Quy định của pháp luật về người giám hộ là người đại diện của người tham gia tố tụng dưới 18 tuổi
Theo quy định tại Thông tư liên tịch số 06/2018/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH ngày 21/12/2018 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Bộ Lao động - Thương binh và xã hội về phối hợp thực hiện một số quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi thì ngoài cha mẹ đẻ, cha mẹ nuôi, người do tòa án chỉ định thì người giám hộ có thể là người đại diện của người tham gia tố tụng dưới 18 tuổi (bị can, bị cáo, bị hại, người làm chứng). Người giám hộ của người tham gia tố tụng dưới 18 tuổi bao gồm người giám hộ đương nhiên hoặc người được ủy ban nhân dân cấp xã nơi người dưới 18 tuổi cư trú cử hoặc tòa án chỉ định theo quy định tại các Điều 46, 47, 48, 52 và 54 Bộ luật Dân sự.
Về người giám hộ đương nhiên
Theo quy định tại các điểm a, b khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Dân sự, người chưa thành niên (hay người dưới 18 tuổi) nếu có yêu cầu người giám hộ thì có người giám hộ đương nhiên trong những trường hợp sau:
- Người chưa thành niên không còn cha, mẹ hoặc không xác định được cha, mẹ;
- Người chưa thành niên có cha, mẹ nhưng cha, mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự; cha, mẹ đều có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi; cha, mẹ đều bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; cha, mẹ đều bị tòa án tuyên bố hạn chế quyền đối với con; cha, mẹ đều không có điều kiện chăm sóc, giáo dục con.
Người giám hộ đương nhiên của người chưa thành niên được xác định theo thứ tự quy định tại Điều 52 Bộ luật Dân sự, cụ thể như sau:
- Trường hợp thứ nhất: Anh ruột là anh cả hoặc chị ruột là chị cả là người giám hộ; nếu anh cả hoặc chị cả không có đủ điều kiện làm người giám hộ thì anh ruột hoặc chị ruột tiếp theo là người giám hộ, trừ trường hợp có thỏa thuận anh ruột hoặc chị ruột khác làm người giám hộ.
- Trường hợp thứ hai: Nếu không có người giám hộ là anh cả hoặc chị cả hoặc anh ruột hoặc chị ruột thì ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại là người giám hộ hoặc những người này thỏa thuận cử một hoặc một số người trong số họ làm người giám hộ.
- Trường hợp thứ ba: Nếu không có người giám hộ như hai trường hợp trên thì bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột hoặc dì ruột là người giám hộ.
Như vậy, tùy trường hợp mà xác định ai là người giám hộ đương nhiên của người chưa thành niên. Cần lưu ý là chỉ trong trường hợp thứ nhất, người giám hộ đương nhiên là 01 người (anh cả hoặc chị cả). Các trường hợp còn lại thì bao gồm tất cả ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại hoặc bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột. Những người này có quyền thỏa thuận cử một hoặc một số người trong số họ làm người giám hộ đương nhiên.
Về người giám hộ được ủy ban nhân dân cấp xã cử
Nếu người chưa thành niên không còn cha, mẹ hoặc không xác định được cha, mẹ; người chưa thành niên có cha, mẹ nhưng cha, mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự; cha, mẹ đều có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi; cha, mẹ đều bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; cha, mẹ đều bị tòa án tuyên bố hạn chế quyền đối với con; cha, mẹ đều không có điều kiện chăm sóc, giáo dục con và không có người giám hộ đương nhiên thì ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm cử người giám hộ cho họ. Việc cử người giám hộ của người chưa thành niên được thực hiện theo quy định tại Điều 54 của Bộ luật Dân sự. Theo đó, việc cử người giám hộ phải được sự đồng ý của người được cử làm người giám hộ. Việc cử người giám hộ phải được lập thành văn bản, trong đó ghi rõ lý do cử người giám hộ, quyền, nghĩa vụ cụ thể của người giám hộ, tình trạng tài sản của người được giám hộ. Trường hợp cử người giám hộ cho người chưa thành niên từ đủ sáu tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của người chưa thành niên.
Về người giám hộ do tòa án chỉ định
Theo quy định tại Điều 54 Bộ luật Dân sự thì tòa án có trách nhiệm chỉ định người giám hộ của người chưa thành niên trong những trường hợp sau:
Khi có tranh chấp giữa những người giám hộ
Khi có sự tranh chấp về người giám hộ giữa những người giám hộ đương nhiên của người chưa thành niên theo quy định tại điểm a, b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Dân sự thì tòa án sẽ chỉ định người giám hộ. Đối với người chưa thành niên từ đủ sáu tuổi trở lên thì khi tòa án chỉ định người giám hộ cho họ phải xem xét nguyện vọng của người này.
Khi có tranh chấp về việc cử người giám hộ
Trong quá trình ủy ban nhân dân cấp xã nơi người chưa thành niên cứ trú cử người giám hộ cho người chưa thành niên mà xảy ra tranh chấp việc cử người giám hộ thì tòa án sẽ chỉ định người giám hộ cho người chưa thành niên.
