/ Hoạt động Luật sư
/ Bảo đảm thực hiện tranh tụng trong xét xử, nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa

Bảo đảm thực hiện tranh tụng trong xét xử, nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa

01/01/0001 00:00 |

(LSVN) - Thực hiện Kế hoạch số 02-KH/BCĐ ngày 20/7/2021 của Ban chỉ đạo xây dựng Đề án “Chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045”, Ban Cán sự Đảng Tòa án nhân dân (TAND) Tối cao tổ chức nghiên cứu, xây dựng Đề án “Cải cách tư pháp tại TAND đến 2030, định hướng đến 2045 đáp ứng yêu cầu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.

Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc, Uỷ viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp Trung ương, Trưởng Ban Chỉ đạo Đề án “Chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam” chủ trì Hội thảo.

Chuyên đề “Bảo đảm thực hiện tranh tụng trong xét xử, nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa” có nhiệm vụ: (1) Phân tích hiện trạng thực thi các quy định nhằm bảo đảm tranh tụng trong xét xử, chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa; (2) Đề xuất những đổi mới và các nội dung nhằm bảo đảm thực hiện tranh tụng trong xét xử, nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa và các nội dung khác về cải cách tư pháp tại Nghị quyết Trung ương “chiến lược hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến 2045.

1. Hiện trạng thực thi các quy định nhằm bảo đảm tranh tụng trong xét xử, chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa

1.1. Tăng cường và đảm bảo tranh tụng trong xét xử có ý nghĩa quan trọng với việc đẩy mạnh dân chủ, công bằng, khách quan, dựa trên cơ sở pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án. Một trong những quyền của người bị buộc tội được quy định tại khoản 2 Điều 31 Hiến pháp 2013 là quyền được Tòa án xét xử kịp thời trong thời hạn luật định, công bằng, công khai. Đồng thời, đó còn là một trong những giải pháp quan trọng, đặt ra yêu cầu đối với các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng phải tự nâng cao năng lực, trình độ, trách nhiệm, bản lĩnh công tác để đáp ứng những đòi hỏi mới của quá trình tố tụng hình sự (TTHS).

Có thể khẳng định, tăng cường tranh tụng trong hoạt động xét xử của Toà án là tư tưởng mang tính đột phá, xuyên suốt nội dung đổi mới và hoàn thiện mô hình TTHS Việt Nam, được xác định là một trong những vấn đề quan trọng nhất của cải cách tư pháp, bắt nguồn từ Nghị quyết 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới (Nghị quyết 08) đã yêu cầu: “Nâng cao chất lượng công tố của Kiểm sát viên tại phiên toà, bảo đảm tranh tụng dân chủ với Luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác...

Việc phán quyết của Toà án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn,... để ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục trong thời hạn luật định. Các cơ quan tư pháp có trách nhiệm tạo điều kiện để Luật sư tham gia vào quá trình tố tụng, tham gia hỏi cung bị can, nghiên cứu hồ sơ vụ án, tranh luận dân chủ tại phiên toà”. Nghị quyết 08 cũng nhấn mạnh: “Các cơ quan tư pháp có trách nhiệm tạo điều kiện cho Luật sư tham gia vào quá trình tố tụng, tham gia hỏi cung bị can, nghiên cứu hồ sơ vụ án; tranh luận dân chủ tại phiên tòa”.

Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc phát biểu khai mạc Hội thảo và định hướng thảo luận.

Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị Khóa IX về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 (Nghị quyết 49) đã thể hiện quan điểm, chủ trương của Đảng trong việc: “Đổi mới việc tổ chức phiên toà xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng bảo đảm tính công khai, dân chủ, nghiêm minh; nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên toà xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp”. Đào tạo, phát triển đội ngũ Luật sư đủ về số lượng, có phẩm chất chính trị, đạo đức, có trình độ chuyên môn. Hoàn thiện cơ chế bảo đảm để Luật sư thực hiện tốt việc tranh tụng tại phiên tòa, đồng thời xác định rõ chế độ trách nhiệm đối với Luật sư. Nhà nước tạo điều kiện về pháp lý để phát huy chế độ tự quản của tổ chức Luật sư; đề cao trách nhiệm của các tổ chức Luật sư đối với thành viên của mình”. Kết luận số 84-KL/TW ngày 29/7/2020 tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 tiếp tục quán triệt và thực hiện các quan điểm, định hướng về Luật sư nêu trong Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp.

