/ Chưa được phân loại
/ BÀI TRỰC THỨ 6

BÀI TRỰC THỨ 6

13/01/2022 03:35 |

(LSVN) -

(SANGS1) Quy định về giám định tư pháp trong lĩnh vực tài nguyên và môi trường

(LSVN) - Bộ Tài nguyên và Môi  trường đề nghị Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố gửi danh sách giám định viên tư pháp, tổ chức giám định tư pháp theo vụ việc, người giám định tư pháp theo vụ việc trong lĩnh vực tài nguyên và môi trường của địa phương về Bộ Tài nguyên và Môi trường (Vụ Pháp chế) trước ngày 30/01/2022 để tổng hợp, công bố theo quy định.

Ảnh minh họa.

Ngày 29/12/2021, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã có Công văn số 8089/BTNMT-PC gửi Ủy ban nhân dân các tỉnh,thành phố trực thuộc Trung ương về việc thực hiện Thông tư số 15/2021/TTBTNMT quy định giám định tư pháp trong lĩnh vực tài nguyên và môi trường.

Theo đó, ngày 31/8/2021, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường đã ban hành Thông tư số 15/2021/TT-BTNMT quy định giám định tư pháp trong lĩnh vực tài nguyên và môi trường (gọi tắt là Thông tư số 15/2021/TT-BTNMT), có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15/10/2021.

Bộ Tài nguyên và Môi trường đề nghị Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chỉ đạo, tổ chức phổ biến, quán triệt nội dung Thông tư số 15/2021/TT-BTNMT đến các cơ quan, tổ chức, cá nhân trên địa bàn, nhất là các cơ quan tiến hành tố tụng; giám định viên tư pháp, người giám định tư pháp theo vụ việc, tổ chức giám định tư pháp theo vụ việc trong lĩnh vực tài nguyên và môi trường.

Thực hiện bổ nhiệm giám định viên tư pháp và công bố tổ chức giám định tư pháp theo vụ việc, người giám định tư pháp theo vụ việc trong lĩnh vực tài nguyên và môi trường của địa phương theo thẩm quyền.

Thông tư số 15/2021/TT-BTNMT của Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định giám định tư pháp trong lĩnh vực tài nguyên và môi trường bao gồm 4 Chương 24 Điều. Thông tư này áp dụng đối với các cơ quan, cá nhân, tổ chức liên quan đến hoạt động giám định tư pháp trong lĩnh vực tài nguyên và môi trường, gồm: tiêu chuẩn, hồ sơ, thẩm quyền, trình tự, thủ tục bổ nhiệm, miễn nhiệm, cấp, thu hồi thẻ giám định tư pháp;tiêu chuẩn, điều kiện,công nhận, hủy bỏ, đăng tải danh sách người giám định tư pháp theo vụ việc, tổ chức giám định tư pháp theo vụ việc và thực hiện giám định tư pháp trong lĩnh vực tài nguyên và môi trường.

Lĩnh vực, quy chuẩn chuyên môn giám định tư pháp trong lĩnh vực tài nguyên và môi trường là các lĩnh vực thuộc chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Tài nguyên và Môi trường, Sở Tài nguyên và Môi trường, bao gồm: đất đai; tài nguyên nước; tài nguyên khoáng sản, địa chất; môi trường; khí tượng thủy văn; biến đổi khí hậu; đo đạc và bản đồ; quản lý tổng hợp tài nguyên và bảo vệ môi trường biển và hải đảo; viễn thám.

Việc lập và đăng tải danh sách người giám định tư pháp theo vụ việc trong lĩnh vực tài nguyên và môi trường được quy định tại Điều 8 Nghị định này. Cụ thể, Thủ trưởng đơn vị trực thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường rà soát, lựa chọn, lập danh sách người có đủ điều kiện quy định tại Điều 7 Thông tư này gửi Vụ Pháp chế để trình Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường quyết định công nhận người giám định tư pháp theo vụ việc trước ngày 30 tháng 11 hàng năm.

Danh sách người giám định tư pháp theo vụ việc gồm các thông tin: họ và tên; ngày, tháng, năm sinh; nơi công tác; trình độ, lĩnh vực chuyên môn; thời gian hoạt động chuyên môn ở lĩnh vực được đào tạo (tính theo số tháng); kinh nghiệm trong hoạt động chuyên môn và hoạt động giám định tư pháp (tính theo số lượng vụ việc tham gia thực hiện giám định tư pháp).

Trong thời hạn 07 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Vụ Pháp chế trình Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường quyết định công nhận người giám định tư pháp theo vụ việc; trường hợp từ chối, Vụ Pháp chế có văn bản thông báo cho Thủ trưởng đơn vị đề nghị và nêu rõ lý do.

Vụ Pháp chế gửi Văn phòng Bộ đăng tải danh sách người giám định tư pháp theo vụ việc được Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường quyết định công nhận trên Cổng thông tin điện tử Bộ Tài nguyên và Môi trường và gửi Bộ Tư pháp để lập danh sách chung.

Khi có sự thay đổi thông tin người giám định tư pháp theo vụ việc, thủ trưởng đơn vị trực thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường có văn bản gửi Vụ Pháp chế; trong thời hạn 07 ngày làm việc kể từ ngày nhận được văn bản đề nghị, Vụ trưởng Vụ Pháp chế trình Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường quyết định điều chỉnh danh sách người giám định theo vụ việc của Bộ Tài nguyên và Môi trường.

Sở Tài nguyên và Môi trường chủ trì, phối hợp Sở Tư pháp lựa chọn, trình Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định công nhận, hủy bỏ công nhận người giám định tư pháp theo vụ việc trong lĩnh vực tài nguyên và môi trường của địa phương. Sở Tài nguyên và Môi trường đăng tải danh sách người giám định tư pháp theo vụ việc trong lĩnh vực tài nguyên và môi trường của địa phương trên Cổng thông tin điện tử của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và Sở Tài nguyên và Môi trường.

Luật sư HỒNG HÀ

Những điều cần thận trọng với thuốc Molnupiravir điều trị Covid-19

(CHIEU1) Tuyệt đối tuân thủ nguyên tắc suy đoán vô tội

(LSVN) – Kiểm sát viên tuyệt đối tuân thủ nguyên tắc suy đoán vô tội.  Kiểm sát chặt chẽ mọi hoạt động tố tụng, đảm bảo bị can được hưởng đầy đủ các quyền được quy định tại khoản 2 Điều 60 Bộ luật Tố tụng hình sự. Đây là một trong những nội dung hướng dẫn công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra và kiểm sát xét xử sơ thẩm án ma túy năm 2022 của VKSND Tối cao.

Ảnh minh họa.

Ngày 05/01/2022, VKSND Tối cao ban hành Văn bản số 04/HD–VKSNDTC Hướng dẫn công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra và kiểm sát xét xử sơ thẩm án ma túy năm 2022 .

Theo đó, Viện Kiểm sát các cấp tuân thủ đúng các quy định của Luật Tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân, Bộ luật Tố tụng hình sự, Bộ luật Hình sự, Thông tư liên tịch và các Quy chế nghiệp vụ của ngành trong từng khâu công tác để xử lý các vụ án, vụ việc hình sự nói chung. Trong lĩnh vực công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp liên quan đến tội phạm ma túy cần chú ý các nội dung sau:

Tuân thủ tuyệt đối quy định về bảo mật

Viện Kiểm sát thường xuyên giữ mối liên hệ chặt chẽ với Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, các cơ quan, đơn vị trên địa bàn để nắm và quản lý đầy đủ nguồn tin về tội phạm ma túy, lưu ý quy định mới về thẩm quyền của Công an xã, phường, thị trấn, Đồn Công an có trách nhiệm tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm; các tố giác của bị can, bị cáo trong vụ án ma túy đang được thụ lý giải quyết ở giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án; quan tâm theo dõi nắm bắt các nguồn tin về tội phạm ma túy trên phương tiện thông tin đại chúng và mạng xã hội trên Internet; chú trọng các nguồn tin báo, tố giác về tội phạm ma túy do quần chúng nhân dân cung cấp gửi đến Viện kiểm sát, phải tuân thủ tuyệt đối quy định về bảo mật để đảm bảo an toàn cho những người cung cấp thông tin.

Không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội

Kiểm sát chặt chẽ về căn cứ pháp luật và điều kiện cần thiết khi Cơ quan điều tra quyết định áp dụng biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam, nhất là bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp. Viện Kiểm sát phải yêu cầu Cơ quan điều tra khẩn trương xác minh, phân loại xử lý kịp thời, trả tự do ngay cho người bị tạm giữ khi căn cứ không còn hoặc xét thấy không cần thiết phải tiếp tục áp dụng biện pháp tạm giữ, mục đích không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội nhưng cũng hạn chế đến mức thấp nhất tỉ lệ bắt, tạm giữ, gia hạn tạm giữ sau đó không thể xử lý hình sự.

Giám định tang vật là bắt buộc

Việc giám định tang vật, vật chứng thu giữ để khẳng định chất ma túy là bắt buộc, có ý nghĩa quyết định hướng xử lý đối với vụ việc và đối tượng liên quan. Viện Kiểm sát phải đôn đốc Cơ quan điều tra thực hiện ngay việc trích mẫu, trưng cầu giám định để có kết quả trả lời trước khi hết thời hạn tạm giữ đối tượng (09 ngày).

Đồng thời kiểm sát chặt chẽ nội dung Quyết định trưng cầu giám định, Kết luận giám định nếu thấy nội dung các văn bản này còn có điểm chưa rõ ràng hoặc mâu thuẫn với các tài liệu, chứng cứ khác thì phải yêu cầu Cơ quan điều tra, cơ quan thực hiện giám định giải thích, khắc phục ngay. Trường hợp cần thiết có thể yêu cầu trưng cầu giám định bổ sung hoặc giám định lại; tuyệt đối không được tự ý luận giải, cắt xén hoặc lựa chọn những nội dung theo ý chủ quan của mình để sử dụng làm căn cứ giải quyết vụ án, vụ việc.

Chỉ thực hiện phê chuẩn Quyết định khởi tố bị can khi có đủ căn cứ xác định tang vật, vật chứng thu giữ là ma túy (trừ trường hợp truy xét mở rộng vụ án không thể thu giữ được vật chứng); nếu tài liệu, chứng cứ do Cơ quan điều tra cung cấp để sử dụng làm căn cứ xét đề nghị phê chuẩn khởi tố bị can còn chưa đầy đủ, phải yêu cầu Cơ quan điều tra bổ sung hoặc cho Kiểm sát viên tiếp cận thêm các tài liệu đã thu thập trong hoạt động trinh sát để bổ trợ việc đề xuất phê chuẩn.

Phải tham gia cùng Điều tra viên hoặc trực tiếp lấy lời khai

Trường hợp người đang bị tạm giữ, bị khởi tố bị can không thừa nhận hành vi phạm tội, kêu oan thì Kiểm sát viên phải tham gia cùng Điều tra viên hoặc trực tiếp lấy lời khai để làm rõ các nội dung trong hồ sơ phục vụ việc đánh giá các tài liệu chứng cứ đã thu thập; yêu cầu Cơ quan điều tra nếu thuận lợi thì chủ động tạo điều kiện để người bào chữa tham gia việc lấy lời khai. Hầu hết các bị can phạm tội về ma túy đều bị áp dụng biện pháp ngăn chặn là tạm giam tại cơ sở giam giữ, do vậy việc ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh là hoạt động bắt buộc phải được thực hiện khi Điều tra viên tiến hành hỏi cung bị can, nếu không thực hiện là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng (khoản 6 Điều 183 Bộ luật Tố tụng hình sự). Kiểm sát viên phải yêu cầu Cơ quan điều tra tuyệt đối tuân thủ, tùy vào điều kiện thực tế để quyết định thực hiện việc ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh.

Tuyệt đối tuân thủ nguyên tắc suy đoán vô tội

Kiểm sát viên tham gia cùng Điều tra viên hỏi cung bị can hoặc trực tiếp hỏi cung bị can ít nhất một lần trên một bị can; đặc biệt lưu ý trường hợp bị can có đơn khiếu nại, kêu oan hoặc tố cáo Điều tra viên vi phạm pháp luật, thiếu khách quan trong hoạt động điều tra thu thập chứng cứ hoặc bị can có lúc nhận tội, có lúc không nhận tội. Tuyệt đối tuân thủ nguyên tắc suy đoán vô tội. 

Kiểm sát chặt chẽ mọi hoạt động tố tụng, đảm bảo bị can được hưởng đầy đủ các quyền được quy định tại khoản 2 Điều 60 Bộ luật Tố tụng hình sự. Trước khi vụ án kết thúc điều tra, Điều tra viên và Kiểm sát viên phối hợp đánh giá tài liệu, chứng cứ đã thu thập có trong hồ sơ,kịp thời phát hiện các vi phạm, thiếu sót để khắc phục, tránh để chuyển hồ sơ sang Viện Kiểm sát mới phát hiện vi phạm, thiếu sót phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung.

Giai đoạn truy tố, Kiểm sát viên tiếp tục nghiên cứu toàn bộ hồ sơ, thực hiện trích cứu hồ sơ, số hóa hồ sơ, xây dựng báo cáo tổng hợp, đánh giá phân tích các chứng cứ buộc tội, gỡ tội; tiến hành phúc cung, chú ý các trường hợp bị can không nhận tội, thay đổi lời khai hoặc lời khai vẫn còn mâu thuẫn mà chưa được làm rõ, nếu thuận lợi chủ động mời người bào chữa tham dự hoạt động hỏi cung; tổng hợp xây dựng báo cáo đề xuất, dự thảo cáo trạng truy tố; việc truy tố phải bảo đảm đúng người, đúng tội và đúng trình tự thủ tục quy định.