Thực tiễn thực hiện việc xác định người giám hộ của người chưa thành niên
Qua thực tiễn xét xử và áp dụng pháp luật về người giám hộ của người dưới 18 tuổi trong tố tụng hình sự, tác giả thấy có những khó khăn, vướng mắc như sau:
Thời hạn điều, truy tố, xét xử đã hết mà tòa án chưa chỉ định người giám hộ
Thực tiễn giải quyết vụ án hình sự có liên quan đến người chưa thành niên có trường hợp tòa án phải chỉ định người giám hộ cho người tham gia tố tụng là người dưới 18 tuổi nhưng thời hạn điều, truy tố, xét xử đã hết thì giải quyết như thế nào. Hiện nay, có quan điểm cho rằng cơ quan tiến hành tố tụng trong mỗi giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử sẽ tạm đình chỉ điều tra hoặc tạm đình chỉ vụ án để chờ tòa án có thẩm quyền chỉ định người giám hộ cho người tham gia tố tụng là người dưới 18 tuổi. Tuy nhiên đối chiếu quy định tại khoản 1 Điều 229, khoản 1 Điều 247 và khoản 1 Điều 281 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì việc tạm đình chỉ điều tra hay tạm đình chỉ vụ án không có trường hợp chờ tòa án chỉ định người giám hộ.
Một người thực tế nuôi dưỡng người chưa thành niên từ nhỏ nhưng không làm thủ tục đăng ký nhận con nuôi theo quy định pháp luật thì có được làm người giám hộ đương nhiên không?
Người giám hộ đương nhiên của người chưa thành niên được xác định theo quy định của Bộ luật Dân sự trước tiên là cha mẹ đẻ, cha mẹ nuôi. Thực tiễn có trường hợp người tham gia tố tụng dưới 18 tuổi không còn cha mẹ đẻ nhưng có người khác nhận nuôi từ nhỏ. Tuy nhiên, việc nuôi con nuôi không thực hiện việc đăng ký nhận nuôi con nuôi theo quy định của pháp luật thì có được làm người giám hộ đương nhiên của người bị buộc tội dưới 18 tuổi không. Vấn đề này hiện cũng còn quan điểm khác nhau do nhận thức khác nhau. Có quan điểm cho rằng trường hợp này cha mẹ nuôi thực tế có quan hệ nuôi dưỡng người tham gia tố tụng dưới 18 tuổi từ nhỏ nên được xác định là người giám hộ đương nhiên của họ. Nhưng cũng có quan điểm ngược lại. Điều này gây khó khăn trong việc xác định người giám hộ đương nhiên của người tham gia tố tụng dưới 18 tuổi trong một số vụ án hình sự hiện nay.
Người tham gia tố tụng dưới 18 tuổi có nơi đăng ký thường trú và nơi thường xuyên sinh sống khác nhau thì việc cử người giám hộ cho họ thực hiện như thế nào?
Theo quy định tại Điều 12 Luật Cư trú năm 2006 thì nơi cư trú của công dân là nơi thường trú hoặc nơi tạm trú. Nơi thường trú là nơi công dân sinh sống thường xuyên, ổn định, không có thời hạn tại một chỗ ở nhất định và đã đăng ký thường trú. Nơi tạm trú là nơi công dân sinh sống ngoài nơi đăng ký thường trú và đã đăng ký tạm trú. Tuy nhiên, trong thực tiễn có nhiều trường hợp người tham gia tố tụng dưới 18 tuổi đăng ký thường trú một nơi nhưng sinh sống một nơi (có đăng ký hoặc không có đăng ký tạm trú). Như vậy, trong trường hợp này thì ủy ban nhân dân cấp xã nơi người tham gia tố tụng dưới 18 tuổi đăng ký thường trú hay nơi thường xuyên sinh sống có trách nhiệm cử người giám hộ cho họ. Thực tiễn vẫn còn nhận thức khác nhau về vấn đề này.
Tòa án chỉ định người giám hộ cho người tham gia tố tụng chưa thành niên theo trình tự, thủ tục như thế nào?
Mặc dù pháp luật có quy định về việc tòa án chỉ định người giám hộ, nhưng hiện nay thì pháp luật không có quy định cụ thể nào về trình tự, thủ tục để tòa án chỉ định người giám hộ cho người tham gia tố tụng dưới 18 tuổi. Từ đó, phát sinh khó khăn cho tòa án trong việc chỉ định ai là người giám hộ. Hoặc là khi có sự tranh chấp về thẩm quyền giữa các tòa án trong việc chỉ định người giám hộ thì trình tự, thủ tục giải quyết như thế nào?
Thế nào là cha, mẹ đều không có điều kiện chăm sóc, giáo dục con?
Theo quy định tại khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Dân sự, người chưa thành niên có cha, mẹ nhưng cha, mẹ đều không có điều kiện chăm sóc, giáo dục con thì có người giám hộ đương nhiên. Tuy nhiên, thế nào là đều không có điều kiện chăm sóc, giáo dục con thì hiện nay pháp luật không có quy định cụ thể. Đây cũng là khó khăn, vướng mắc trong quá trình xác định người giám hộ đương nhiên cho người tham gia tố tụng dưới 18 tuổi.
Việc xác định người giám hộ của người tham gia tố tụng là người dưới 18 tuổi trong vụ án hình sự có ý nghĩa rất quan trọng, để xác định đúng người đại diện hợp pháp cho người tham gia tố tụng là người dưới 18, bảo đảm được quyền lợi hợp pháp của người chưa thành niên. Thiết nghĩ những vướng mắc trên cần được Tòa án nhân dân tối cao hoặc các cơ quan tư pháp Trung ương sớm hướng dẫn để việc áp dụng pháp luật trong thực tiễn được thống nhất.
DƯƠNG TẤN THANH
Thẩm phán TAND thị xã Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh