế của hai bên; công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung; bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập; lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng. Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật, nếu không chia được bằng hiện vật thì chia theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần chênh lệch. Đối với tài sản riêng của vợ, chồng hoặc tài sản được hình thành từ tài sản riêng của người nào thì thuộc sở hữu của người đó.

Thứ hai, về phần tài sản người vợ được hưởng trong trường hợp vợ chồng ly thân và người vợ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình thì Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 chưa quy định. Vì vậy, cần bổ sung quy định này vào pháp luật hôn nhân và gia đình. Cụ thể, cần chia cho người vợ một phần tương đương chi phí chăm sóc, nuôi dưỡng con trong khối tài sản chung mà hai người đã thỏa thuận trước đó bởi lẽ việc giải quyết quan hệ tài sản phải bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ và con.

Tóm lại, tài sản vợ chồng là một trong những nội dung quan trọng của Luật hôn nhân và gia đình năm qua các thời kỳ. Lần đầu tiên, chế độ tài sản theo thỏa thuận của vợ chồng được Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định, ghi nhận sự thỏa thuận của vợ chồng về tài sản. Văn bản thỏa thuận là căn cứ để xác định tài sản nào là tài sản chung, tài sản nào là tài sản riêng và tài sản nào phát sinh thêm để giải quyết khi phát sinh tranh chấp. Nhìn ở khía cạnh chung, chế định chế độ tài sản theo thỏa thuận của vợ chồng được Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 và Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định góp phần đảm bảo quyền sở hữu tài sản cho người vợ khi phân chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn. Điều 36 Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình, bảo hộ quyền lợi của người mẹ và trẻ em.

Danh mục tài liệu tham khảo

1. Hiến pháp năm 2013.

2. Bộ luật dân sự 2005.

3. Bộ luật dân sự 2015.

4. Luật hôn nhân và gia đình năm 2000.

5. Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

6. Nghị định số 126/2014/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và hướng dẫn thi hành Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 của Chính phủ năm 2014.

7. Bình luận khoa học Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam, tập II, Các quan hệ tài sản giữa vợ chồng - Nguyễn Ngọc Điện (2004), Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.

8. Bảo vệ quyền lợi của người vợ khi ly hôn - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận văn thạc sĩ Luật học – Doãn Thanh Thủy năm 2015, Trường Đại học Luật Hà Nội.

9. Bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ theo Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2014, Luận văn thạc sĩ Luật học – Hoàng Thị Khánh Linh năm 2015, khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội.

10. Chỉ thị số 06-CT/TW ngày 24/6/2021 của Ban bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác xây dựng gia đình trong tình hình mới.

11. Chế định kết hôn trong Luật Hôn nhân và gia đình - Vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận án tiến sĩ Luật học - Bùi Thị Mừng năm 2015, Trường Đại học Luật Hà Nội.

12. Giáo trình Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam, Trường đại học Luật Hà Nội năm 2013, Nxb Công an nhân dân.

Thạc sĩ NGUYỄN THỊ MIẾN

Quản lý lao động nước ngoài tại Việt Nam hiện nay