Đảm bảo thẩm quyền điều tra, yêu cầu điều tra

Lưu ý quy định về thẩm quyền điều tra theo Điều 163 Bộ luật Tố tụng hình sự,nếu thấy vụ án ma túy đang điều tra không thuộc thẩm quyền theo quy định của pháp luật thì phải yêu cầu Cơ quan điều tra cùng cấp làm thủ tục đề nghị Viện kiểm sát ra Quyết định chuyển vụ án đến đúng Cơ quan điều tra có thẩm quyền điều tra, trường hợp Viện kiểm sát đã yêu cầu mà Cơ quan điều tra không thực hiện thì Viện Kiểm sát chủ động ra quyết định chuyển vụ án theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 169 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Đề ra yêu cầu điều tra đối với mỗi vụ án là yêu cầu bắt buộc. Trong vụ án ma túy, yêu cầu điều tra không chỉ tập trung duy nhất vào việc làm rõ hành vi phạm tội của bị can mà phải chú ý đến việc xác minh, làm rõ nguồn tài sản bị can sử dụng vào việc phạm tội, tài sản do phạm tội mà có để xử lý theo quy định; ngoài hành vi phạm tội về ma túy thì bị can còn thực hiện thêm hành vi phạm tội về rửa tiền không; khẩn trương tiến hành xác minh tài sản của bị can đang sở hữu (cả sở hữu chung và sở hữu riêng) làm căn cứ đề nghị Tòa án áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản được quy định trong Bộ luật Hình sự; yêu cầu Cơ quan điều tra thực hiện việc kê biên, tạm giữ tài sản hoặc phong tỏa tài khoản ngân hàng trong thời gian sớm nhất có thể để đảm bảo cho công tác thi hành án sau này.

Tranh tụng đến cùng nhằm bảo vệ cáo trạng

Giai đoạn truy tố, Kiểm sát viên tiếp tục nghiên cứu toàn bộ hồ sơ, thực hiện trích cứu hồ sơ, số hóa hồ sơ, xây dựng báo cáo tổng hợp, đánh giá phân tích các chứng cứ buộc tội, gỡ tội; tiến hành phúc cung, chú ý các trường hợp bị can không nhận tội, thay đổi lời khai hoặc lời khai vẫn còn mâu thuẫn mà chưa được làm rõ, nếu thuận lợi chủ động mời người bào chữa tham dự hoạt động hỏi cung; tổng hợp xây dựng báo cáo đề xuất, dự thảo cáo trạng truy tố; việc truy tố phải bảo đảm đúng người, đúng tội và đúng trình tự thủ tục quy định.

Viện kiểm sát các cấp thực hiện đầy đủ các quy định về quy trình thủ tục và kỹ năng nghiệp vụ trong công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử sơ thẩm vụ án hình sự về ma túy, chủ động trong xét hỏi, tranh luận với người bào chữa và bị cáo; tham gia tranh tụng đến cùng nhằm bảo vệ quan điểm truy tố trong cáo trạng. Quá trình xét xử, Hội đồng xét xử có thể triệu tập Điều tra viên đến phiên tòa để làm rõ những vấn đề liên quan, Kiểm sát viên phải chủ động phối hợp tốt với Điều tra viên để chuẩn bị nội dung cần cung cấp cho tòa.

Có dấu hiệu tội phạm phải chuyển đến Cơ quan điều tra - VKSND Tối cao

Công tác thụ lý giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo cần chú ý những đơn, thư khiếu nại liên quan đến việc giám định khối lượng, hàm lượng, chất ma túy, về sử dụng các biện pháp nghiệp vụ khác, trường hợp cần thiết phải có văn bản tham khảo ý kiến của cơ quan chuyên môn trước khi trả lời. Đối với những đơn khiếu nại, tố cáo liên quan đến hoạt động tố tụng của Điều tra viên, Cán bộ điều tra, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, Thẩm phán, Thư ký, nếu có  dấu hiệu của tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp thì phải chuyển đến Cơ quan điều tra của VKSND Tối cao để xem xét giải quyết theo thẩm quyền.

ĐẠI HƯNG

Một số điểm mới nổi bật trong Nghị định số 67/2021/NĐ-CP của Chính phủ

(CHIEU2) Vụ tài xế container phải chi ‘tiền luật’ ở cửa khẩu Lạng Sơn: Điều tra, xem xét làm rõ để kịp thời xử lý

(LSVN) - 

Tài xế container chi hàng chục triệu đồng ‘tiền luật’ ở cửa khẩu Lạng Sơn

Liên quan đến vụ việc hơn 5.000 xe container nông sản đã bị kẹt ở Lạng Sơn trong thời gian dài vừa qua do phía Trung Quốc siết chặt cửa khẩu để chống dịch. Tuy nhiên, nhiều tài xế và chủ hàng phản ánh việc họ phải chịu chi phí “tiền luật” cho các “nhà luật” với số tiền lớn từ 10-30 triệu đồng mỗi xe nếu muốn hoàn tất các thủ tục thông quan.

Điều đáng nói là các khoản thu này không có hóa đơn, chứng từ. Theo giao kèo từ trước, các tài xế hoặc chủ xe container buộc phải nộp hết giấy tờ xe cho “nhà luật”. Các "nhà luật" sẽ lo mọi thủ tục, giấy tờ để xe thông quan sang Trung Quốc, sau đó báo chi phí về để tài xế thanh toán. 

Tài xế nhận giấy tờ từ "nhà luật" sau khi đã đóng đủ "tiền luật" (Ảnh: Báo Thanh niên).

Làm rõ vấn đề về thủ tục và chi phí thông quan của xe hàng container qua cửa khẩu Hữu Nghị, Ban Quản lý Khu kinh tế cửa khẩu Đồng Đăng – Lạng Sơn cho biết luôn quan tâm đến công tác quản lý việc thu giá các dịch vụ logistics tại các dự án bến bãi và đã thực hiện ban hành giá đối với các dịch vụ thuộc thẩm quyền của cơ quan quản lý nhà nước.

Cơ quan này cũng yêu cầu các doanh nghiệp xây dựng phương án giá để trình thẩm định đối với các dịch vụ thuộc thẩm quyền tự định giá của doanh nghiệp và phải niêm yết công khai toàn bộ danh mục giá các dịch vụ và thu theo giá đã niêm yết. Các trường hợp vi phạm sẽ bị xử lý nghiêm.

Ngày 12/01/2022, Ban Quản lý Khu kinh tế cửa khẩu Đồng Đăng - Lạng Sơn cho biết UBND tỉnh Lạng Sơn đã có văn bản giao công an tỉnh điều tra, xác minh tình trạng “làm luật” ở cửa khẩu với các xe hàng container nông sản.

Điều tra, xem xét làm rõ để kịp thời xử lý

Trao đổi với Tạp chí Luật sư Việt Nam, Luật sư Nguyễn Thanh Hà, Chủ tịch Công ty Luật SB Law cho biết việc 5.000 xe container nông sản bị kẹt ở Lạng Sơn trong thời gian qua đã mang lại những khó khăn to lớn không chỉ với các doanh nghiệp đem sản phẩm đi xuất khẩu mà còn cả với những đơn vị vận chuyển tham gia vào quá trình này. Nhất là thời điểm đang dần gần kề Tết Nguyên đán, khi các doanh nghiệp đang cần đẩy nhanh việc thông quan hàng hoá để thanh toán các chi phí vận hành trong suốt cả năm qua cũng như đảm bảo quyền lợi cho tập thể công, nhân viên của mình.

Yếu tố khách quan do dịch bệnh khiến phía Trung Quốc buộc phải kiểm soát chặt chẽ hơn việc thông quan dẫn đến quá trình thủ tục kéo dài chậm trễ. Tâm lý chung khi phải chờ đợi việc thông quan quá lâu khiến các tài xế mong muốn đưa kịp hàng hoá qua cửa khẩu càng nhanh chóng càng tốt, nhất là các container chứa nông sản rất dễ bị hư hỏng theo thời gian và điều kiện thời tiết không phù hợp.

Lợi dụng điều này, các “nhà luật” đã đưa ra mức giá cao chót vót lên tới 30 triệu đồng với cam kết sẽ thông quan thuận lợi. Những hành vi này nếu xét trên vấn đề đạo đức cho thấy thiếu đi sự thông cảm san sẻ giúp đỡ, lợi dụng tình hình khó khăn và tâm lý lo âu, nôn nóng của người khác để trục lợi cho mình.

Luật sư Nguyễn Thanh Hà, Chủ tịch Công ty Luật SB Law.

Dưới góc độ pháp lý, theo Luật sư Hà để xét hành vi này có dấu hiệu trái pháp luật hay không và mức xử phạt như thế nào thì sẽ cần sự vào cuộc của các cơ quan chức năng. Tuy nhiên, hành vi này trước tiên ẩn chứa rủi ro do không có bất cứ chứng từ, hoá đơn nào được đưa cho các tài xế làm căn cứ xác định có giao dịch này trong khi các tài xế lại phải giao toàn bộ giấy tờ xe cho “nhà luật” để làm thủ tục. Tất cả các thoả thuận đều chỉ thông qua tin nhắn, thậm chí chỉ bằng lời nói giữa hai bên và không có người làm chứng.

Luật sư Hà kiến nghị: "Để giải quyết và ngăn chặn những hành vi này diễn ra, thiết nghĩ, chúng ta phải thu hẹp “điều kiện môi trường” để những “nhà luật” này lợi dụng thực hiện. Trước tiên đó là việc phải có những chính sách giúp đẩy nhanh việc lưu thông hàng hoá qua cửa khẩu, nhất là ưu tiên với các mặt hàng nông sản. Bên cạnh đó, cũng cần phải đẩy mạnh việc tuyên truyền phố biến cho doanh nghiệp; khuyến khích và hướng dẫn doanh nghiệp thực hiện khai báo hồ sơ hải quan điện tử từ chiều hôm trước để đầu giờ sáng hôm sau đã hoàn thiện hồ sơ thông quan ngay hàng hóa,…

Không chỉ vậy, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa lực lượng Biên phòng, Công an để điều tiết giao thông cho xe ra vào, không bị ùn tắc, đảm bảo an ninh trật tự, không để xảy ra tình trạng mất ổn định gây ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp".

Ngoài ra, các cơ quan có thẩm quyền cũng cần điều tra, xem xét làm rõ việc các “nhà luật” này có được sự “hậu thuẫn” từ các cán bộ tại cửa khẩu hay không để kịp thời xử lý theo quy định về các tội phạm tham nhũng, các tội phạm về chức vụ trong Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi năm 2017 nếu phát hiện có các hành vi nhận hối lộ, lợi dụng chức vụ trong khi thi hành công vụ của những cán bộ này.

DUY ANH

Những quy định mới nhất về CCCD gắn chip có hiệu lực từ năm 2022

(SANG 2) - Đối tượng người có công nào được miễn giảm tiền sử dụng đất theo quy định mới nhất?

(LSVN) - Chính phủ ban hành Nghị định 131/2021/NĐ-CP quy định chi tiết và biện pháp thi hành Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng, trong đó quy định về các đối tượng người có công được miễn giảm tiền sử dụng đất.

Cụ thể, đối tượng hưởng chế độ miễn, giảm tiền sử dụng đất quy định tại Điều 103 Nghị định 131/2021/NĐ-CP, bao gồm:

- Người có công với cách mạng theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Pháp lệnh:

+ Người hoạt động cách mạng trước ngày 01/01/1945;

+ Người hoạt động cách mạng từ ngày 01/01/1945 đến ngày khởi nghĩa tháng Tám năm 1945;

+ Bà mẹ Việt Nam anh hùng;

+ Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân;

+ Anh hùng Lao động trong thời kỳ kháng chiến;

+ Thương binh, bao gồm cả thương binh loại B được công nhận trước ngày 31/12/1993; người hưởng chính sách như thương binh;

+ Bệnh binh;

+ Người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hoá học;

+ Người hoạt động cách mạng, kháng chiến, bảo vệ Tổ quốc, làm nghĩa vụ quốc tế bị địch bắt tù, đày;

+ Người hoạt động kháng chiến giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, làm nghĩa vụ quốc tế;

+ Người có công giúp đỡ cách mạng.

- Thân nhân của người có công với cách mạng bao gồm cha đẻ, mẹ đẻ, vợ hoặc chồng, con (con đẻ, con nuôi), người có công nuôi liệt sĩ.

- Các cơ quan, tổ chức và cá nhân có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan với chính sách ưu đãi người có công theo quy định của Pháp lệnh.

Về chế độ miễn tiền sử dụng đất với người có công, việc miễn tiền sử dụng đất trong hạn mức giao đất ở khi Nhà nước giao đất ở, chuyển mục đích sử dụng đất ở, công nhận quyền sử dụng đất ở, khi được mua nhà ở thuộc sở hữu của Nhà nước đối với các đối tượng: Người hoạt động cách mạng trước ngày 01/01/1945; Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, Anh hùng Lao động trong thời kỳ kháng chiến; Bà mẹ Việt Nam anh hùng;

Thương binh, bao gồm cả thương binh loại B được công nhận trước ngày 31/12/1993, người hưởng chính sách như thương binh, bệnh binh, người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học có tỉ lệ tổn thương cơ thể từ 81% trở lên; thân nhân liệt sĩ đang hưởng trợ cấp tuất nuôi dưỡng hằng tháng.

Miễn tiền sử dụng đất khi mua nhà ở (loại nhà nhiều tầng nhiều hộ ở) đang thuê thuộc sở hữu của Nhà nước theo Nghị định số 61/CP ngày 05/7/1994 của Chính phủ đối với người hoạt động cách mạng từ ngày 01/01/1945 đến ngày khởi nghĩa tháng Tám năm 1945.

TIẾN HƯNG

Một số điểm mới nổi bật trong Nghị định số 67/2021/NĐ-CP của Chính phủ

(SANG3) Nguyên tắc quy hoạch cán bộ trong Quy định mới của Bộ Chính trị

(LSVN) - Ban Chấp hành Trung ương đã ban hành Quy định 50-QĐ/TW ngày 27/12/2021 về công tác quy hoạch cán bộ. Trong đó, quy định rõ về nguyên tắc quy hoạch cán bộ.

Ảnh minh họa.

Quy định này quy định về nguyên tắc, mục đích, yêu cầu, đối tượng, nhiệm kỳ, hiệu lực, thẩm quyền, trách nhiệm, phương pháp, tiêu chuẩn, điều kiện, độ tuổi, cơ cấu, số lượng, quy trình, quản lý và công khai trong công tác quy hoạch cán bộ; áp dụng đối với cơ quan, tổ chức và cán bộ, công chức, viên chức trong hệ thống chính trị.

Theo đó, quy định nguyên tắc quy hoạch cán bộ như sau:

- Bảo đảm nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ; thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước; bảo đảm chặt chẽ, đồng bộ, liên thông, công khai, minh bạch trong công tác quy hoạch cán bộ.

- Đẩy mạnh việc phân cấp, phân quyền trên cơ sở nêu cao trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng, tập thể lãnh đạo cơ quan, đơn vị, người đứng đầu, đi đôi với tăng cường kiểm tra, giám sát trong công tác quy hoạch cán bộ.

- Coi trọng chất lượng, bảo đảm cân đối, hài hòa, hợp lý, liên thông giữa các khâu trong công tác cán bộ; giữa quy hoạch với đào tạo, bồi dưỡng; giữa đánh giá với quy hoạch, điều động, luân chuyển, bổ nhiệm và sử dụng cán bộ; giữa cán bộ quy hoạch với cán bộ đương nhiệm; giữa nguồn cán bộ ở Trung ương với địa phương, địa bàn và lĩnh vực công tác; giữa nguồn cán bộ tại chỗ với nguồn cán bộ từ nơi khác. Phấn đấu quy hoạch theo cơ cấu ba độ tuổi, tỉ lệ cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ người dân tộc thiểu số phù hợp với địa bàn, lĩnh vực công tác.

- Quy hoạch cấp ủy các cấp phải gắn với quy hoạch lãnh đạo, quản lý; lấy quy hoạch các chức danh cấp ủy làm cơ sở để quy hoạch các chức danh lãnh đạo, quản lý; quy hoạch cấp dưới làm cơ sở cho quy hoạch cấp trên; gắn kết chặt chẽ quy hoạch cán bộ của các địa phương, cơ quan, đơn vị trong hệ thống chính trị với quy hoạch cán bộ cấp chiến lược.

- Chỉ quy hoạch chức danh cao hơn, mỗi chức danh lãnh đạo, quản lý quy hoạch không quá ba cán bộ, một cán bộ quy hoạch không quá ba chức danh ở cùng cấp. Không thực hiện quy hoạch đồng thời với việc đề xuất bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử.

Quy định cũng nêu rõ các trường hợp đương nhiên ra khỏi quy hoạch. Cán bộ quá tuổi quy hoạch hoặc bị cấp có thẩm quyền thi hành kỷ luật từ hình thức khiển trách trở lên (đối với cá nhân) hoặc kết luận không bảo đảm tiêu chuẩn chính trị của chức danh quy hoạch thì đương nhiên ra khỏi quy hoạch.

DUY ANH

Những vướng mắc trong áp dụng chế định phạt tù nhưng cho hưởng án treo

(SANG4) Áp dụng ‘án treo’: Khó khăn, vướng mắc và đề xuất, kiến nghị

(LSVN) - Thực tiễn việc áp dụng chế định án treo trong những năm qua đã thể hiện được tính tích cực của chế định án treo. Tuy nhiên, một số quy định về chế định án treo không còn phù hợp với đời sống xã hội. Các hướng dẫn của các cơ quan chuyên môn được ban hành nhiều nhưng chưa thật sự khoa học là một trong các nguyên nhân làm cho nhận thức pháp luật về chế định án treo không thống nhất, dẫn đến việc áp dụng pháp luật về “án treo” trong thực tiễn xét xử gặp nhiều khó khăn, bất cập, làm giảm hiệu quả trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. 

Ảnh minh họa.

1. Những khó khăn vướng mắc

Nhận thức và xử lý không thống nhất các vụ án được dư luận xã hội quan tâm, lên án

Trường hợp thứ nhất: Ngày 02/8/2017, Trần Văn K. có hành vi dâm ô với cháu Nguyễn Thị N. 7 tuổi, phạm tội “Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi” theo khoản 1 Điều 146 Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 2015. K. có 4 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự (TNHS) theo khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS, không có tình tiết tăng nặng TNHS, K. có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, đã bồi thường xong cho người bị hại, K. có nơi cư trú, làm việc rõ ràng và người giám hộ, cũng như gia đình bị hại có ý kiến xin giảm nhẹ hình phạt và cho K. được hưởng án treo. 

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 10/2017/HS-ST ngày 29/12/2017, Tòa án Quân sự (TAQS) Khu vực 1 Quân khu V xử phạt Trần Văn K. 08 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 16 tháng. Sau đó, Viện Kiểm sát Quân sự Quân khu 5 ra Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 01/QĐ-VKS ngày 16/01/2018, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xét xử theo hướng tăng hình phạt và không cho hưởng án treo đối với bị cáo Trần Văn K. Ngày 10/4/2018, TAQS Quân khu V xét xử phúc thẩm, sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 10/2017/HS-ST ngày 29/12/2017 của TAQS Khu vực 1 Quân khu V, xử phạt Trần Văn K. 12 tháng tù. Qua vụ án trên có 2 quan điểm xử lý đối với Trần Văn K.

Quan điểm thứ nhất: Trần Văn K. có các điều kiện để được hưởng án treo nhưng hành vi dâm ô với cháu N. của K. làm tổn thương nghiêm trọng đến sự phát triển bình thường về tâm sinh lý và nhân cách của cháu N., gây dư luận xấu trong xã hội, bị xã hội lên án. Vì vậy K. không đủ điều kiện xử phạt tù nhưng cho hưởng án treo.

Quan điểm thứ hai: Trần Văn K. có đủ điều kiện để “xử phạt tù nhưng cho hưởng án treo”, bởi lẽ K. có 4 tình tiết giảm nhẹ TNHS theo khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS, không có tình tiết tăng nặng TNHS, K. có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, đã bồi thường xong cho người bị hại, K. có nơi cư trú, làm việc rõ ràng và người giám hộ, cũng như gia đình bị hại có ý kiến xin giảm nhẹ hình phạt, cho K. được hưởng án treo thể hiện tính nhân đạo của pháp luật hình sự nước ta.

Quan điểm của tác giả: Trần Văn K. không đủ điều kiện để “xử phạt tù nhưng cho hưởng án treo”, mặc dù K. có nhiều tình tiết giảm nhẹ, không có tình tiết tăng nặng TNHS, có nhân thân tốt, nhưng trường hợp của K. không được xem là “phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”, bởi lẽ hành vi của K. dâm ô với trẻ em gây dư luận xấu, bị xã hội lên án. Mặt khác Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 18/CT-TTg ngày 16/5/2017, đề nghị Tòa án nhân dân Tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao chỉ đạo Tòa án, Viện Kiểm sát nhân dân các cấp xử lý nghiêm các vụ việc bạo lực, xâm hại trẻ em. Vì vậy, chúng tôi nhất trí với quan điểm thứ nhất.

Trường hợp thứ hai: Trong ngày 24/12/2018, các Trung đội 1, 2, 3 của Đại đội 14, Trung đoàn 24, Sư đoàn 10, Quân đoàn 3 thực hiện nhiệm vụ bên ngoài đơn vị. Khoảng 15 giờ 00 phút cùng ngày, chỉ huy tập trung bộ đội về lại đơn vị, khi lên xe ô tô thì Nguyễn Đức H. - Binh nhất - chiến sĩ Trung đội 2 và Phạm Hữu A. - Trung sỹ, Khẩu đội trưởng - Trung đội 1 cãi nhau về việc giành chỗ ngồi. Thấy vậy, Nguyễn Thái S. – Thượng sĩ, Phó Trung đội trưởng, Trung đội 1 nói với H. “ai lên xe trước thì ngồi trước, xe này có phải xe nhà mày đâu mà đòi đánh nó”, S. và H. cãi nhau dẫn đến xô xát, H. dùng tay đánh vào mặt S. một cái, sau đó được mọi người can ngăn nên sự việc chấm dứt.

Đến khoảng 17 giờ 30 phút cùng ngày, xe ô tô đưa bộ đội về đến đơn vị, S. sang phòng ở của Trung đội 2 để tìm H. Trên đường đi S. nhặt một gậy gỗ dài khoảng 70cm cứng, rắn chắc mang theo. Khi đến phòng ở Trung đội 2, S. thấy H. đang ở trong phòng, S. tiến lại hỏi “sao mày đánh tao”, H. không nói gì, liền lúc đó S. đã dùng gậy gỗ đánh H., H. nghiêng người và đưa tay lên đỡ, gậy gỗ trượt qua tay trúng vào đầu phía trước trán gây chảy máu nên H. bị choáng, hai tay ôm đầu rồi nằm xuống nền nhà. S. tiếp tục dùng gậy đánh vào phần hông, tay, đùi bên trái và bộ phận sinh dục của H., H. đau nên kêu la thì được mọi người chạy đến can ngăn, S. bỏ ra ngoài. Hậu quả, H. bị thương tích 5%. Người bị hại Nguyễn Đức H. có đơn yêu cầu xử lý bằng pháp luật hình sự đối với Nguyễn Thái S.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 04/2019 ngày 14/6/2019 của TAQS Khu vực 1 Quân khu V áp dụng điểm a khoản 1 Điều 134; điểm b, đ, s khoản 1 Điều 51; khoản 1, khoản 2 Điều 65 BLHS; xử phạt bị cáo Nguyễn Thái S. 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách 12 tháng. Sau khi chủ tọa tuyên bố kết thúc phiên tòa, các thành phần quá khích đã quay video đăng tải trên mạng xã hội, thể hiện sự bức xúc của gia đình và người thân, cho rằng mức xử phạt đối với bị cáo là quá nhẹ, chưa nghiêm…

Sau đó, bị hại kháng cáo đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xem xét tăng mức hình phạt đối với bị cáo. Bản án hình sự phúc thẩm số 03/2019/HSPT ngày 17/10/2019 của TAQS Quân khu V sửa bản án sơ thẩm về hình phạt, áp dụng điểm a khoản 1 Điều 134; các điểm b, đ, s khoản 1 Điều 51 BLHS. Xử phạt bị cáo Nguyễn Thái S 09 tháng tù.

Qua vụ án trên, tác giả cho rằng, do bực tức vì bị đánh trong lúc lên xe ô tô trở về đơn vị, chiều ngày 24/12/2018, S. đã dùng gậy gỗ đánh và gây thương tích cho H. với tỉ lệ tổn thương cơ thể là 5%. Sau khi phạm tội bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Tự nguyện bồi thường, khắc phục hậu quả; hành vi của bị cáo thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên HĐXX cấp sơ thẩm đã áp dụng điểm a khoản 1 Điều 134; các điểm b, đ, s khoản 1 Điều 51; khoản 1, khoản 2 Điều 65 BLHS, xử phạt bị cáo S. 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách 12 tháng là phù hợp, đúng theo quy định của pháp luật. Vấn đề đặt ra là sau khi xét xử sơ thẩm thì người thân, gia đình bị hại quá khích đăng tải những hình ảnh trên mạng xã hội, gây ra dư luận không tốt. Có phải vấn đề này, gây ra áp lực cho cấp xét xử phúc thẩm và sau đó mặc dù không có thêm tình tiết gì mới, HĐXX cấp phúc thẩm đã sửa bản án sơ thẩm và không cho bị cáo được hưởng án treo?.

Căn cứ vào đặc điểm nhân thân người phạm tội để cho hưởng án treo, vẫn có sự nhận thức không thống nhất 

Khoản 1 Điều 65 BLHS quy định: Căn cứ vào nhân thân của người phạm tội, nếu xét thấy không cần thiết bắt chấp hành hình phạt tù… Như vậy, điều luật không hề đòi hỏi người phạm tội phải có nhân thân tốt như nhiều người vẫn quan niệm trong khoa học luật hình sự và thực tiễn gần đây [1]. Điều luật chỉ quy định các đặc điểm nhân thân là thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù mà thôi; thậm chí, có thời kỳ tình tiết này được hướng dẫn chỉ cần người phạm tội “Có nhân thân không xấu” là có thể cho hưởng án treo [2]. “nhân thân tốt” và “nhân thân không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù” tất nhiên không thể là một được. Chính đây là điều kiện cần phải được nhận thức chính xác, hướng dẫn áp dụng thống nhất án treo, mà không thu hẹp phạm vi áp dụng án treo theo tinh thần luật định.

Ví dụ qua vụ án: Nguyễn Văn C. làm nghề lái xe ôm, chở vợ đi ăn tiệc cưới (vợ làm Công nhân viên của Công ty TNHH MTV 72 Binh đoàn 15). Trên đường chở vợ về nhà, do không làm chủ được tay lái, C. đâm phải mố cầu làm cả 2 vợ chồng rơi xuống sông; hậu quả là vợ C. chết. Về nhân thân, trước đó khoảng 02 tháng, C. đã bị xử phạt hành chính vì vi phạm quy định về an toàn giao thông; C. có 02 con nhỏ (05 tuổi và 03 tuổi); gia đình thân thích nội ngoại không còn ai… TAQS Khu vực 1 Quân khu S cho rằng, mặc dù bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ TNHS, nhưng nhân thân không tốt, nên đã xử phạt C. 02 năm tù về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo khoản 2 Điều 260 BLHS.

Bị cáo kháng cáo xin được hưởng án treo. TAQS Quân khu S, xét xử phúc thẩm xử phạt bị cáo C. 02 năm tù nhưng cho hưởng án treo (thời gian thử thách là 48 tháng) vì cho rằng: không cần bắt bị cáo chấp hành hình phạt tù để có điều kiện nuôi dạy các con nhỏ”. Trong vụ án này rõ ràng bị cáo C. có nhân thân không tốt, nhưng nhân thân đó là không cần bắt phải chấp hành hình phạt tù theo luật định. Khi xét xử, việc đánh giá của Tòa án như thế nào là “không cần thiết bắt chấp hành hình phạt tù” xuất phát từ các yếu tố nhân thân người phạm tội và các tình tiết khác của vụ án, yêu cầu phòng, chống tội phạm… 

Trong trường hợp người phạm tội nhiều lần nhưng thuộc các trường hợp ít nghiêm trọng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ TNHS, có nơi cư trú rõ ràng, có khung hình phạt dưới 03 năm tù

Ví dụ qua vụ án: Ngày 22/7/2020, Trần Văn K. (sinh năm 1987) trộm cắp 01 điện thoại di động giá trị theo định giá là 2.200.000 đồng; ngày 16/8/2020, Trần Văn K. trộm cắp số tiền 2.010.000 đồng. Trần Văn K. bị khởi tố, truy tố về tội “Trộm cắp tài sản” với tình tiết tăng nặng là “phạm tội từ 02 lần trở lên”. Tuy nhiên, Trần Văn K. cũng có nhiều tình tiết giảm nhẹ ở khoản 1 Điều 51 BLHS và có hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn, là lao động chính trong gia đình, có con nhỏ mắc bệnh hiểm nghèo đang cần điều trị nhưng xét theo quy định tại khoản 5 Điều 3 Nghị quyết số 02/2018/NQ thì bị cáo K. không được hưởng án treo. 

