Cải tạo không giam giữ là loại hình phạt không tước tự do, không buộc người phạm tội phải cách li khỏi gia đình, nơi làm việc cũng như xã hội nói chung. Nội dung chính của hình phạt này là sự giám sát, giáo dục của cơ quan, tổ chức nơi người bị kết án làm việc hoặc thường trú đối với người bị kết án. Thời gian cải tạo không giam giữ từ 6 tháng đến 3 năm. Đây là biện pháp thể hiện sự khoan hồng của pháp luật đối với người phạm tội, để họ không bị cách ly khỏi xã hội, vẫn được làm việc, sinh sống như bình thường, không để người bị kết án phải ngồi tù mà được tự do hoạt động ở ngoài xã hội.

Ảnh minh hoạ.
Về điều kiện áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ
Hình phạt cải tạo không giam giữ có thể được áp dụng khi có đủ 02 điều kiện: Một là, đối với người phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng, không phân biệt phạm tội do lỗi cố ý hay lỗi vô ý. Hai là, đối với người phạm tội đang có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi cư trú rõ ràng, nếu xét thấy không cần thiết phải cách ly người phạm tội khỏi xã hội. Mức hình phạt cải tạo không giam giữ được áp dụng từ 06 tháng đến 03 năm; theo đó nếu có căn cứ áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với người phạm tội thì thấp nhất là 06 cải tạo không giam giữ; thời hạn cải tạo không giam giữ đối với người dưới 18 tuổi phạm tội không quá một phần hai thời hạn mà điều luật quy định.
Trong quy định về điều kiện áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đã bộc lộ một số hạn chế, bất cập như sau:
Thứ nhất, về điều kiện có nơi làm việc ổn định. Có quan điểm cho rằng, tại thời điểm bị kết án, người bị kết án có hợp đồng lao động với một cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp thì được coi là làm việc ổn định. Nhưng có quan điểm lại đòi hỏi cao hơn, đó là hợp đồng lao động phải từ 6 tháng trở lên và phải có cơ sở khẳng định sau khi bị kết án, người đó vẫn tiếp tục được làm việc. “Ổn định” hay không phụ thuộc khá nhiều vào đánh giá chủ quan của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, trong khi chưa có hướng dẫn cụ thể thì việc xem xét này vẫn không có sự thống nhất. Chưa hết, việc xác định đâu là “nơi làm việc” trong nhiều tình huống cũng rất khó khăn. Đó là khi người bị kết án là lao động tự do hoặc công việc thường xuyên phải di chuyển trong những thời gian ngắn. Do đó, xảy ra nhiều trường hợp áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ cho người không có nơi làm việc ổn định hoặc không áp dụng cho người có nơi làm việc ổn định. Để khắc phục vấn đề này và tạo sự thống nhất chung, cần có hướng dẫn của cơ quan tư pháp trung ương theo hướng “nơi làm việc ổn định được xác định là tổ chức, cơ quan, doanh nghiệp đang hoạt động theo pháp luật hiện hành, mà người phạm tội có hợp đồng lao động hợp pháp từ 6 tháng trở lên, được đảm bảo chế độ bảo hiểm hiện hành, đang làm việc trước khi thực hiện hành vi phạm tội và có thể tiếp tục được làm việc sau khi bị kết án”.
Thứ hai, về điều kiện “xét thấy không cần thiết phải cách ly người phạm tội khỏi xã hội”. Hiện nay, chưa có văn bản hướng dẫn của cơ quan có thẩm quyền, dẫn đến sự tùy nghi, chủ quan trong nhận thức và áp dụng của Tòa án khi xét xử. Nhiều trường hợp Tòa án ngại xem xét, đánh giá để áp dụng và bỏ qua vấn đề này khi quyết định hình phạt dẫn đến thiếu công bằng và thiệt thòi cho người phạm tội vì phải chịu hình phạt khác nghiêm khắc hơn, trong khi đủ điều kiện để được áp dụng và chỉ cần áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ là tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội. Mặc dù vậy, trong quá trình giải quyết, một trong những căn cứ quan trọng để hầu hết các hội đồng xét xử xem xét vấn đề này là căn cứ vào nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Do đó, để có cơ sở pháp lý, tạo sự thống nhất trong quá trình đánh giá, cần thiết quy định điều kiện về tình tiết giảm nhẹ để làm cơ sở xem xét áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ. Theo tác giả, người phạm tội phải có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên mới được áp dụng hình phạt này.
Thứ ba, đối với điều kiện thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng. Mặc dù xét về tính chất nghiêm khắc của hình phạt, cải tạo không giam giữ thể hiện tính chất nghiêm khắc ít hơn, nhưng đi kèm theo đó người bị kết án phải chịu rất nhiều nghĩa vụ khác nhau. Trong khi đó, nhiều trường hợp mặc dù phạm tội rất nghiêm trọng nhưng xét toàn diện nội dung vụ án lại rất xứng đáng được áp dụng hình phạt này. Đó là những trường phạm tội rất nghiêm trọng do vô ý và có nhiều tình tiết giảm nhẹ. Bởi vì trường hợp này, người phạm tội có lỗi vô ý, tức là họ không mong muốn hậu quả xảy ra đồng thời có nhân thân tốt, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, không có tình tiết tăng nặng. Thái độ, cư xử và điều kiện của họ cho thấy họ ít nguy hiểm cho xã hội, không cần cách ly khỏi xã hội vẫn bảo đảm khả năng giáo dục, cải tạo, do đó nên được áp dụng cải tạo không giam giữ. Vì vậy, cần bổ sung quy định “cải tạo không giam giữ có thể áp dụng đối với người phạm tội rất nghiêm trọng do vô ý”.
