/ Nghiên cứu - Trao đổi
/ Bảo đảm quyền con người trong các biện pháp ngăn chặn giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam theo quy định của BLTTHS năm 2015 và kiến nghị hoàn thiện

Bảo đảm quyền con người trong các biện pháp ngăn chặn giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam theo quy định của BLTTHS năm 2015 và kiến nghị hoàn thiện

20/03/2024 06:35 |

(LSVN) - Bộ luật Tố tụng Hình sự (BLTTHS) đã đặt ra các biện pháp ngăn chặn để hỗ trợ cho các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. Những biện pháp ngăn chặn này một mặt có ý nghĩa tích cực vào công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm, mặt khác là nếu không quy định một cách cụ thể, rõ ràng thì khi áp dụng các biện pháp này rất dễ vi phạm đến quyền con người. Các biện pháp ngăn chặn giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam được quy định trong BLTTHS năm 2015 đã thể hiện được vấn đề bảo đảm quyền con người, tuy nhiên vẫn còn một số bất cập.

Ảnh minh họa.

Một số vướng mắc, bất cập

Giữ người trong trường hợp khẩn cấp (Điều 110 BLTTHS)

Trước đây trong BLTTHS năm 2003 có quy định về biện pháp bắt người trong trường hợp khẩn cấp (Điều 81 BLTTHS 2003), quy định này là không phù hợp với tinh thần của Hiến pháp năm 2013 với lý do tại khoản 2 Điều 20 Hiến pháp năm 2013 ghi nhận: “Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Tòa án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt, giam, giữ người do luật định”. Như vậy theo Hiến pháp năm 2013, chỉ được bắt người khi có quyết định của Tòa án, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát, chỉ trừ trường hợp phạm tội quả tang. Nếu theo quy định tại Điều 81 BLTTHS 2003, có thể bắt người trong trường hợp khẩn cấp trước rồi mới phê chuẩn sau. Do đó, quy định này không phù hợp với quy định của Hiến pháp năm 2013 nên đến BLTTHS 2015 đã sửa đổi thành biện pháp “Giữ người trong trường hợp khẩn cấp”. Điều này thể hiện quan điểm lập pháp tiến bộ, coi trọng và bảo vệ quyền con người.

- Về đối tượng áp dụng: BLTTHS 2015 cũng quy định rõ các đối tượng có thể bị áp dụng biện pháp ngăn chặn giữ người trong trường hợp khẩn cấp tại khoản 1 Điều 110. Theo quy định này có 03 trường hợp bị áp dụng biện pháp ngăn chặn này bao gồm: Có đủ căn cứ để xác định người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng; Người cùng thực hiện tội phạm hoặc bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt nhìn thấy và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm mà xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn; Có dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở hoặc nơi làm việc hoặc trên phương tiện của người bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ. Việc quy định cụ thể các trường hợp có thể áp dụng là cách thức hữu hiệu để bảo vệ quyền con người, tránh việc áp dụng tùy tiện của các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Các trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 110 BLTTHS cũng là những trường hợp để đảm bảo ngăn chặn tội phạm rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng xảy ra hoặc để tránh việc bỏ trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ gây khó khăn cho quá trình đấu tranh phòng chống tội phạm nên cần thiết phải áp dụng ngay biện pháp này.

- Về thủ tục áp dụng: BLTTHS 2015 đã quy định khá chi tiết về thẩm quyền, trình tự thủ tục áp dụng, thời hạn áp dụng biện pháp này. Tại khoản 2 Điều 110 BLTTHS 2015 ghi nhận những người có quyền ra lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp như Thủ trưởng, phó thủ trường Cơ quan điều tra các cấp… Lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp phải ghi rõ họ tên, địa chỉ của người bị giữ, lý do bị giữ, căn cứ áp dụng. Đặc biệt, để đảm bảo quyền con người không bị xâm phạm, việc thi hành lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp phải theo đúng quy định tại khoản 2 Điều 113 BLTTHS 2015 đó là khi thi hành lệnh phải đọc lệnh, giải thích lệnh, giải thích về quyền và nghĩa vụ của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, lập biên bản về việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp và giao lệnh cho người bị giữ.