Như vậy nếu áp dụng quy định này để xét xử không cho Trần Văn K. được hưởng án treo sẽ gây bất lợi cho người phạm tội, không thể hiện tính nhân đạo của pháp luật vì K. phạm tội nhiều lần nhưng cùng một tội và giá trị tài sản không lớn, vẫn thuộc khoản 1 Điều 173 BLHS, có khung hình phạt từ 06 tháng đến 03 năm… Có quan điểm cho rằng, khi gặp các trường hợp này, HĐXX thường “lách luật” bằng cách chuyển sang xử phạt cải tạo không giam giữ. Tuy nhiên theo quan điểm của chúng tôi, cần phải có hướng dẫn rõ ràng để áp dụng trên thực tiễn, tránh trường hợp “lách luật” như đã nói trên làm ảnh hưởng đến tính tôn nghiêm của pháp luật.

2. Một số đề xuất, kiến nghị

Một là, trong BLHS năm 2015 quy định chế định án treo chỉ có một điều luật nên không chứa đựng hết các yếu tố thuộc nội hàm của án treo. Chính sự hạn chế này làm cho việc hướng dẫn áp dụng pháp luật về án treo của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, vì chỉ có một điều luật nên không thể bao quát hết các nhu cầu của xã hội về án treo trong tình hình mới; đây cũng là một thiếu sót cần khắc phục.

Vì vậy, theo tác giả, qua thực tiễn thi hành BLHS năm 2015 nên nghiên cứu sửa đổi, bổ sung, xây dựng một chế định án treo mới theo hướng chế định án treo có nhiều điều luật. Tác giả đề xuất có thể là 03 điều luật: 01 điều luật nói về khái niệm, căn cứ và những điều kiện để áp dụng án treo; 01 điều luật quy định về thời gian thử thách và cách tính thời gian thử thách án treo; 01 điều luật quy định về quyền và nghĩa vụ của người được hưởng án treo. Đồng thời nên thay đổi chế định “án treo” trở thành chế định “miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện” cho dễ hiểu và phù hợp với tính chất của các biện pháp không tước tự do khác.

Hai là, bổ sung vào Nghị quyết số 02/2018/NQ: Không được xử phạt tù nhưng cho hưởng án treo đối với tội phạm mà dư luận xã hội lên án như tội “Dâm ô với người dưới 16 tuổi”,... Đối với các tội phạm về chức vụ, tùy vào hành vi phạm tội cụ thể, có thể xem xét cho người phạm tội được hưởng án treo để đảm bảo sự khoan hồng, nhân đạo của pháp luật hình sự nước ta.

Ba là, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao cần quán triệt chính sách hình sự nhân đạo, hướng thiện, coi trọng tính phòng ngừa, hạn chế hình phạt tù của Đảng và Nhà nước ta, nhận thức chính xác, đầy đủ, quán triệt tốt Điều 65 BLHS năm 2015 và tổng kết thực tiễn xét xử những năm qua để tiếp tục sửa đổi, bổ sung Nghị quyết số 02/2018/NQ, đặc biệt là hướng dẫn về điều kiện, nhất là điều kiện về nhân thân không cần bắt chấp hành hình phạt tù để áp dụng án treo; hạn chế các hướng dẫn mang tính máy móc, cứng nhắc trong áp dụng chế định này.

Trên đây là quan điểm của tác giả, mong được sự quan tâm, đóng góp ý kiến của đồng nghiệp và bạn đọc./.

NGUYỄN TẤT TRÌNH

Tòa án quân sự Khu vực 1 Quân khu 5

Một số vấn đề về bảo quản vật chứng

(CHIEU3) Đề xuất hỗ trợ các cơ sở y tế công lập do tác động của dịch Covid-19

(LSVN) - Bộ Y tế đang dự thảo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về cơ chế hỗ trợ chi thường xuyên cho các cơ sở y tế công lập thu không đủ chi do tác động của dịch Covid-19.

Ảnh minh họa.

Theo Bộ Y tế, từ năm 2020 đến nay, đại dịch Covid-19 đã ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động của nhiều đơn vị sự nghiệp y tế công lập, đặc biệt là các đơn vị sự nghiệp y tế công lập tại các địa bàn có diễn biến dịch phức tạp như Hà Nội, TP. HCM, Bình Dương, Đồng Nai, Long An, Tiền Giang…

Số lượng bệnh nhân đến khám và điều trị tại các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh giảm, trong khi giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh chưa kết cấu đủ chi phí theo lộ trình (mới tính chi phí trực tiếp và tiền lương), dẫn tới nguồn thu sự nghiệp của nhiều đơn vị bị giảm sút. Bên cạnh đó, các bệnh viện phải thực hiện giãn cách trong bệnh viện, giảm số lượng bệnh nhân, hạn chế tiếp nhận người bệnh không phải trường hợp cấp cứu; các bệnh viện phải tăng chi để thực hiện các giải pháp phòng, chống dịch Covid-19 như mua trang phục chống dịch, dung dịch sát khuẩn, khử khuẩn, kit test, sinh phẩm xét nghiệm...

Trước tình hình dịch Covid-19 tiếp tục diễn biến hết sức phức tạp như hiện nay, mặc dù các đơn vị đã thực hiện nhiều giải pháp rà soát, sắp xếp các nhiệm vụ chi, tiết kiệm, cắt giảm các khoản chi chưa thực sự cần thiết để ưu tiên nguồn kinh phí chi trả tiền lương, phụ cấp và các khoản đóng góp theo tiền lương cho cán bộ, viên chức, bảo đảm một số nội dung chi thường xuyên thiết yếu của đơn vị... nhưng do nguồn thu bị giảm sút, nên nhiều đơn vị không đủ kinh phí duy trì hoạt động thường xuyên, đặc biệt là các đơn vị tự bảo đảm kinh phí chi thường xuyên. Có đơn vị không có nguồn để chi lương, chi thu nhập tăng thêm ảnh hưởng không nhỏ đến tâm lý của cán bộ, viên chức và người lao động.

Thực hiện Nghị quyết số 86/NQ-CP ngày 06/8/2021 của Chính phủ về các giải pháp cấp bách phòng, chống dịch bệnh Covid-19, trong đó giao Bộ Y tế tổng hợp, báo cáo Thủ tướng Chính phủ về cơ chế hỗ trợ chi thường xuyên cho các cơ sở y tế công lập thu không đủ chi do tác động của dịch... xuất phát từ các lý do nêu trên, việc xây dựng dự thảo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về cơ chế hỗ trợ chi thường xuyên cho các cơ sở y tế công lập thu không đủ chi do tác động của dịch Covid-19 là cần thiết.

Theo dự thảo, mức hỗ trợ chi thường xuyên là số bổ sung dự toán bằng số dự kiến chênh lệch thu nhỏ hơn chi thường xuyên năm 2021 của cơ sở y tế công lập sau khi trừ đi các điểm sau đây:

Dự toán chi thường xuyên năm 2021 đã được ngân sách Nhà nước hỗ trợ (nếu có).

Trường hợp đơn vị được ngân sách Nhà nước thanh toán chi phí xét nghiệm, điều trị Covid-19 theo giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh, hoặc theo nguyên tắc thực thanh, thực chi theo quy định từ nguồn kinh phí phòng, chống dịch Covid-19, kinh phí chi trả tiền lương, phụ cấp, các khoản đóng góp theo lương cho cán bộ tăng cường chống dịch (kinh phí không giao tự chủ) thì đơn vị phải tổng hợp số được ngân sách Nhà nước thanh toán vào số thu và số chi của đơn vị để xác định chênh lệch thu-chi thường xuyên trong năm.

Bên cạnh đó, dự thảo cũng nêu rõ việc hỗ trợ chi thường xuyên cho các cơ sở y tế công lập thu không đủ chi do tác động của dịch Covid-19 được thực hiện trong năm 2021.

HÀ ANH

Định ước tài sản trước hôn nhân theo Luật Hôn nhân và gia đình 2014

 (CHIEU4) Facebook đối mặt với vụ kiện hơn 3 tỉ USD tại Anh

(LSVN) - "Gã khổng lồ" mạng xã hội Facebook, hiện đã đổi tên là Meta, đang phải đối mặt với vụ kiện hơn 2,3 tỉ bảng Anh (3,2 tỉ USD) tại Anh với cáo buộc lạm dụng vị thế chi phối thị trường, khai thác dữ liệu cá nhân của 44 triệu người dùng.

Biểu tượng Facebook và Meta. Ảnh: AFP/TTXVN.

Trong một thông báo phát ngày 14/01, bà Liza Lovdahl Gormsen, cố vấn cao cấp của Cơ quan Quản lý hành vi tài chính (FCA) đồng thời là một nhà nghiên cứu luật cạnh tranh, tuyên bố thay mặt các khách hàng tại Anh sử dụng Facebook trong thời gian từ năm 2015 đến 2019 khởi kiện hãng công nghệ này.

Đơn kiện đã được gửi đến Tòa án cạnh tranh London, theo đó, Facebook bị cáo buộc kiếm hàng tỉ bảng Anh bằng cách áp đặt các điều khoản và điều kiện không công bằng buộc khách hàng cung cấp các dữ liệu cá nhân có giá trị để được truy cập mạng xã hội này. 

Hãng luật Quinn Emanuel Urquhart & Sullivan đại diện cho bà Lovdahl Gormsen đã thông báo tới Facebook về vụ kiện. Trước đó, Facebook đã khẳng định khách hàng sử dụng các dịch vụ của mạng xã hội này vì những giá trị mà nền tảng này mang lại và khách hàng có quyền kiểm soát những thông tin mà họ chia sẻ trên các nền tảng của Meta. 

Vụ kiện trên được thông báo chỉ vài ngày sau khi Facebook thất bại trong nỗ lực ngăn chặn vụ kiện chống độc quyền của Ủy ban Thương mại liên bang Mỹ (FTC). Vụ kiện của FTC nhằm vào Facebook được xem là một trong những thách thức lớn nhất của chính phủ Mỹ đối với một công ty công nghệ trong nhiều thập kỷ qua, trong bối cảnh chính quyền Washington nỗ lực ngăn chặn việc mở rộng quyền lực thị trường của các hãng công nghệ lớn. 

Theo bà Gornsen, trong vòng 17 năm từ khi ra đời, Facebook đã trở thành mạng xã hội duy nhất ở Vương quốc Anh cho phép người dùng kết nối với bạn bè và gia đình cùng một nơi, nhưng mặt tiêu cực mạng xã hội lớn nhất này là Facebook lạm dụng vị thế chi phối thị trường để áp đặt các điều khoản và điều kiện không công bằng đối với người sử dụng ở dân Anh, qua đó cho phép nền tảng này khai thác thông tin cá nhân của họ.

Bà cũng cáo buộc Facebook thu thập dữ liệu trên nền tảng này và qua các cơ chế như Facbook Pixel, qua đó xây dựng một “bức tranh toàn thể” về việc sử dụng Internet và tạo hồ sơ dữ liệu có giá trị của người dùng.

TTXVN

Những vướng mắc trong áp dụng chế định phạt tù nhưng cho hưởng án treo

(SANG5) Án lệ số 51/2021/AL1 về xác định quyền sở hữu đối với khu vực để xe ô tô của nhà chung cư

(LSVN) - Án lệ số 51/2021/AL1 được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 25 tháng 11 năm 2021 và được công bố theo Quyết định số 594/QĐ-CA ngày 31 tháng 12 năm 2021 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

Ảnh minh họa.

Nguồn án lệ:

Bản án số 82/2020/DS-PT ngày 06 + 23/3/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội về vụ án “Yêu cầu tuyên bố hợp đồng dịch vụ vô hiệu, yêu cầu công nhận quyền sở hữu tầng hầm” giữa nguyên đơn là Công ty cổ phần đầu tư Xây dựng và phát triển đô thị S với bị đơn là Ban Quản trị tòa nhà hỗn hợp H; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm 03 người.

Vị trí nội dung án lệ:

Đoạn 22 phần “Nhận định của Tòa án”.

Khái quát nội dung án lệ:

- Tình huống án lệ:

Khu vực để xe ô tô của chung cư được xây dựng theo quy chuẩn và không được phân bổ vào giá bán căn hộ trong hợp đồng mua bán căn hộ chung cư.

- Giải pháp pháp lý:

Trường hợp này, Tòa án phải xác định khu vực để xe ô tô của chung cư thuộc quyền sở hữu riêng của chủ đầu tư.

Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ:

- Điều 70 Luật Nhà ở năm 2005 (tương ứng với Điều 100 Luật Nhà ở năm 2014);

- Điểm b khoản 1 và điểm c khoản 2, khoản 3 Điều 49 Nghị định số 71/2010/NĐ-CP ngày 23/6/2010 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Nhà ở;

- Thông tư số 02/2016/TT-BXD ngày 15/02/2016 của Bộ Xây dựng về ban hành quy chế quản lý, sử dụng nhà chung cư.

Từ khóa của án lệ:

“Nhà chung cư”; “Tầng hầm để xe ô tô”; “Quyền sở hữu riêng của chủ đầu tư”.

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo đơn khởi kiện và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn và người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày:

Công ty cổ phần đầu tư Xây dựng và Phát triển đô thị S (gọi tắt là Công ty S) được cơ quan có thẩm quyền cấp phép làm chủ đầu tư dự án Tòa nhà hỗn hợp H, tại địa chỉ km 10 đường A, phường B, quận C, Hà Nội (nay là số 131 đường A, phường B, quận C, Hà Nội).

Theo hồ sơ pháp lý dự án được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phê duyệt, Tòa nhà gồm 34 tầng nổi (chưa bao gồm tầng kỹ thuật và tầng mái) và 02 tầng hầm. Trong đó, khu thương mại dịch vụ, văn phòng từ tầng 1 đến tầng 8 do Công ty S trực tiếp kinh doanh hoặc cho thuê kinh doanh. Tòa nhà được khởi công xây dựng từ cuối năm 2008 đến cuối năm 2010 thì hoàn thành; Khu vực 02 tầng hầm và các tầng thương mại dịch vụ của tòa nhà thuộc quyền sở hữu riêng của Công ty, được đưa vào danh mục bất động sản đầu tư để trích khấu hao theo quy định; Chi phí xây dựng khu tầng hầm và khu dịch vụ thương mại được tính riêng không phân bổ vào giá bán khu căn hộ của tòa nhà. Từ tháng 11/2008, Công ty mở bán căn hộ và cuối năm 2010 tòa nhà chính thức đi vào sử dụng.

Sau khi đi vào hoạt động, Công ty S đã thuê một đơn vị chuyên nghiệp quản lý, vận hành tòa nhà, sau đó giao cho Ban quản lý dự án nhà ở H một đơn vị trực thuộc của Công ty S thực hiện. Từ tháng 8/2016, Ban quản lý dự án nhà ở H đã chuyển thành Công ty TNHH MTV quản lý và kinh doanh dịch vụ D để đáp ứng yêu cầu về công tác quản lý, vận hành tòa nhà theo đúng quy định của Thông tư số 02/2016/TT-BXD về ban hành quy chế quản lý, sử dụng nhà chung cư.