Về nghĩa vụ của người bị kết án cải tạo không giam giữ
Theo khoản 3 Điều 36 Bộ luật Hình sự, người bị kết án cải tạo không giam giữ phải thực hiện một số nghĩa vụ theo quy định về cải tạo không giam giữ và bị khấu trừ một phần thu nhập để sung quỹ nhà nước. Cụ thể, theo Điều 99 Luật Thi hành án hình sự 2019, người bị kết án cải tạo không giam giữ phải: Có mặt theo giấy triệu tập và cam kết việc chấp hành án; Chấp hành nghiêm chỉnh cam kết tuân thủ pháp luật, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ công dân, nội quy, quy chế của nơi cư trú, nơi làm việc; tích cực tham gia lao động, học tập; chấp hành đầy đủ nghĩa vụ bồi thường thiệt hại, các hình phạt bổ sung theo bản án của Tòa án; Chịu sự giám sát, giáo dục của Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo dục, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu nơi cư trú, nơi làm việc; Có mặt theo yêu cầu của Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo dục, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu; Có mặt theo yêu cầu của Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo dục, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu… Người chấp hành án có thể vắng mặt tại nơi cư trú nếu có lý do chính đáng và phải xin phép theo quy định, phải thực hiện khai báo tạm vắng theo quy định của pháp luật về cư trú. Về nghĩa vụ, tác giả nhận thấy một số bất cập như sau:
Thứ nhất, về nghĩa vụ khấu trừ thu nhập. Người bị kết án cải tạo không giam giữ bị khấu trừ thu thập theo tháng với mức khấu trừ 5- 20%, nhưng có thể được miễn khấu trừ nếu thuộc trường hợp đặc biệt. Đối với mức khấu trừ, trường hợp người phạm tội có việc làm và thu nhập ổn định, có căn cứ xác định thu nhập thực tế của người phạm tội trước khi phạm tội nên Tòa án tuyên việc khấu trừ thu nhập trong bản án căn cứ theo mức thu nhập này. Tuy nhiên, nếu sau đó họ bị sa thải, buộc thôi việc và không có việc làm ổn định thì sẽ xử lý như thế nào, vấn đề này luật chưa có quy định. Chưa hết, nếu người phạm tội là lao động tự do, có thu nhập không ổn định thì Tòa án gặp khó khăn trong việc xác định mức thu nhập của họ để làm căn cứ quyết định việc khấu trừ thu nhập. Tiếp theo, trường hợp đặc biệt để khấu trừ thu nhập là trường hợp nào vẫn còn bỏ ngỏ, phụ thuộc vào ý chí đánh giá chủ quan của người có thẩm quyền. Thực tiễn xét xử hiện nay, đa phần các bản án đều ghi rõ “Miễn khấu trừ thu nhập đối với bị cáo vì bị cáo không có việc làm và thu nhập thường xuyên”. Vậy, đây có phải “trường hợp đặc biệt hay không” thì chưa có câu trả lời. Do đó, cần có hướng dẫn đối với hai vấn đề này theo hướng: Nếu người bị kết án không có việc làm hoặc bị mất việc làm trong thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ thì phải miễn, giảm khấu trừ thu nhập theo bản án đã tuyên (kèm theo đó phải quy định thủ tục miễn giảm trong trường hợp này). Trường hợp đặc biệt để miễn khấu trừ thu nhập có thể là hộ nghèo, hộ cận nghèo, gia đình chính sách,… theo quy định của Chính phủ hoặc nếu người phạm tội không thuộc các đối tượng này nhưng có điều kiện, hoàn cảnh đặc biệt khó khăn…
Thứ hai, về nghĩa vụ thực hiện một số công việc lao động phục vụ cộng đồng. Bộ luật Hình sự quy định tại khoản 4 Điều 36 có nội dung: Người bị kết án cải tạo không giam giữ không có việc làm hoặc bị mất việc trong thời gian chấp hành án thì phải thực hiện một số công việc lao động phục vụ cộng đồng. Quy định này có nghĩa, chỉ người bị kết án mà không có việc làm hoặc bị mất việc trong thời gian chấp hành án mới phải thực hiện. Ngoài ra, luật còn quy định thời gian thực hiện lao động phục vụ cộng đồng. Tuy nhiên, công việc nào được coi là phục vụ cộng đồng thì vẫn còn băn khoăn trên thực tế, có trường hợp lợi dụng, lạm dụng để yêu cầu lao động những công việc nặng nhọc, độc hại....
Theo tác giả, cần giải thích rõ công việc phục vụ cộng đồng là những công việc chung, phục vụ lợi ích chung của cộng đồng. Nghiêm cấm việc buộc đối tượng bị áp dụng hình thức xử phạt này phải làm các công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe, ảnh hưởng đến danh dự, nhân phẩm, quyền công dân của người bị kết án. Đồng thời, quy định này cũng thể hiện sự cứng nhắc, việc đặt ra nghĩa vụ lao động đối với người không có việc hoặc bị mất việc là nhằm bù đắp lại nghĩa vụ khấu trừ thu nhập. Nhưng nếu người bị kết án mặc dù không có việc nhưng vẫn có tài sản đủ để thực hiện việc khấu trừ, thì liệu rằng có thể tiếp tục khấu trừ cho họ và không buộc họ phải lao động đượcc không?
Do đó, tác giả đề xuất sửa đổi quy định này theo hướng người bị kết án cải tạo không giam giữ chỉ phải buộc lao động phục vụ cộng đồng nếu họ bị tuyên khấu trừ thu nhập, không cóc việc làm hoặc bị mất việc trong thời gian chấp hành án và không có tài sản để tiếp tục thực hiện việc khấu trừ.
VĂN LINH
Tòa án quân sự khu vực Hải quân