Để tránh người có thẩm quyền tiến hành tố tụng lạm quyền, có hành vi không đúng mực, vi phạm quyền con người, BLTTHS còn đặt ra quy định việc khi giữ người trong trường hợp khẩn cấp phải có sự chứng kiến của đại diện xã, phường, thị trấn và người khác chứng kiến hoặc nếu giữ người trong trường hợp khẩn cấp tại nơi làm việc, học tập thì phải có sự chứng kiến của đại diện nơi người đó làm việc, học tập hoặc nếu giữ người trong trường hợp khẩn cấp ở nơi khác thì phải có sự chứng kiến của đại diện xã, phường, thị trấn nơi tiến hành giữ người trong trường hợp khẩn cấp. Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi giữ người hoặc nhận người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải tiến hành lấy lời khai ngay và người có thẩm quyền phải ra quyết định tạm giữ;  lệnh bắt người bị giữ (lệnh này phải được gửi ngay đến Viện kiểm sát kèm tài liệu, chứng cứ để xét phê chuẩn) hoặc trả tự do ngay cho người đó nếu không có đủ căn cứ tạm giữ. 

Như vậy, trong thời hạn 12 giờ, nếu không đủ căn cứ ra quyết định tạm giữ, lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp thì phải trả tự do ngay cho người bị giữ. Điều này giúp hạn chế tối đa việc xâm phạm đến quyền tự do của con người, quyền bất khả xâm phạm về thân thể. Đối với việc phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, khi xét thấy cần thiết, Kiểm sát viên có thể trực tiếp gặp, hỏi người bị giữ trước khi xem xét phê chuẩn để tránh sự tùy ý của những chủ thể có thẩm quyền giữ người trong trường hợp khẩn cấp. Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi nhận được hồ sơ đề nghị xét phê chuẩn, Viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn hoặc không phê chuẩn. Trường hợp không phê chuẩn thì phải trả tự do ngay cho người bị giữ. Sau khi giữ người thì người ra lệnh giữ người phải thông báo cho gia đình người bị giữ, chính quyền địa phương hoặc nơi làm việc, học tập của người bị giữ biết.

Biện pháp bắt người đang bị truy nã (Điều 112); Biện pháp bắt người phạm tội quả tang (Điều 111); Biện pháp bắt bị can, bị cáo để tạm giam (Điều 113)

Biện pháp bắt người đang bị truy nã (Điều 112)

Biện pháp bắt người đang bị truy nã là biện pháp bắt người đang có quyết định truy nã của cơ quan có thẩm quyền. BLTTHS 2015 đã tách riêng biện pháp bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã tại Điều 82 BLTTHS 2003 thành hai điều luật độc lập bởi lẽ mặc dù có điểm tương đồng về sự cấp thiết, thẩm quyền áp dụng, trình tự thủ tục nhưng về bản chất đây là hai biện pháp áp dụng cho hai đối tượng hoàn toàn khác nhau.

- Về thẩm quyền áp dụng: Đối với biện pháp bắt người đang bị truy nã, bất  kỳ ai cũng có quyền bắt và giải ngay người bị truy nã đến Cơ quan Công an, Viện kiểm sát hoặc Ủy ban nhân dân gần nhất. Quy định này mặc dù cho phép bất kỳ ai cũng có quyền bắt người bị truy nã nhưng không  ảnh hưởng đến quyền con người, bởi lẽ, đây là đối tượng đã thực hiện hành vi phạm tội nhưng có hành vi bỏ trốn nên cơ quan có thẩm quyền đã ra quyết định truy nã, do đó, để đảm bảo tính cấp thiết trong công tác đấu tranh với tội phạm, BLTTHS 2015 cho phép bất kỳ ai cũng có thể bắt người đang bị truy nã nhưng phải giải ngay đến Công an, Viện kiểm sát hoặc Ủy ban nhân dân để giải quyết mà không được tự ý giam giữ người bị truy nã.