Ngày 26/9/2016, Công ty S và các chủ sở hữu tại tòa nhà đã tổ chức Hội nghị nhà chung cư lần đầu để bầu Ban quản trị tòa nhà và ban hành quy chế hoạt động của Ban quản trị tòa nhà hỗn hợp H. Theo đó, thành viên Ban quản trị tòa nhà có 05 người gồm 03 người đại diện cho khối cư dân, 01 người đại diện cho khối thương mại, văn phòng và 01 người đại diện cho phía Chủ đầu tư. Ban quản trị tòa nhà được tổ chức hoạt động theo mô hình Hội đồng quản trị của Hợp tác xã. Ban quản trị tòa nhà được UBND quận Hà Đông công nhận theo Quyết định số 10974/QĐ - UBND ngày 15/11/2016.

Sau khi Ban quản trị tòa nhà được thành lập, Công ty TNHH MTV quản lý và kinh doanh dịch vụ D vẫn tiếp tục là đơn vị thực hiện quản lý, vận hành tòa nhà. Tuy nhiên, đến ngày 24/8/2017, Ban quản trị tòa nhà đại diện là ông Đỗ Thái S1 - Trưởng Ban quản trị đã ký hợp đồng dịch vụ quản lý vận hành nhà chung cư số 01/2017/HĐDV với đơn vị cung cấp dịch vụ quản lý vận hành nhà chung cư mới là Công ty cổ phần G nhưng không tuân theo quy định của pháp luật, đó là:

- Ban quản trị tòa nhà chưa tổ chức họp và lập biên bản để đạt được sự nhất trí, đồng thuận của ít nhất 75% thành viên Ban quản trị tòa nhà về việc đề xuất thay đổi đơn vị quản lý vận hành theo quy định tại Điều 25 Thông tư số 02/2016/TT-BXD ;

- Ban quản trị tòa nhà chưa tổ chức họp Hội nghị nhà chung cư để đạt được sự đồng thuận của ít nhất trên 50% đại diện chủ sở hữu của tòa nhà về việc đồng ý thay đổi đơn vị cung cấp dịch vụ quản lý vận hành nhà chung cư theo quy định tại Điều 14 Thông tư số 02/2016/TT-BXD ;

- Nội dung hợp đồng dịch vụ quản lý vận hành ký giữa ông Đỗ Thái S1 - Trưởng Ban quản trị tòa nhà và Công ty cổ phần G ngày 24/8/2017 có điều khoản xâm phạm đến quyền sở hữu của Chủ đầu tư, cụ thể: Ban quản trị tòa nhà đã tự định đoạt phần tài sản thuộc quyền sở hữu riêng của Công ty S khi chưa được sự đồng ý của Công ty: tại điểm n khoản 1 Điều 3 của Hợp đồng dịch vụ giữa Ban quản trị và Công ty cổ phần G, hai bên đã tự thoả thuận dịch vụ trông giữ xe tại 02 tầng hầm của tòa nhà, nơi thuộc quyền sở hữu riêng của Công ty S.

Trong Hợp đồng mua bán căn hộ cũng như trong toàn bộ tài liệu hồ sơ liên quan, không có điều khoản nào ghi nhận hay thể hiện nội dung tầng hầm trông giữ xe ô tô, xe máy và các tầng từ tầng 1 đến tầng 8 là thuộc sở hữu chung của tòa nhà, tuy nhiên Ban quản trị tòa nhà đã tự ý thuê Công ty G và Công ty Y chiếm giữ và thu tiền trông giữ xe bất chính tại 02 tầng hầm từ tháng 9/2017 đến nay. Ban quản trị tòa nhà cho người xây bịt cửa kho siêu thị tầng 1 phía sau tòa nhà nên đã làm cản trở hoạt động kinh doanh và lối thoát nạn của siêu thị Mediamart Thanh Xuân suốt từ tháng 10/2017 đến nay.

Công ty S đề nghị Tòa án công nhận phần diện tích trông giữ xe theo hồ sơ hoàn công tại tầng hầm 1 với diện tích là 2.330m2, tầng hầm 2 với diện tích là 2.050m2 thuộc quyền sở hữu của Chủ đầu tư. Buộc Ban quản trị tòa nhà và Công ty cổ phần G trả lại phần diện tích này cho Công ty S; Tuyên hợp đồng dịch vụ quản lý vận hành nhà chung cư số 01/2017/HĐDV ký ngày 24/8/2017 giữa Ban quản trị tòa nhà với Công ty cổ phần G và Hợp đồng cung cấp dịch vụ số 02/2019/HĐDV/BQT-YB ký ngày 01/2/2019 giữa Ban quản trị tòa nhà với Công ty TNHH quản lý vận hành nhà chung cư Y vô hiệu; Buộc Ban quản trị tòa nhà và Công ty cổ phần G khôi phục lại nguyên trạng cửa phía sau của tầng 1 siêu thị Mediamart Thanh Xuân và bồi thường thiệt hại do hành vi xâm phạm trái phép, ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của Công ty S.

Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên toà sơ thẩm, nguyên đơn rút yêu cầu bồi thường thiệt hại do hành vi xâm phạm trái phép đối với diện tích trông giữ xe tại 02 tầng hầm làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của Công ty S, bảo lưu quyền khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại này bằng một vụ án khác.

Bị đơn: Ban quản trị tòa nhà hỗn hợp H

- Ông Đỗ Thái S1 trình bày:

Ban quản trị Tòa nhà hỗn hợp H được thành lập hợp pháp và được công nhận theo Quyết định số 10974 ngày 15/11/2016 của Ủy ban nhân dân quận Hà Đông. Theo quyết định này, thành viên Ban quản trị gồm: ông Đỗ Thái S1, ông Trần Văn T, ông Nguyễn Vũ G1, ông Trịnh Xuân T1, ông Nguyễn Khánh T2. Đến khoảng tháng 3/2017 thì bà Bùi Thị N thay ông Nguyễn Khánh T2. Đến ngày 27/8/2018, ông Nguyễn Văn L thay bà Bùi Thị N, hiện tại Ban quản trị gồm 5 thành viên là ông Đỗ Thái S1, ông Trần Văn T, ông Nguyễn Vũ G1, ông Trịnh Xuân T1 và ông Nguyễn Văn L. Ban đầu khi chung cư mới đi vào vận hành chưa có Ban quản trị thì việc quản lý, vận hành tòa nhà do một Công ty chuyên nghiệp được Công ty S thuê thực hiện nhưng không hợp pháp, đến ngày 15/11/2016 khi Ban quản trị tòa nhà được thành lập đã thuê Công ty G thực hiện việc vận hành quản lý tòa nhà này. Quá trình thực hiện hợp đồng dịch vụ do Công ty G thực hiện không đúng hợp đồng nên Ban quản trị đã thanh lý hợp đồng với Công ty G vào ngày 23/3/2019. Ngay sau đó, Ban quản trị tiếp tục ký hợp đồng dịch vụ vận hành quản lý tòa nhà với Công ty TNHH quản lý vận hành nhà chung cư Y.

Đối với việc nguyên đơn có yêu cầu tuyên Hợp đồng quản lý vận hành vô hiệu thì bị đơn không đồng ý vì nguyên đơn không có thẩm quyền yêu cầu giải quyết việc này, lý do cuối năm 2010 tòa nhà mới được đưa vào sử dụng. Theo quy định Thông tư số 02 của Bộ Xây dựng thì sau khi sử dụng 01 năm, chủ đầu tư có trách nhiệm bầu ra Ban quản trị tòa nhà. Tuy nhiên quá thời hạn trên, chủ đầu tư đã không thành lập Ban quản trị theo quy định pháp luật. Ban quản trị tòa nhà chỉ được thành lập sau 6 năm, cụ thể là vào ngày 26/9/2016. Ngày 24/8/2017, Ban quản trị ký hợp đồng dịch vụ với Công ty G. Quá trình thực hiện hợp đồng, Công ty G đã thực hiện đầy đủ và đúng theo các quy định của pháp luật, không xảy ra vi phạm gì. Mặt khác, đến thời điểm này, Ban quản trị cũng đã thanh lý hợp đồng đối với Công ty G. Hơn nữa, diện tích của chủ đầu tư không còn ở Tòa nhà này nữa nên không có quyền được yêu cầu tuyên hủy hợp đồng dịch vụ với Công ty G.

Đối với yêu cầu xác định diện tích trông giữ xe tại tầng hầm thuộc chủ đầu tư. Căn cứ vào nội dung của hợp đồng thì không có bất cứ điều khoản nào quy định tầng hầm này thuộc quyền quản lý, sử dụng của chủ đầu tư, như vậy diện tích 2 tầng hầm này là diện tích sở hữu chung. Theo báo cáo tài chính từ năm 2010 đến 2016 của Công ty đều không nhắc đến diện tích để xe của 2 tầng hầm. Từ năm 2016 đến nay, Công ty lại đưa thêm diện tích này vào báo cáo. Đề nghị chủ đầu tư xuất trình phương án tài chính được Sở Tài chính phê duyệt gồm: hồ sơ xây dựng tòa nhà được Sở Xây dựng phê duyệt và hồ sơ hoàn công kiểm toán nhà nước phê duyệt và văn bản của Sở Tài chính. Nếu như 3 đơn vị này xác định chủ đầu tư có bỏ vốn xây dựng 2 tầng hầm, theo Luật Nhà ở năm 2015, phần để xe của tòa nhà là nơi để xe cho dân cư nên phải xác định đó là sở hữu chung. Do vậy sẽ không trả lại cho chủ đầu tư diện tích trông giữ xe tại 2 tầng hầm này mà tính giá trị để trả cho chủ đầu tư.

Đối với yêu cầu khôi phục lại nguyên trạng cửa kho phía sau của siêu thị tầng 1 và yêu cầu Ban quản trị bồi thường thiệt hại do hành vi xâm phạm, chiếm dụng trái phép tài sản của Công ty theo quy định của pháp luật, Ban quản trị không liên quan và không thực hiện những việc này nên không có trách nhiệm phải bồi thường hay khôi phục hiện trạng.

- Ông Trịnh Xuân T1 và ông Trần Văn T, thành viên Ban quản trị trình bày:

Ông T1 và ông T có cùng quan điểm với Công ty S. Đề nghị Tòa án tuyên Hợp đồng dịch vụ quản lý vận hành nhà chung cư số 01/2017/HĐDV ký ngày 24/8/2017 giữa Ban quản trị tòa nhà với Công ty cổ phần G và Hợp đồng cung cấp dịch vụ số 02/2019/HĐDV/BQT-YB ký ngày 01/2/2019 giữa Công ty TNHH quản lý vận hành nhà chung cư Y với Ban quản trị tòa nhà là vô hiệu; Công nhận phần diện tích trông giữ xe tại tầng hầm 1 với diện tích là 2.330m2, tầng hầm 2 với diện tích là 2.050m2 thuộc quyền sở hữu của Chủ đầu tư; Buộc Ban quản trị tòa nhà và Công ty cổ phần G trả lại phần diện tích này cho Công ty S; Buộc Ban quản trị tòa nhà và Công ty cổ phần G khôi phục lại nguyên trạng cửa phía sau của siêu thị tầng 1 và bồi thường thiệt hại do hành vi xâm phạm trái phép làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của Công ty.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Công ty Cổ phần G (gọi tắt là Công ty G) trình bày:

Công ty G có đăng ký kinh doanh về lĩnh vực quản lý vận hành nhà chung cư. Ngày 24/8/2017, Công ty có ký Hợp đồng dịch vụ với Ban quản trị Tòa nhà hỗn hợp H, đại diện là ông Đỗ Thái S1 để cung cấp dịch vụ vận hành tòa nhà chung cư số 131 đường A, phường B, quận C. Theo thỏa thuận trong hợp đồng có hiệu lực kể từ ngày 01/9/2017 đến ngày 30/12/2019. Công việc theo hợp đồng là cung cấp các dịch vụ an ninh, vệ sinh, kỹ thuật và các dịch vụ khác... Hợp đồng được thỏa thuận lấy thu và chi trên nguyên tắc đơn giá do Ban quản trị quy định. Số lượng xe và m2 tính tiền dịch vụ do Ban quản trị cung cấp. Công ty G thu tiền trên cơ sở số liệu do Ban quản trị đưa ra và Ban quản trị quy định mức phí đối với tất cả các loại dịch vụ.

Sau khi ký hợp đồng, Công ty G đã trả toàn bộ kinh phí đầu tư ban đầu như: thanh toán tiền điện cho Điện lực Hà Đông tháng 8; trang thiết bị kỹ thuật phục vụ vận hành, bãi xe thông minh...cho tới hiện tại Công ty vẫn chưa thu hồi hết vốn đầu tư, vẫn hỗ trợ tại dự án tòa nhà này khoảng hơn 100.000.000 đồng. Đến ngày 15/01/2019 Công ty được biết Ban quản trị đã ký hợp đồng dịch vụ vận hành tòa nhà với Công ty khác. Ban quản trị tự ý đưa Công ty khác vào vận hành tòa nhà, đơn phương chấm dứt hợp đồng với Công ty G mà không có sự trao đổi, đến nay cũng chưa có văn bản nào về việc thanh lý hợp đồng. Thực tế, từ ngày 20/01/2019, Công ty G đã không hoạt động quản lý vận hành tại tòa nhà này.

Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Công ty hiện tại không còn thực hiện việc quản lý vận hành tòa nhà này, không còn liên quan nên không có ý kiến gì, những vấn đề phát sinh giữa Công ty G với Ban quản trị tòa nhà, Công ty sẽ yêu cầu giải quyết trong vụ án khác.

2. Công ty TNHH quản lý vận hành nhà chung cư Y (gọi tắt là Công ty Y) trình bày:

Hiện tại công ty Y đang ký kết và thực hiện Hợp đồng cung cấp dịch vụ cho Tòa nhà hỗn hợp H từ ngày 01/3/2019. Công ty có ký kết hợp đồng với Ban quản trị, không ký với Công ty D. Công ty đã ký kết và thực hiện hợp đồng theo đúng quy định của pháp luật. Khi Công ty đến thực hiện việc quản lý vận hành tòa nhà thi không phải đầu tư trang bị kỹ thuật phục vụ: như máy quẹt thẻ.... Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, Công ty Y đề nghị giải quyết theo quy định của pháp luật.