Trong quá trình hoàn thiện thể chế và pháp điển hóa hoạt động xét xử, Hiến pháp 2013 đã khẳng định Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp. Các nguyên tắc cơ bản trong TTHS, tố tụng dân sự (TTDS), tố tụng hành chính (TTHC) cũng đã ghi nhận nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được đảm bảo. Hiến pháp 2013 và các Bộ luật, Luật khi ghi nhận nguyên tắc tranh tụng đã đề cao trọng tâm là cải cách tư pháp là cải cách hệ thống Tòa án, đề cao quá trình dân chủ hóa hoạt động tố tụng và sự bình đẳng trong quá trình giải quyết vụ án của các chủ thể thực hiện chức năng cơ bản của TTHS. Đó cũng là cơ sở nâng cao năng lực, trình độ, trách nhiệm, bản lĩnh nghề nghiệp của từng chủ thể, đáp ứng những đòi hỏi mới của quá trình cải cách tư pháp. Trong quá trình thảo luận, các thành viên Ban soạn thảo và Tổ biên tập sửa đổi các Bộ luật tố tụng đều thống nhất cao nếu nguyên tắc này được tôn trọng và bảo đảm sẽ mở rộng và tăng cường hơn nữa môi trường dân chủ, tính công khai, công bằng của quá trình giải quyết vụ án hình sự; thiết lập các cơ chế để bảo vệ ngày càng tốt hơn quyền con người trong tố tụng, mở ra các khả năng và điều kiện tốt nhất để bảo đảm thực hiện quyền bào chữa cho người bị buộc tội, bảo vệ quyền lợi cho đương sự một cách bình đẳng nhằm giải quyết vụ án được khách quan, vô tư và đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, tránh tình trạng oan, sai.

Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm và thủ tục tranh tụng tại phiên toà được quy định tại chương các nguyên tắc cơ bản và chương về thủ tục tranh tụng của các Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) 2015, Bộ luật Tố tụng Dân sự (BLTTDS) 2015, Luật Tố tụng hành chính 2015 (hợp nhất 2019).

1.2. Tại thời điểm Liên đoàn Luật Việt Nam được thành lập (5/2009), tổng số Luật sư trong cả nước là 5.300 Luật sư, đến ngày 30/09/2021 số Luật sư trong cả nước đã phát triển tới 16.115 Luật sư, trung bình mỗi năm tăng khoảng 1.000 luật sư. Như vậy, trong hơn 12 năm qua, đội ngũ Luật sư nước ta đã phát triển tương đối nhanh về số lượng, tham gia, hoạt động trong tất cả các lĩnh vực hành nghề như: Tranh tụng trong vụ án hình sự, dân sự, hành chính, lao động, kinh doanh thương mại; tư vấn pháp luật; đại diện ngoài tố tụng và các dịch vụ pháp lý khác. Theo báo cáo chưa đầy đủ của các Đoàn Luật sư, trong 2 nhiệm kỳ qua (từ năm 2009 đến 31/12/2020) [1], liên quan đến các vụ án được Toà án đưa ra xét xử, đội ngũ Luật sư Việt Nam đã tham gia các giai đoạn tố tụng, trong đó có các phiên toà xét xử như sau:

- Tham gia vào 158.201 vụ án hình sự (trong đó có 79.997 vụ án hình sự chỉ định theo yêu cầu của các cơ quan tiến hành tố tụng) và 78.204 vụ án hình sự được khách hàng mời.

- Tham gia vào 132.602 vụ việc dân sự, 58.371 vụ việc trong lĩnh vực kinh tế kinh doanh thương mại, 9.672 vụ án hành chính, 2.578 vụ án lao động.

Số lượng vụ việc, dịch vụ pháp lý có sự tham gia của Luật sư mặc dù tỷ lệ còn thấp nhưng nhìn chung, năm sau tăng hơn năm trước. Cùng với việc tăng về số lượng, chất lượng dịch vụ pháp lý của Luật sư cũng được nâng cao đáng kể. Về tham gia tố tụng, các Luật sư đã tham gia bào chữa, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của khách hàng trong tất cả các lĩnh vực hình sự, dân sự, kinh tế, hành chính, lao động, hôn nhân gia đình... Ngoài những vụ án hình sự mà Luật sư tham gia bào chữa tăng hàng năm, thì đặc biệt số vụ án tranh chấp về kinh tế, kinh doanh thương mại, hành chính có chiều hướng tăng nhanh, chất lượng dịch vụ tư vấn và tranh tụng của Luật sư ngày càng được nâng cao ở các lĩnh vực, trong đó tham gia nhiều hơn vào các quá trình tố tụng hình sự, dân sự, hành chính...