- Thủ tục áp dụng: Sau khi tiếp nhận người bị truy nã, Cơ quan Công an, Viện kiểm sát hoặc Ủy ban nhân dân phải lập biên bản tiếp nhận, giải ngay người bị bắt hoặc báo ngay cho Cơ quan Điều tra có thẩm quyền. Sau khi nhận người bị bắt theo quyết định truy nã, Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải lấy lời khai ngay, sau khi lấy lời khai, Cơ quan điều tra đã tiếp nhận người bị bắt phải thông báo cho Cơ quan đã ra quyết định truy nã đến nhận người bị bắt và sau khi nhận người bị bắt, cơ quan này phải ra quyết định đình nã. Nếu cơ quan đã ra quyết định truy nã không đến nhận ngay thì cơ quan điều tra tiếp nhận người bị bắt phải ra quyết định tạm giữ và báo cho cơ quan đã ra quyết định truy nã biết. Nếu hết thời hạn tạm giữ mà cơ quan ra quyết định truy nã vẫn chưa đến nhận thì gia hạn quyết định tạm giữ và gửi ngay đến Viện kiểm sát cùng cấp để phê chuẩn. Trường hợp không thể đến nhận ngay người bị bắt thì cơ quan đã ra quyết định truy nã phải ra ngay lệnh tạm giam và gửi lệnh tạm giam đã được Viện kiểm sát phê chuẩn cho cơ quan điều tra nhận người bị bắt. Điều này cho thấy, mặc dù bắt người khi có quyết định truy nã, cơ quan điều tra vẫn phải lấy lời khai ngay để đảm bảo xác minh chính xác về lý lịch của người bị bắt và hành vi phạm tội theo quyết định truy nã. Ngoài ra, việc tạm giữ, tạm giam người bị bắt khi có lệnh truy nã cũng phải có quyết định tạm giữ, tạm giam được Viện kiểm sát phê chuẩn để tránh sự lạm quyền của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, bảo đảm quyền con người.

Biện pháp bắt người phạm tội quả tang (Điều 111)

Biện pháp này áp dụng đối với người đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm mà bị phát hiện hoặc bị đuổi bắt.

-Về thẩm quyền bắt người phạm tội quả tang: Trường hợp này cũng tương tự như trường hợp bắt người đang bị truy nã, tức là bất kỳ người nào cũng có quyền bắt và giải ngay người bị bắt đến Cơ quan Công an, Viện Kiểm sát hoặc Ủy ban nhân dân nơi gần nhất.

- Về thủ tục áp dụng: Sau khi tiếp nhận người phạm tội quả tang, Cơ quan Công an, Viện Kiểm sát hoặc Ủy ban nhân dân phải lập biên bản tiếp nhận và giải ngay người bị bắt hoặc báo ngay cho cơ quan điều tra có thẩm quyền. Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra sau khi tiếp nhận phải lấy lời khai ngay và trong thời hạn 12 giờ phải ra quyết định tạm giữ hoặc trả tự do cho người bị bắt.

Bắt bị can, bị cáo để tạm giam (Điều 113)

Biện pháp này được áp dụng đối với bị can, bị cáo, tức là người đã bị khởi tố bị can hoặc người đã bị Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Việc áp dụng biện pháp này để phục vụ cho quá trình điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. Đây là một trong những biện pháp ngăn chặn mang tính nghiêm khắc nhất và rất dễ ảnh hưởng đến quyền con người, quyền công dân đã được quy định trong Hiến pháp năm 2013 [1] .

- Về thẩm quyền áp dụng: Điều 113 BLTTHS 2015 đã quy định cụ thể về thẩm quyền áp dụng biện pháp này gồm: Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp. Trường hợp này, lệnh bắt phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành; Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự các cấp; Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân và Chánh án, Phó Chánh án Tòa án quân sự các cấp; Hội đồng xét xử. Đây là biện pháp ảnh hưởng trực tiếp đến quyền tự do của con người nên cần thiết phải quy định cụ thể, rõ ràng chủ thể có thẩm quyền áp dụng để tránh sự tùy ý.