3. Công ty cổ phần M Việt Nam (gọi tắt là Công ty M) trình bày:

Tháng 9/2010, Công ty M có ký hợp đồng thuê mặt bằng với Công ty S tại Tòa nhà H, địa chỉ 131 đường A, phường B, quận C. Ban đầu hai bên ký hợp đồng thuê tầng hầm và các tầng từ tầng 1 đến tầng 5 của tòa nhà, đến khoảng năm 2014, Công ty M chỉ thuê tầng 1,2,3 của tòa nhà để kinh doanh và làm văn phòng. Quá trình thực hiện hợp đồng không xảy ra vấn đề gì, đến năm 2017, sau khi Ban quản trị tòa nhà được thành lập, Ban quản trị đã liên tục gây khó khăn và gây thiệt hại cho việc kinh doanh của Công ty M. Nay Công ty S khởi kiện, Công ty M đồng ý với yêu cầu khởi kiện của Công ty S, đề nghị Ban quản trị chấm dứt hành động cản trở hoạt động kinh doanh của Công ty M và phá bỏ bức tường bao phía sau tầng 1.

Tại bản án dân sự sơ thẩm số 40/2019/DSST ngày 31/10/2019 của Tòa án nhân dân quận Hà Đông, Hà Nội đã xét xử:

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty cổ phần đầu tư xây dựng và phát triển đô thị S.

- Xác định và công nhận diện tích trông giữ ô tô tại tầng hầm 1 là 942,5m2 và diện tích trông giữ xe ô tô tại tầng hầm 2 là 1.882,5m2 thuộc quyền sở hữu của Công ty cổ phần đầu tư xây dựng và phát triển đô thị S.

- Tuyên bố Hợp đồng dịch vụ quản lý vận hành tòa nhà số 01 ngày 24/8/2017 giữa ông Đỗ Thái S1 - Trưởng Ban quản trị tòa nhà và Công ty CP G và Hợp đồng cung cấp dịch vụ số 02/2019/HDDV/BQT-YB ngày 01/2/2019 giữa Công ty TNHH quản lý vận hành nhà chung cư Y với Trưởng ban quản trị Tòa nhà Hỗn hợp H vô hiệu.

- Công ty cổ phần đầu tư xây dựng và phát triển đô thị S có quyền tháo dỡ, khôi phục nguyên trạng cửa phía sau tầng 1 của Tòa nhà hỗn hợp H như ban đầu theo đúng hồ sơ thiết kế của cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt.

2. Đình chỉ yêu cầu buộc Công ty G và ông Đỗ Thái S1 bồi thường thiệt hại của Công ty cổ phần đầu tư xây dựng và phát triển đô thị S.

Ngoài ra bản án còn tuyên về phần án phí, quyền kháng cáo và nghĩa vụ thi hành án của các bên đương sự.

Không đồng ý với quyết định của bản án sơ thẩm, ngày 02/12/2019, ông Đỗ Thái S1 kháng cáo với tư cách là đại diện cho bị đơn - Ban quản trị tòa nhà hỗn hợp H và cho rằng, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử không khách quan, không đúng quy định của pháp luật, tự trích dẫn điều luật không có trong văn bản luật được ban hành bởi cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, xâm hại nghiêm trọng đến quyền và lợi ích chính đáng của cư dân tòa nhà. Đề nghị:

- Hủy toàn bộ bản án sơ thẩm;

- Xác định và công nhận toàn bộ diện tích hai tầng hầm để xe thuộc quyền sở hữu chung của tòa nhà hỗn hợp H.

- Làm rõ quyền sở hữu 03 tầng thương mại của tòa nhà hỗn hợp H, trong đó có bức tường phía sau tầng 1 mà chủ đầu tư đang cho đơn vị khác thuê kinh doanh.

- Yêu cầu nguyên đơn phải quyết toán và bàn giao kinh phí bảo trì, bàn giao hồ sơ tòa nhà, hoàn thiện và bàn giao hệ thống phòng cháy và chữa cháy, bàn giao và kiểm đếm các thiết bị tòa nhà, bàn giao diện tích chung, riêng cho Ban quản trị đại diện cho cư dân theo đúng quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và nhất trí với bản án sơ thẩm.

Bị đơn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, không đồng ý với bản án sơ thẩm và đề nghị bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Luật sư bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn sau khi trình bày quan điểm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn, đề nghị Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm bác toàn bộ yêu cầu kháng cáo của bị đơn; giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về đòi quyền sở hữu hợp pháp đối với diện tích chỗ để xe tại hai tầng hầm và hủy hai hợp đồng dịch vụ quản lý, vận hành nhà chung cư đã ký giữa Ban quản trị với Công ty cổ phần G và Công ty TNHH quản lý vận hành nhà chung cư Y, tại tòa nhà 131 đường A, phường B, quận C, Hà Nội.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội phát biểu ý kiến:

Về tố tụng: Những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng chấp hành đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Về nội dung: Sau khi phân tích nội dung vụ án và xem xét đơn kháng cáo của bị đơn, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội phát biểu:

Căn cứ để xác định quyền sở hữu một phần diện tích tại hai tầng hầm tòa nhà 131 đường A, phường B, quận C, Hà Nội:

- Tại thời điểm mua bán căn hộ từ cuối năm 2008 - 2010, chưa có quy định về quyền sở hữu chung, riêng nên trong hợp đồng mua bán căn hộ với cư dân chưa thể hiện rõ diện tích chung, riêng. Căn cứ Công văn số 279/BXD ngày 18/10/2017 của Bộ Xây dựng hướng dẫn Công ty S; Căn cứ Quyết định số 12 ngày 25/4/2008 của Hội đồng quản trị Công ty S về việc phê duyệt dự án đầu tư xây dựng công trình tòa nhà hỗn hợp H; Căn cứ Công văn số 2.0005/18/CV-AC ngày 6/11/2017 và Công văn số 2.0014/18/CV-AC ngày 18/01/2018 của Công ty TNHH kiểm toán và tư vấn E xác nhận: “Doanh thu và chi phí từ việc kinh doanh 2 tầng hầm đã được hạch toán và kê khai thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp hàng năm. Chi phí xây dựng tòa nhà hỗn hợp H phân bổ cho 2 tầng hầm là 30.229.191.000 đồng được ghi nhận tăng tài sản cố định của Công ty, không phân bổ vào giá thành căn hộ chung cư”. Có đủ căn cứ xác định diện tích trông giữ xe tại hai tầng hầm 1, 2 tại tòa nhà hỗn hợp H thuộc quyền quản lý của Công ty S.

Tuy nhiên theo quy định tại điểm c khoản 2, khoản 3 Điều 49 Nghị định 71/2010/NĐ-CP quy định về phần sở hữu chung nhà chung cư thì nơi để xe (xe đạp, xe cho người tàn tật, xe động cơ hai bánh) được xác định là sở hữu chung của nhà chung cư. Đối với khu vực để xe ô tô, do không phân bổ vào giá bán căn hộ nên thuộc sở hữu riêng của chủ đầu tư là có căn cứ.

- Đối với Hợp đồng dịch vụ quản lý vận hành nhà chung cư số 01/2017/HĐDV ký ngày 24/8/2017 giữa Ban quản trị tòa nhà với Công ty cổ phần G và Hợp đồng cung cấp dịch vụ số 02/2019/HĐDV/BQT-YB ký ngày 01/2/2019 giữa Công ty TNHH quản lý vận hành nhà chung cư Y với Ban quản trị tòa nhà. Theo quy định tại Điều 14, Điều 25 khoản 2 điểm a Thông tư 02/2016/TT- BXD ngày 15/2/2016 của Bộ Xây dựng và Quy chế hoạt động của Ban quản trị thì Ban quản trị được phép ký hợp đồng dịch vụ quản lý vận hành nhà chung cư với Công ty có chức năng về quản lý vận hành nhà chung cư nhưng phải thực hiện đúng theo trình tự pháp luật quy định, tuy nhiên khi ký hợp đồng dịch vụ với hai công ty trên, Ban quản trị đã không thực hiện đúng theo trình tự, thủ tục quy định, tự ý thay đổi công ty quản lý vận hành nhưng không tổ chức Hội nghị nhà chung cư, không được tối thiểu 50% đại diện chủ sở hữu căn hộ đã nhận bàn giao tham dự hội nghị đồng ý; không tổ chức họp thành viên Ban quản trị, không được tối thiểu 75% thành viên của Ban quản trị nhà chung cư tán thành; nội dung xâm phạm đến quyền lợi của chủ đầu tư (quản lý cả hai tầng hầm). Do vậy Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn tuyên bố hai hợp đồng dịch vụ quản lý vận hành nêu trên vô hiệu là có căn cứ.

- Đối với việc xác định quyền sở hữu 3 tầng hầm thương mại của tòa nhà hỗn hợp H trong đó có bức tường xây phía sau tầng 1. Căn cứ Quyết định số 461 ngày 4/3/2008 của Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Tây về việc duyệt dự án đầu tư xây dựng tòa nhà hỗn hợp H; Công văn số 6606 ngày 06/12/2010 của UBND thành phố Hà Nội về việc thay đổi chức năng tầng 6, 7, 8 từ chức năng căn hộ sang chức năng Văn phòng; Công văn 7494 ngày 05/11/2014 của Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội về việc chuyển tầng 4, 5 từ chức năng thương mại sang chức năng văn phòng, nội dung thể hiện: Dự án tòa nhà hỗn hợp H có 34 tầng nổi, 02 tầng hầm, trong đó từ tầng 1 đến tầng 8 là khu dịch vụ, thương mại, văn phòng. Thực hiện đúng quy định Công ty đã bán và cho thuê diện tích trong tòa nhà theo đúng công năng sử dụng. Do đó có căn cứ xác định 03 tầng thương mại tòa nhà hỗn hợp H thuộc quyền sở hữu của chủ đầu tư. Bản án sơ thẩm đã quyết định Công ty cổ phần đầu tư xây dựng và phát triển đô thị S có quyền tháo dỡ, khôi phục nguyên trạng cửa phía sau tầng 1 của tòa nhà hỗn hợp H như ban đầu theo đúng hồ sơ thiết kế của cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt là có căn cứ.

- Đối với việc bị đơn có yêu cầu nguyên đơn phải quyết toán và bàn giao kinh phí bảo trì, bàn giao hồ sơ tòa nhà, hoàn thiện và bàn giao hệ thống phòng cháy, chữa cháy, bàn giao và kiểm đếm các thiết bị tòa nhà, bàn giao diện tích chung, riêng cho Ban quản trị đại diện cho cư dân. Tuy nhiên trong quá trình giải quyết vụ án tại giai đoạn sơ thẩm, bị đơn không có yêu cầu phản tố nên không có cơ sở đề nghị Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm xem xét.

Từ những phân tích nêu trên thấy kháng cáo của bị đơn là không có căn cứ chấp nhận.

Tuy nhiên bản án sơ thẩm không xác định rõ vị trí chỗ để ô tô và chỗ để xe máy dẫn đến khó khăn cho việc thi hành án, đề nghị Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự, sửa bản án sơ thẩm, bổ sung việc xác định vị trí chỗ để xe ô tô, chỗ để xe máy làm căn cứ thi hành án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

[1] Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận công khai tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[2] Về tố tụng:

[3] Bị đơn có đơn kháng cáo trong thời hạn luật định, đã nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm nên xác định là hợp lệ.

[4] Đối với sự vắng mặt của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có đơn kháng cáo, mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt tại phiên tòa không có lý do. Căn cứ Điều 296 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử theo quy định của pháp luật.

[5] Về nội dung: Xét yêu cầu kháng cáo của bị đơn

[6] Căn cứ xác định quyền sở hữu diện tích trông giữ xe tại hai tầng hầm:

[7] Công ty cổ phần đầu tư xây dựng và phát triển đô thị S được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp phép là chủ đầu tư dự án Tòa nhà hỗn hợp H, địa chỉ tại 131 đường A, phường B, quận C, Hà Nội. Dự án này có 34 tầng nổi (chưa bao gồm tầng kỹ thuật và tầng mái) và 2 tầng hầm, trong đó từ tầng 1 đến tầng 8 là khu dịch vụ, thương mại, văn phòng. Công ty đã bán và cho thuê diện tích trong tòa nhà theo đúng công năng sử dụng. Ngày 26/9/2016, tại Hội nghị nhà chung cư lần đầu đã ban hành Quy chế và thành lập Ban quản trị Tòa nhà hỗn hợp H gồm 03 người đại diện cho khối cư dân, 01 người đại diện cho phía chủ đầu tư và 01 người đại diện cho khối thương mại, văn phòng. Ban quản trị tòa nhà được tổ chức hoạt động theo mô hình Hội đồng quản trị của Hợp tác xã và được Ủy ban nhân dân quận Đ công nhận theo Quyết định số 10974/QĐ - UBND ngày 15/11/2016 (sau đó được sửa đổi 2 lần). Theo quy chế hoạt động của Ban quản trị thì phải có một Công ty quản lý vận hành tòa nhà. Công ty TNHH MTV quản lý và kinh doanh dịch vụ D đang làm quản lý vận hành tiếp tục là đơn vị thực hiện quản lý, vận hành Tòa nhà. Ngày 24/8/2017, Ban quản trị tòa nhà đã ký hợp đồng dịch vụ quản lý vận hành nhà chung cư số 01/2017/HĐDV với đơn vị cung cấp dịch vụ quản lý vận hành nhà chung cư mới là Công ty cổ phần G. Tháng 2/2019 Ban quản trị lại ký Hợp đồng dịch vụ quản lý vận hành nhà chung cư với Công ty Y.

[8] Nguyên đơn - Công ty S cho rằng, Ban quản trị đã xâm phạm quyền sở hữu của Công ty S vì đã chiếm đoạt diện tích trông giữ xe tại hai tầng hầm, tự xây bịt cửa kho phía sau siêu thị tầng 1. Việc Ban quản trị ký hợp đồng quản lý vận hành nhà chung cư không thực hiện theo đúng quy định tại Điều 14 và Điều 25 Thông tư số 02/2016/TT-BXD: Không có sự đồng thuận của ít nhất 75% (4/5) thành viên Ban quản trị tòa nhà về việc đề xuất thay đổi đơn vị quản lý vận hành; không đạt được sự đồng thuận của ít nhất trên 50% đại diện chủ sở hữu tòa nhà; Nội dung hợp đồng dịch vụ quản lý vận hành xâm phạm đến quyền sở hữu của chủ đầu tư (tự định đoạt phần trông giữ xe tại 02 tầng hầm).