- Về thủ tục áp dụng: Như đã phân tích tại mục 1.2.2 về biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp, đối với biện pháp bắt bị can, bị cáo để tạm giam cũng phải tuân theo trình tự quy định tại khoản 2 Điều 113 BLTTHS 2015. Theo đó, lệnh bắt, quyết định phê chuẩn lệnh bắt, quyết định bắt phải ghi rõ họ tên, địa chỉ của người bị bắt, lý do bị bắt. Khi thi hành lệnh, quyết định bắt phải đọc và giải thích lệnh, quyết định bắt cho người bị bắt, giải thích về quyền và nghĩa vụ của người bị bắt để tạm giam, giúp họ nắm được những quyền và nghĩa vụ cơ bản của mình, tránh bị xâm phạm. Khi tiến hành bắt phải có sự chứng kiến của đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc nơi làm việc, học tập của người bị bắt.

Một quy định thể hiện rất rõ quyền con người trong biện pháp này đó là không được bắt người vào ban đêm, trừ trường hợp bắt người phạm tội quả tang hoặc người đang bị truy nã (khoản 3 Điều 113 BLTTHS). Ban đêm được hiểu là thời gian từ 22 giờ đến 06 giờ sáng hôm sau, đây là thời gian để con người nghỉ ngơi, trừ trường hợp phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã có thể bị bắt cả vào ban đêm để đảm bảo tính cấp thiết thì những trường hợp khác không được bắt người vào ban đêm để đảm bảo tốt nhất quyền được nghỉ ngơi của con người. Hơn nữa, việc không bắt người vào ban đêm sẽ đảm bảo tính công khai, minh bạch và nhằm tránh xáo trộn, ồn ào gây ảnh hưởng đến những người xung quanh.

Tạm giữ (Điều 117)

Biện pháp tạm giữ có thể áp dụng đối với các trường hợp như: người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc đối với người bị bắt theo quyết định truy nã. Chủ thể có thẩm quyền ra lệnh tạm giữ là những người có thẩm quyền ra lệnh giữ người quy định tại khoản 2 Điều 110 BLTTHS 2015.

Trong các trường hợp tạm giữ, trong thời hạn 12 giờ kể từ khi ra quyết định tạm giữ, người ra quyết định tạm giữ phải gửi quyết định kèm tài liệu cho Viện kiểm sát có thẩm quyền. Nếu xét thấy không có căn cứ để tạm giữ thì Viện kiểm sát có thẩm quyền ra quyết định hủy bỏ quyết định tạm giữ và người ra quyết định tạm giữ phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ. Việc trao quyền kiểm sát cho Viện kiểm sát trong trường hợp này để đảm bảo những chủ thể có thẩm quyền ra quyết định tạm giữ thi hành đúng pháp luật, tránh lạm quyền, giữ người không đúng pháp luật, vi phạm quyền con người. Thời hạn tạm giữ không quá 03 ngày kể từ khi cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra nhận người bị giữ, người bị bắt hoặc áp giải người bị giữ, người bị bắt về trụ sở của mình hoặc kể từ khi CQĐT ra quyết định tạm giữ người phạm tội tự thú, đầu thú. Trong trường hợp cần thiết có thể gia hạn tạm giữ nhưng không quá 03 ngày, trường hợp đặc biệt có thể gia hạn lần thứ hai nhưng không quá 03 ngày. Mọi quyết định gia hạn phải được Viện kiểm sát phê chuẩn. Việc quy định rõ ràng thời hạn tạm giữ để tránh trường hợp người tiến hành tố tụng cố ý kéo dài thời gian tạm giữ, không chủ động giải quyết nhanh chóng, kịp thời, ảnh hưởng đến quyền tự do của người bị tạm giữ.

Một vấn đề nữa để đảm bảo quyền con người khi áp dụng biện pháp tạm giữ đó là việc vận dụng nguyên tắc suy đoán vô tội, theo quy định tại khoản 3 Điều 118 BLTTHS, trong khi tạm giữ mà không đủ căn cứ để khởi tố bị can thì Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ, nếu đã gia hạn tạm giữ thì Viện kiểm sát phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ.

Tạm giam (Điều 119)

Trong hệ thống các biện pháp ngăn chặn thì biện pháp tạm giam là biện pháp mang tính cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước, người bị tạm giam sẽ bị tước quyền tự do trong một khoảng thời gian nhất định, nếu tạm giữ chỉ trong thời hạn không quá 03 ngày và có thể được gia hạn 02 lần, mỗi lần không quá 03 ngày thì biện pháp tạm giam được áp dụng trong thời hạn dài hơn phụ thuộc vào từng loại tội phạm.

Để bảo đảm các quyền tự do dân chủ của công dân,  BLTTHS đã quy định cụ thể rõ ràng các căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam cho từng đối tượng cụ thể để tránh sự mập mờ, lạm dụng của các cơ quan chức năng khi áp dụng. Điều 119 BLTTHS quy định tạm giam được áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội đặc biệt nghiêm trọng, rất nghiêm trọng; đối với bị can, bị cáo bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử về tội phạm nghiêm trọng, tội phạm ít nghiêm trọng mà Bộ luật Hình sự quy định hình phạt tù trên 02 năm thì chỉ bị áp dụng biện pháp tạm giam khi có các căn cứ quy định từ điểm a đến điểm đ khoản 2 Điều 119 BLTTHS. Ngoài ra, để khắc phục những vướng mắc trong thực tiễn liên quan đến bị can, bị cáo bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử về tội phạm ít nghiêm trọng mà Bộ luật Hình sự quy định mức phạt tù đến 02 năm nhưng bỏ trốn, Bộ luật TTHS quy định chỉ có thể tạm giam đối tượng này nếu họ tiếp tục phạm tội hoặc bỏ trốn và bị bắt theo lệnh truy nã[2]. Đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng, là người già yếu hoặc người bị bệnh nặng mà có nơi cư trú hoặc lý lịch rõ ràng thì không áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam, trừ các trường hợp quy định từ điểm a đến điểm d khoản 4 Điều 119 BLTTHS. Bởi lẽ đây là những đối tượng yếu thế cần có sự chăm sóc đặc biệt mà khi áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam khó có thể đảm bảo được các điều kiện tối thiểu cho họ.

Về người có thẩm quyền áp dụng và thủ tục áp dụng biện pháp tạm giam: Những người có thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều 113 BLTTHS có quyền ra lệnh quyết định tạm giam và lệnh tạm giam của những người được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 113 phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành (trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày nhận được lệnh tạm giam, đề nghị xét phê chuẩn và hồ sơ liên quan, Viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn hoặc không phê chuẩn). Viện kiểm sát phải hoàn trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra ngay sau khi kết thúc việc phê chuẩn.

Đặc biệt tại Điều 120 BLTTHS quy định trường hợp người bị tạm giữ, tạm giam có người thân thích là người tàn tật, già yếu, có nhược điểm về tâm thần mà không có người chăm sóc thì Cơ quan ra quyết định tạm giữ, lệnh hoặc quyết định tạm giam giao người đó cho người thân thích khác trông nom, trường hợp không có người thân thích khác thì giao cho chính quyền xã, phường, thị trấn nơi họ cư trú chăm nom. Việc chăm sóc nuôi dưỡng trẻ em là con của người bị tạm giữ, tạm giam thực hiện theo Luật thi hành tạm giữ, tạm giam. Quy định này giúp đảm bảo người bị tạm giữ, tạm giam không phải lo lắng, suy nghĩ về những người thân thích bị tàn tật, già yếu, có nhược điểm về tâm thần, sẽ đảm bảo được có người trông nom những đối tượng này khi họ bị tạm giữ, tạm giam. Đây là quy định mang tính nhân văn của BLTTHS 2015.

 Hạn chế, kiến nghị hoàn thiện

Thứ nhất, mặc dù BLTTHS năm 2015 đã sửa đổi từ biện pháp bắt người trong trường hợp khẩn cấp thành biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp, điều này phần nào thể hiện sự quan tâm về quyền con người của các nhà lập pháp. Tuy nhiên, việc sửa đổi này về bản chất chỉ thay đổi về kỹ thuật lập pháp sao cho phù hợp với Hiến pháp năm 2013 mà chưa đảm bảo được tối đa quyền con người trong tố tụng hình sự. Bởi lẽ đến quy định tại Điều 110 BLTTHS năm 2015 vẫn quy định biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp, trong đó việc quy định các đối tượng có thể bị áp dụng là có đủ căn cứ để xác định người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, vậy trong trường hợp này, căn cứ nào để xác định được người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng? Ở trường hợp này rất khó xác định hành vi hành vi ấy cấu thành loại tội phạm nào.