[9] Xét thấy, thời điểm Công ty được duyệt dự án đầu tư xây dựng Tòa nhà hỗn hợp H cũng như thời điểm Công ty thực hiện dự án và ký Hợp đồng mua bán căn hộ với khách hàng được thực hiện từ cuối năm 2008 - 2010. Căn cứ Luật Nhà ở năm 2005 và Nghị định 71/2010/NĐ-CP ngày 23/6/2010 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật nhà ở, tại điểm b, khoản 1, Điều 49 quy định: “Phần diện tích thuộc sở hữu riêng của chủ đầu tư (chủ đầu tư giữ lại, không bán và cũng không phân bổ giá trị phần diện tích thuộc sở hữu riêng này vào giá bán căn hộ cho các chủ sở hữu căn hộ)”;

[10] Điểm c, khoản 2, khoản 3, Điều 49 của Nghị định số 71/2010/NĐ-CP quy định phần sở hữu chung nhà chung cư như sau:

[11] “Nơi để xe (xe đạp, xe cho người tàn tật, xe động cơ hai bánh) được xây dựng theo quy chuẩn xây dựng và có thể bố trí tại tầng hầm hoặc tại tầng một hoặc tại phần diện tích khác trong hoặc ngoài nhà chung cư.

[12] Đối với khu vực để xe ô tô thì phải xây dựng theo quy chuẩn xây dựng nhưng do chủ đầu tư quyết định thuộc quyền sở hữu chung của các chủ sở hữu nhà chung cư hoặc thuộc sở hữu riêng của chủ sở hữu nhà chung cư....

[13] Phần sở hữu riêng và phần sở hữu chung nhà chung cư quy định tại điều này phải được ghi rõ trong hợp đồng mua bán căn hộ chung cư.”

[14] Điểm c khoản 8 Điều 4 Quyết định số 01/2013/QĐ-UBND ngày 04/01/2013 quyết định về việc ban hành quy chế quản lý sử dụng nhà chung cư trên địa bàn thành phố Hà Nội. Trong phần giải thích từ ngữ (Thực hiện Điều 70 Luật Nhà ở, Điều 49 Nghị định số 71/2010/NĐ-CP , Điều 4 Quyết định số 08/2008/QĐ-BXD) (Theo Quyết định số 01 của Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội giải thích từ ngữ của Nghị định này thì: Đối với khu vực để xe ô tô trong tầng hầm do chủ đầu tư quyết định thuộc quyền sở hữu chung của các chủ sở hữu nhà chung cư hoặc thuộc sở hữu riêng của chủ sở hữu nhà chung cư; Trường hợp nơi để ô tô trong tầng hầm được phân bổ vào giá bán căn hộ cho các chủ sở hữu nhà chung cư thì thuộc phần sở hữu chung, trường hợp chưa phân bổ vào giá bán căn hộ thì thuộc sở hữu riêng của chủ đầu tư”.)

[15] Tại Công văn số 279 ngày 18/10/2017 của Bộ Xây dựng gửi Công ty cổ phần đầu tư xây dựng và phát triển đô thị S (BL370) trích dẫn: “...theo tài liệu gửi kèm thì trong hợp đồng mua bán căn hộ ký giữa Công ty và khách hàng không có thoả thuận về phần sở hữu chung, sở hữu riêng. Do vậy, chủ đầu tư cần phải có các giấy tờ tài liệu để chứng minh chưa phân bổ chi phí đầu tư xây dựng đối với phần diện tích khu tầng hầm và khu dịch vụ thương mại vào giá bán căn hộ. Trong trường hợp giấy tờ, tài liệu chứng minh chủ đầu tư chưa tính các chi phí đầu tư xây dựng phần diện tích nêu trên vào giá bán căn hộ cho người mua thì phần diện tích này thuộc sở hữu riêng của chủ đầu tư, và chủ đầu tư phải đảm bảo sử dụng đúng mục đích, công năng thiết kế các diện tích này theo hồ sơ dự án đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt cũng như những quy định có liên quan trong hợp đồng mua bán với khách hàng.

[16] Việc xác định chủ đầu tư đã phân bổ hay chưa phân bổ chi phí đầu tư xây dựng đối với phần diện tích tầng hầm và khu dịch vụ thương mại vào giá bán căn hộ được căn cứ vào nội dung dự án đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt và báo cáo tài chính đã được kiểm toán..

[17] Tại Công văn số 2.0018/19/CV/KTTV ngày 23/10/2019 của Chi nhánh Công ty TNHH Kiểm toán và Tư vấn E tại Hà Nội gửi Tòa án nhân dân quận Hà Đông thể hiện:

[18] “1. Chi phí xây dựng Tòa nhà hỗn hợp H phân bổ cho 2 tầng hầm là 30.229.191.000 đồng được ghi nhận tăng tài sản cố định của Công ty cổ phần đầu tư xây dựng và phát triển đô thị S, không phân bổ vào giá thành căn hộ chung cư.

[19] 2. Trên báo cáo tài chính đã được kiểm toán hàng năm của Công ty thể hiện các loại thuế Công ty phải nộp cho nhà nước gồm: Thuế GTGT, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân, thuế môn bài, thuê đất... trong đó:

[20] - Thuế GTGT và thuế thu nhập doanh nghiệp liên quan đến hoạt động kinh doanh dịch vụ trông giữ xe tại hai tầng hầm được Công ty cổ phần đầu tư xây dựng và phát triển đô thị S kê khai và nộp thuế thể hiện trên Báo cáo tài chính hàng năm từ 2017 trở về trước. Báo cáo tài chính năm 2018 và 6 tháng năm 2019 của Công ty không còn phản ánh hoạt động kinh doanh này.

[21] - Thuế đất đối với diện tích xây dựng tòa nhà hỗn hợp H, Công ty cổ phần đầu tư xây dựng và phát triển đô thị S nộp theo thông báo của Chi cục Thuế quận Hà Đông là 23.850.000 đồng/năm.”

[22] Căn cứ vào các quy định cũng như các văn bản trả lời của Bộ Xây dựng và Chi nhánh Công ty Kiểm toán và Tư vấn E nêu trên xác định, phần diện tích thuộc sở hữu chung của các chủ sở hữu nhà chung cư là nơi để xe (xe đạp, xe cho người tàn tật, xe động cơ hai bánh). Riêng đối với khu vực để xe ô tô trong tầng hầm do chủ đầu tư quyết định thuộc quyền sở hữu chung hoặc sở hữu riêng của chủ sở hữu nhà chung cư. Theo Hợp đồng mua bán căn hộ chung cư thì nơi để xe ô tô trong tầng hầm không được phân bổ vào giá bán căn hộ nên xác định là sở hữu riêng của chủ đầu tư. Do vậy, Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty S về việc công nhận quyền sở hữu phần diện tích trông giữ xe ô tô tại tầng hầm 1 và tầng hầm 2 của Tòa nhà hỗn hợp H có địa chỉ tại 131 đường A, phường B, quận C, Hà Nội thuộc quyền sở hữu riêng của chủ đầu tư là có căn cứ.

[23] Theo hồ sơ thiết kế bản vẽ thi công được Công ty phê duyệt tại Quyết định số 32 QĐ/CT-KT ngày 27/3/2009; bản vẽ hoàn công ngày 31/12/2010 và trình bày của nguyên đơn thì diện tích sàn để xe tầng hầm 1 là 2.330m2, trong đó bố trí 26 chỗ để ô tô và 555 chỗ để xe máy, tuy nhiên do khi thiết kế thi công vị trí đặt máy phát điện tại tầng hầm 2 không đảm bảo nên Công ty S đã chuyển máy phát điện từ tầng hầm 2 lên tầng hầm 1. Tại bản vẽ chi tiết thể hiện vị trí máy phát điện được bố trí vào vị trí chỗ để 16 xe máy, nằm trong phạm vi từ trục A đến trục B phía ngoài cùng từ trục 1 kéo dài, diện tích khoảng 42m2 (giáp khu kỹ thuật thông gió), chỗ để 16 xe máy được bố trí vào vị trí hai chỗ để xe ô tô (ô số 12, 13) nằm trong phạm vi từ trục C đến trục D, từ trục 5 đến trục 6. Như vậy chỗ để xe ô tô tại tầng hầm 1 thực tế chỉ bố trí 24 xe;

[24] Diện tích sàn để xe tầng hầm 2 là 2.050m2, trong đó bố trí 68 chỗ để ô tô và 67 chỗ để xe máy;

[25] Để có cơ sở xác định vị trí chỗ để xe ô tô, chỗ để xe máy, sau phần tranh tụng tại phiên tòa phúc thẩm ngày 06/3/2020, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã tạm ngừng phiên tòa để tiến hành xem xét, thẩm định, xác định vị trí nơi để xe làm cơ sở giải quyết vụ án, tuy nhiên ngày 19/3/2020 khi Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đến vị trí tầng hầm của tòa nhà để tiến hành xem xét, thẩm định theo Quyết định tạm ngừng phiên tòa ngày 06/3/2020, phía bị đơn đã triệu tập nhiều người không phải đương sự trong vụ án đến tham gia buổi xem xét thẩm định, những người này đã cản trở và không cho thực hiện việc xem xét, thẩm định của Tòa án nên việc xem xét, thẩm định không thực hiện được, lỗi thuộc về phía bị đơn.

[26] Do vậy để có cơ sở xác định vị trí chỗ để xe ô tô, xe máy, sau khi nghe các đương sự trình bày tại phiên toà; xem xét văn bản giải thích của phía nguyên đơn kèm theo bản vẽ chi tiết, Hội đồng xét xử thấy phù hợp với bản vẽ thiết kế thi công và bản vẽ hoàn công do phía nguyên đơn cung cấp tại giai đoạn sơ thẩm, trên cơ sở đó xác định vị trí và diện tích chỗ để xe ô tô, xe máy tại hai tầng hầm tòa nhà này làm căn cứ giải quyết vụ án.

[27] Căn cứ Quyết định số 26/2004 ngày 2/11/2004 của Bộ trưởng Bộ Xây dựng về việc ban hành TCXDVN 323:2004 “Nhà ở cao tầng - tiêu chuẩn thiết kế”

[28] - Chỗ để xe ô tô tiêu chuẩn diện tích là 25m2/xe;

[29] - Chỗ để xe môtô, xe máy: tính 2 xe máy/hộ với tiêu chuẩn diện tích từ 2,5m2/xe đến 3,0m2/xe và 1 xe đạp/hộ với tiêu chuẩn diện tích 0,9m2/xe.

[30] Tòa nhà hỗn hợp H có 228 căn hộ x 2 xe máy/1 hộ = 456 xe máy x 2,5m2/xe = 1.140m2 và 01 xe đạp/01 hộ = 228 xe x 0,9m2 = 205,2m2. Tổng diện tích bố trí làm nơi để xe máy, xe đạp là 1.345,2m2. Theo bản vẽ thiết kế và hồ sơ hoàn công thì nơi bố trí để xe máy tầng hầm 1 là 555 xe máy; tầng hầm 2 là 67 xe máy, tổng cộng 622 xe x 2,5m2/xe = 1.555m2 (nhiều hơn phần diện tích bố trí nơi để xe cho 228 căn hộ).

[31] Tuy nhiên Tòa án cấp sơ thẩm chỉ lấy tổng diện tích chỗ để xe của hai tầng hầm trừ đi diện tích chỗ để xe máy, diện tích còn lại được xác định là chỗ để xe ô tô của chủ đầu tư là không chính xác, không phù hợp với bản vẽ thiết kế và hồ sơ hoàn công, khó khăn cho việc thi hành án, do vậy Tòa án cấp phúc thẩm sửa lại phần này, phù hợp với diện tích và vị trí chỗ để xe ô tô, xe máy trên thực tế của các bên.

[32] Đối với yêu cầu tuyên bố hai Hợp đồng dịch vụ quản lý vận hành nhà chung cư số 01/2017/HĐDV ký ngày 24/8/2017 giữa Ban quản trị tòa nhà với Công ty cổ phần G và Hợp đồng cung cấp dịch vụ số 02/2019/HĐDV/BQT-YB ký ngày 01/2/2019 giữa Công ty TNHH quản lý vận hành nhà chung cư Y với Ban quản trị tòa nhà là vô hiệu, xét thấy:

[33] Ban quản trị Tòa nhà hỗn hợp H được Hội nghị nhà chung cư bầu ra và được UBND quận Hà Đông công nhận theo Quyết định số 10974 ngày 15/11/2016 (thay đổi lần 1 ngày 03/4/2018 và thay đổi lần 2 ngày 27/8/2018). Theo quy định của pháp luật thì Ban quản trị được phép ký hợp đồng dịch vụ quản lý vận hành nhà chung cư với Công ty có chức năng về quản lý vận hành nhà chung cư nhưng phải thực hiện đúng theo trình tự pháp luật quy định, tuy nhiên khi ký hợp đồng dịch vụ với hai công ty quản lý vận hành nêu trên, Ban quản trị đã không thực hiện đúng theo trình tự, thủ tục quy định tại Thông tư số 02/2016/TT-BXD , ngày 15/2/2016 của Bộ Xây dựng và Quy chế hoạt động của Ban quản trị, tự ý thay đổi công ty quản lý vận hành; không tổ chức Hội nghị nhà chung cư, không được tối thiểu 50% đại diện chủ sở hữu căn hộ đã nhận bàn giao tham dự hội nghị đồng ý; không tổ chức họp thành viên Ban quản trị, không được tối thiểu 75% thành viên của Ban quản trị nhà chung cư tán thành; Bị đơn trình bày đã thanh lý hợp đồng với Công ty G, nhưng Công ty G trình bày thực tế đã chấm dứt việc quản lý vận hành tòa nhà từ tháng 2/2019 đến nay nhưng hai bên chưa có văn bản thanh lý hợp đồng. Việc Ban quản trị ký tiếp hợp đồng cung cấp dịch vụ với Công ty TNHH quản lý vận hành nhà chung cư Y khi chưa thanh lý hợp đồng với Công ty cổ phần G là không đúng quy định của pháp luật. Hai hợp đồng dịch vụ quản lý vận hành nêu trên hiện vẫn tồn tại trên thực tế. Nội dung hợp đồng xâm phạm đến quyền lợi của chủ đầu tư (quản lý cả hai tầng hầm). Do vậy Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn tuyên bố hai hợp đồng dịch vụ quản lý vận hành nêu trên vô hiệu là có căn cứ.

[34] Tuy nhiên do các đương sự không yêu cầu giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu trong vụ án này nên Tòa án cấp sơ thẩm không xem xét là đúng quy định của pháp luật. Trong trường hợp không thoả thuận được, các đương sự có quyền khởi kiện bằng vụ án dân sự khác khi có yêu cầu.

[35] Đối với việc xác định quyền sở hữu 3 tầng thương mại của Tòa nhà hỗn hợp H trong đó có bức tường xây phía sau tầng 1. Căn cứ Quyết định số 461/QĐ-UBND ngày 04/3/2008 của Ủy ban nhân dân tỉnh T về việc Duyệt dự án đầu tư xây dựng tòa nhà hỗn hợp H; Công văn 9906/UBND-XD ngày 06/12/2010 của UBND thành phố Hà Nội về việc chuyển đổi chức năng các tầng 6, 7, 8 từ chức năng căn hộ sang chức năng Văn phòng; Công văn số 7495/VP-QHKT ngày 05/11/2014 của Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội về việc chuyển đổi công năng tầng 4, 5 từ chức năng thương mại sang chức năng văn phòng. Đây là cơ sở xác định 03 tầng thương mại tại tòa nhà hỗn hợp H thuộc quyền sở hữu của chủ đầu tư. Chủ đầu tư đã thực hiện bán và cho thuê theo đúng công năng sử dụng. Trên cơ sở đó, ngoài việc xác định về quyền sở hữu, Tòa án cấp sơ thẩm đã quyết định, Công ty cổ phần đầu tư xây dựng và phát triển đô thị S có quyền tháo dỡ, khôi phục nguyên trạng cửa phía sau tầng 1 của tòa nhà hỗn hợp H như ban đầu theo đúng hồ sơ thiết kế của cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt là có căn cứ.

[36] Đối với việc bị đơn có yêu cầu chủ đầu tư phải quyết toán và bàn giao kinh phí bảo trì, bàn giao hồ sơ tòa nhà, hoàn thiện và bàn giao hệ thống phòng cháy, chữa cháy, bàn giao và kiểm đếm các thiết bị tòa nhà, bàn giao diện tích chung, riêng cho Ban quản trị đại diện cho cư dân... Xét thấy, trong quá trình giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm, bị đơn không có yêu cầu phản tố, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu độc lập nên Tòa án cấp sơ thẩm không xem xét, giải quyết là đúng quy định của pháp luật, Tòa án cấp phúc thẩm không có cơ sở để chấp nhận kháng cáo của bị đơn đối với nội dung này.

[37] Đối với việc nguyên đơn rút một phần yêu cầu khởi kiện, yêu cầu ông Đỗ Thái S1 và Công ty G phải bồi thường thiệt hại do hành vi xâm phạm trái phép làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của Công ty S. Việc rút một phần yêu cầu này là hoàn toàn tự nguyện, Tòa án cấp sơ thẩm đã đình chỉ là đúng quy định của pháp luật.

[38] Tuy nhiên trong phần trích dẫn các quy định của pháp luật, có một số nội dung Tòa án cấp sơ thẩm trích dẫn chưa đầy đủ, thiếu chính xác. Bị đơn kháng cáo nội dung này là có cơ sở, Tòa án cấp phúc thẩm cần sửa lại cho phù hợp quy định của pháp luật. Các nội dung kháng cáo khác của bị đơn không có căn cứ nên Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm không có cơ sở chấp nhận.

[39] Phát biểu của Luật sư bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nguyên đơn và quan điểm đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội là có căn cứ nên được chấp nhận.

[40] Về án phí: Ban quản trị Tòa nhà hỗn hợp H phải chịu án phí theo quy định của pháp luật. Công ty cổ phần đầu tư xây dựng và phát triển đô thị S được chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện nên phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với một phần yêu cầu khởi kiện không được chấp nhận;

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Căn cứ Điều 163, Điều 164, Điều 169 Bộ Luật Dân sự năm 2015;

Căn cứ Luật Nhà ở năm 2005;

Căn cứ Nghị định 71/2010/NĐ-CP ngày 23 tháng 6 năm 2010 của Chính phủ;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Sửa Bản án dân sự sơ thẩm số 40/2019/DSST ngày 31/10/2019 của Tòa án nhân dân quận Hà Đông, thành phố Hà Nội.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty cổ phần đầu tư xây dựng và phát triển đô thị S đối với Ban quản trị Tòa nhà hỗn hợp H về việc công nhận diện tích trông giữ xe ô tô tại tầng hầm 1 và tầng hầm 2 của Tòa nhà hỗn hợp H có địa chỉ tại 131 đường A, phường B, quận C, thành phố Hà Nội, thuộc quyền sở hữu của Công ty cổ phần đầu tư xây dựng và phát triển đô thị S.

- Xác định và công nhận diện tích trông giữ xe ô tô tại tầng hầm 1 là 600m2; diện tích trông giữ xe ô tô tại tầng hầm 2 là 1.700m2 thuộc quyền sở hữu của Công ty cổ phần đầu tư xây dựng và phát triển đô thị S.

Căn cứ vào bản vẽ chi tiết (kèm theo bản án), xác định vị trí chỗ để xe ô tô và xe máy cụ thể như sau:

* Diện tích sàn để xe tầng hầm 1 là 2.330m2:

- Trong đó 600m2 (bao gồm cả đường lưu thông) được chia làm 24 chỗ để xe ô tô. Vị trí nơi để xe ô tô được xác định từ chiều dài của trục E đến trục F, từ trục E đến trục C, từ trục 1 đến trục 6 kéo dài (đánh số thứ tự từ 1 đến 11 và từ 14 đến 26 trong bản vẽ chi tiết, trừ diện tích lõi thang máy).

- Phần diện tích để xe máy là 1.387,5m2 (bao gồm cả đường lưu thông) được chia làm 555 chỗ để xe máy. Vị trí để xe máy được xác định từ ½ chiều dài của trục F đến trục E, từ trục F đến trục G kéo dài; từ trục D đến trục A kéo dài và từ trục 1 đến trục 6 kéo dài (trừ diện tích các khu chức năng).

- Vị trí để máy phát điện là 42m2, từ trục A đến trục B, phía ngoài cùng từ trục 1 kéo dài.

Phần diện tích còn lại của tầng hầm 1 được xác định là: 2.330m2 - 600m2 - 1.387,5m2 - 42m2 = 300,5m2, đây là diện tích lưu không của chủ đầu tư tạo sự thông thoáng trong tầng hầm 1.

* Diện tích sàn để xe tầng hầm 2 là 2.050m2:

- Trong đó 1.700m2 là diện tích để xe ô tô (bao gồm cả đường lưu thông) được chia làm 68 chỗ để xe ô tô. Vị trí nơi để xe ô tô được xác định từ ¾ chiều dài của trục F đến trục G, từ trục F đến trục A kéo dài và trong phạm vi từ trục 1 đến trục 6 kéo dài (trừ diện tích lõi thang máy và diện tích các khu chức năng).

- Phần diện tích để xe máy là 167,5m2 (bao gồm cả đường lưu thông) được chia làm 67 chỗ để xe máy. Vị trí để xe máy được xác định từ ¼ chiều dài của trục G kéo dài đến trục F cộng trục G kéo dài, trong phạm vi từ trục 2 đến trục 5 và trong phạm vi từ ¼ chiều dài trục 1 đến trục 2 và trục G đến trục D (trừ diện tích các khu chức năng).

- Phần diện tích còn lại tầng hầm 2 được xác định: 2.050m2 - 1.700m2 - 167,5m2 = 182,5m2, đây là diện tích lưu không của chủ đầu tư tạo sự thông thoáng trong tầng hầm 2.

2. Tuyên bố Hợp đồng dịch vụ quản lý vận hành tòa nhà số 01/2017/HĐDV ký ngày 24/8/2017 giữa ông Đỗ Thái S1 - Trưởng ban quản trị tòa nhà và Công ty CP G và Hợp đồng cung cấp dịch vụ số 02/2019/HĐDV/BQT-YB ngày 01/02/2019 giữa Công ty TNHH quản lý vận hành nhà chung cư Y với Trưởng ban quản trị Tòa nhà hỗn hợp H là vô hiệu.

Trong trường hợp các đương sự không tự thoả thuận được với nhau về việc giải quyết hậu quả hợp đồng vô hiệu thì có quyền khởi kiện bằng vụ án dân sự khác theo quy định của pháp luật.

3. Công ty cổ phần đầu tư xây dựng và phát triển đô thị S có quyền tháo dỡ, khôi phục nguyên trạng cửa phía sau tầng 1 của Tòa nhà hỗn hợp H như ban đầu theo đúng hồ sơ thiết kế của cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt.

4. Đình chỉ một phần yêu cầu của Công ty cổ phần đầu tư xây dựng và phát triển đô thị S đối với yêu cầu buộc Công ty G và ông Đỗ Thái S1 phải bồi thường thiệt hại.

5. Về án phí: Ban quản trị Tòa nhà hỗn hợp H phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm và không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm, số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm đã nộp theo Biên lai số 0008476 ngày 05/12/2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Hà Đông, thành phố Hà Nội được trừ vào số tiền án phí dân sự sơ thẩm phải chịu. Xác nhận bị đơn đã nộp xong tiền án phí.

Công ty cổ phần đầu tư xây dựng và phát triển đô thị S phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm đối với một phần yêu cầu khởi kiện không được chấp nhận. Số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp theo Biên lai số 0001681 ngày 30/7/2018 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Hà Đông, thành phố Hà Nội được trừ vào số tiền án phí dân sự sơ thẩm phải chịu. Xác nhận nguyên đơn đã nộp xong tiền án phí.

6. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Án xử công khai phúc thẩm, có hiệu lực thi hành kể từ ngày tuyên án./.

NỘI DUNG ÁN LỆ

“[22] Căn cứ vào các quy định cũng như các văn bản trả lời của Bộ Xây dựng và Chi nhánh Công ty Kiểm toán và Tư vấn E nêu trên xác định, phần diện tích thuộc sở hữu chung của các chủ sở hữu nhà chung cư là nơi để xe (xe đạp, xe cho người tàn tật, xe động cơ hai bánh). Riêng đối với khu vực để xe ô tô trong tầng hầm do chủ đầu tư quyết định thuộc quyền sở hữu chung hoặc sở hữu riêng của chủ sở hữu nhà chung cư. Theo Hợp đồng mua bán căn hộ chung cư thì nơi để xe ô tô trong tầng hầm không được phân bổ vào giá bán căn hộ nên xác định là sở hữu riêng của chủ đầu tư. Do vậy, Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty S về việc công nhận quyền sở hữu phần diện tích trông giữ xe ô tô tại tầng hầm 1 và tầng hầm 2 của Tòa nhà hỗn hợp H có địa chỉ tại 131 đường A, phường B, quận C, Hà Nội thuộc quyền sở hữu riêng của chủ đầu tư là có căn cứ.”.

HỒNG HẠNH

Án lệ số 50/2021/AL1 về quyền khởi kiện vụ án đòi lại tài sản của người được giao tài sản theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật

(SANG6) Chi phí chuyển đổi đất nông nghiệp lên thổ cư

(LSVN) – Hiện nay, tôi có nhu cầu chuyển đổi mục đích sử dụng đất từ đất nông nghiệp lên đất thổ cư. Vậy theo quy định của pháp luật, tôi phải nộp chi phí như thế nào trong trường hợp này? Bạn đọc N.M. hỏi.

Ảnh minh họa.

Căn cứ khoản 2 Điều 5 Nghị định 45/2014/NĐ-CP quy định về tiền sử dụng đất phải nộp khi chuyển đổi mục đích sử dụng đất, đối với hộ gia đình, cá nhân: Chuyển mục đích từ đất phi nông nghiệp không phải là đất ở sang đất ở thì thu tiền sử dụng đất như sau:

- Trường hợp đang sử dụng đất phi nông nghiệp đã được Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất có thời hạn sử dụng ổn định, lâu dài trước ngày 1/7/2004, mà không phải là đất được Nhà nước giao hoặc cho thuê, khi chuyển mục đích sang đất ở thì không phải nộp tiền sử dụng đất.

- Trường hợp đang sử dụng đất phi nông nghiệp dưới hình thức được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất trước ngày 01/7/2014, khi được chuyển mục đích sang đất ở thì thu tiền sử dụng đất bằng chênh lệch giữa tiền sử dụng đất tính theo giá đất ở với tiền sử dụng đất tính theo giá đất phi nông nghiệp của thời hạn sử dụng đất còn lại tại thời điểm có quyết định chuyển mục đích của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

- Trường hợp được Nhà nước cho thuê đất phi nông nghiệp không phải là đất ở dưới hình thức trả tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê, khi được chuyển mục đích sang đất ở đồng thời với chuyển từ thuê đất sang giao đất thì nộp tiền sử dụng đất bằng mức chênh lệch giữa tiền sử dụng đất tính theo giá đất ở trừ (-) tiền thuê đất phải nộp một lần tính theo giá đất phi nông nghiệp của thời hạn sử dụng đất còn lại tại thời điểm có quyết định chuyển mục đích của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

- Trường hợp đang sử dụng đất phi nông nghiệp không phải là đất ở dưới hình thức được Nhà nước cho thuê đất trả tiền thuê hàng năm thì thu tiền sử dụng đất bằng 100% tiền sử dụng đất tính theo giá đất ở tại thời điểm có quyết định chuyển mục đích của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.

Chuyển mục đích sử dụng đất có nguồn gốc từ nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất hợp pháp theo pháp luật đất đai của người sử dụng đất sang đất ở thì căn cứ vào nguồn gốc đất nhận chuyển nhượng để thu tiền sử dụng đất theo mức quy định tại điểm a, điểm b, điểm c khoản 5 này.

Ngoài ra, căn cứ khoản 4 và khoản 8 Điều 18 Nghị định 126/2020/NĐ-CP, thì thời hạn nộp tiền sử dụng đất và lệ phí trước bạ được quy định cụ thể như sau:

- Tiền sử dụng đất: Chậm nhất là 30 ngày, kể từ ngày ban hành thông báo nộp tiền sử dụng đất, người sử dụng đất phải nộp 50% tiền sử dụng đất theo thông báo. Chậm nhất là 90 ngày, kể từ ngày ban hành thông báo nộp tiền sử dụng đất, người sử dụng đất phải nộp 50% tiền sử dụng đất còn lại theo thông báo.

- Lệ phí trước bạ: Thời hạn nộp lệ phí trước bạ chậm nhất là 30 ngày, kể từ ngày ban hành thông báo, trừ trường hợp người nộp thuế được ghi nợ lệ phí trước bạ.

TIẾN HƯNG

Một số điểm mới nổi bật trong Nghị định số 67/2021/NĐ-CP của Chính phủ

 

Admin