Do đó, để áp dụng căn cứ này chủ yếu dựa vào đánh giá chủ quan của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Ngoài ra, việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp vẫn được áp dụng khi chưa có sự phê chuẩn của Viện kiểm sát, mặc dù có quy định về thời hạn chặt chẽ nhưng vẫn dẫn đến sự tùy ý của người có thẩm quyền giữ người trong trường hợp khẩn cấp, về bản chất không có sự khác biệt so với biện pháp bắt người trong trường hợp khẩn cấp được quy định tại Điều 81 BLTTHS 2003. Do vậy, cần bỏ quy định này ra khỏi BLTTHS.

Thứ hai, hiện nay, BLTTHS quy định biện pháp bắt bị can, bị cáo để tạm giam và biện pháp tạm giam là hai biện pháp ngăn chặn độc lập, được quy định tại hai điều luật riêng biệt (Điều 113 và Điều 119). Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là nếu không thực hiện biệp pháp bắt bị can, bị cáo để tạm giam thì làm thế nào để thực hiện được biện pháp tạm giam? Theo quan điểm nhóm chúng em cho rằng, việc bắt bị can, bị cáo để tạm giam chỉ là một thủ tục để thực hiện biện pháp ngăn chặn tạm giam mà không phải là một biện pháp ngăn chặn độc lập. Bởi lẽ, để tạm giam bị can, bị cáo thì bắt buộc phải thực hiện thủ tục bắt để tạm giam. Do đó, cần thiết bỏ quy định bắt bị can, bị cáo để tạm giam với tư cách là một biện pháp ngăn chặn độc lập và chuyển quy định về bắt bị can, bị cáo để tạm giam vào quy định của biện pháp tạm giam.

Thứ ba, Điều 419 BLTTHS quy định về việc áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với người dưới 18 tuổi, trong đó, người dưới 18 tuổi chỉ bị áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam khi có căn cứ cho rằng những biện pháp giám sát và các biện pháp ngăn chặn khác không hiệu quả. Tuy nhiên, khi áp dụng biện pháp tạm giữ đối với người dưới 18 tuổi thì ngoài những căn cứ chung được quy định tại Điều 117 BLTTHS, còn phải áp dụng những quy định cụ thể tại Điều 419 BLTTHS. Nhưng tại Điều 419 chỉ dẫn chiếu đến các căn cứ tại Điều 110, 111, 112, 119 Bộ luật TTHS về việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn khác; trong khi đó, biện pháp tạm giữ ở Điều 117 lại không được dẫn chiếu. Điều này dẫn đến vướng mắc về viện dẫn cơ sở pháp lý để áp dụng biện pháp tạm giữ đối với người dưới 18 tuổi. Vì vậy, cần bổ sung vào Điều 419 Bộ luật TTHS về cơ sở pháp lý để áp dụng biện pháp tạm giữ đối với người dưới 18 tuổi, để đảm bảo tính hoàn thiện trong quy định của Bộ luật TTHS về biện pháp tạm giữ cũng như đảm bảo không áp dụng tùy ý biện pháp tạm giữ, bảo đảm tốt nhất quyền con người cho người dưới 18 tuổi.

[1] TS. Trịnh Duy Thuyên, Bảo đảm quyền con người trong áp dụng biện pháp bắt, giữ người trong tố tụng hình sự, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, link truy cập: http://www.lapphap.vn/Pages/tintuc/tinchitiet.aspx?tintucid=211560.

[2] TS. Trịnh Duy Thuyên, Bảo đảm quyền con người trong áp dụng biện pháp bắt, giữ người trong tố tụng hình sự, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, link truy cập: http://www.lapphap.vn/Pages/tintuc/tinchitiet.aspx?tintucid=211560.

NGUYỄN THANH HUYỀN

Tòa án quân sự Khu vực Quân khu 7

Một số quy định cần hoàn thiện nhằm thúc đẩy thị trường quyền sử dụng đất

Nguyễn Mỹ Linh