Có thể nói, nghề Luật sư, hoạt động Luật sư đang có được vị thế, môi trường pháp lý và cơ chế hoạt động thuận lợi, nhưng cũng đứng trước những thách thức và cơ hội rất lớn. Trong nhiều Nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc, đặc biệt là Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 2/01/2002 và Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, đã tạo ra diện mạo mới với những kết quả hết sức tích cực, tác động rất lớn đến tổ chức và hoạt động của đội ngũ Luật sư. Từ Hiến pháp năm 1946 cho đến Hiến pháp 2013, Luật Luật sư, các BLTTHS, BLTTDS và Bộ luật Tố tụng hành chính, các Luật và văn bản pháp quy đã quy định quyền tự bào chữa, nhờ Luật sư hoặc người khác bào chữa, bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho đương sự là một trong những quyền và tự do cơ bản của con người, đặt vị trí Luật sư là chủ thể thực hiện chức năng bào chữa, cùng với chức năng buộc tội và chức năng xét xử tạo thành chiếc kiềng ba chân nâng đỡ nền tư pháp nước nhà.

Quang cảnh Hội thảo khoa học.

1.3. Thực hiện nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm được quy định tại BLTTHS 2015, BLTTDS 2015, Luật Tố tụng hành chính 2015 (hợp nhất 2019), Toà án các cấp đã đạt được những kết quả rất đáng ghi nhận, thể hiện tại các phiên toà hình sự, dân sự, kinh doanh thương mại, hôn nhân gia đình, hành chính, lao động,…:

Thứ nhất, nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm được quy định tại Điều 26 BLTTHS 2015 là một nguyên tắc được thể hiện rõ nét trong các phiên toà xét xử các hình sự. Tòa án các cấp đã tạo điều kiện thuận lợi trong việc cấp Thông báo đăng ký bào chữa, nghiên cứu, sao chụp hồ sơ vụ án và tham gia tranh tụng tại phiên tòa. Để thực hiện nguyên tắc này, trước khi mở phiên tòa, nhiều Tòa án đã áp dụng quy định mới tại Điều 252 BLTTHS 2015 tiến hành việc xác minh, thu thập, bổ sung chứng cứ bằng các hoạt động: (1) Tiếp nhận chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án do cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp; (2) Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án; (3) Xem xét tại chỗ vật chứng không thể đưa đến phiên tòa; (4) Xem xét tại chỗ nơi đã xảy ra tội phạm hoặc địa điểm khác có liên quan đến vụ án; (5) Trưng cầu giám định, yêu cầu định giá tài sản ngoài các trường hợp bắt buộc phải trưng cầu giám định, cần định giá tài sản quy định tại Điều 206 và Điều 215 của BLTTHS; trưng cầu giám định bổ sung, giám định lại; yêu cầu định giá lại tài sản.

Trước và trong quá trình mở phiên tòa, nhiều Hội đồng xét xử đã tiếp nhận chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án theo Điều 253 BLTTHS 2015, trong đó tiếp nhận chứng cứ, tài liệu mới do Luật sư cung cấp, chuyển cho Viện Kiểm sát cùng cấp xem xét và có đánh giá về giá trị của chứng cứ ngay tại phiên tòa. Kết quả tích cực cần được ghi nhận không chỉ là sự đổi mới cách bố trí phòng xử án, trong đó vị trí ngồi của Luật sư ngang bằng với Kiểm sát viên, mà tại nhiều phiên tòa, các Thẩm phán, Hội đồng xét xử, các Kiểm sát viên đã thể hiện sự tôn trọng, tạo điều kiện cho các Luật sư thực hiện chức phận nghề nghiệp của mình, nhằm bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo, đương sự.

Trong quá trình xét hỏi, kiểm tra, đánh giá chứng cứ, nhiều Hội đồng xét xử đã chú trọng và bảo đảm quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ, đưa ra yêu cầu để làm rõ sự thật khách quan của vụ án của Luật sư; xử lý đúng đắn các tình huốn phát sinh chứng cứ mới, sau khi tranh luận, đã quay trở lại phần xét hỏi, do phát sinh tình tiết mới thông qua tranh tụng đã quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung. Thực hiện Điều 322 BLTTHS 2015, trước yêu cầu tranh luận, đối đáp của Luật sư, Hội đồng xét xử đã đề nghị Kiểm sát viên phải đưa ra chứng cứ, tài liệu và lập luận để đối đáp đến cùng từng ý kiến của bị cáo, người bào chữa, người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa. Một số vụ án chủ toạ phiên tòa không hạn chế thời gian tranh luận, tạo điều kiện cho Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, bị hại, người tham gia tố tụng khác tranh luận, trình bày hết ý kiến. Tại rất nhiều phiên tòa, Thẩm phán chủ tọa đã điều hành, tạo thuận lợi để các Kiểm sát viên và Luật sư tranh luận, đối đáp không bị hạn chế thời gian, thậm chí có phiên tranh tụng kéo dài nhiều tuần, có buổi đến 21- 22 giờ đêm.

Trong nhiều quyết định, bản án, Hội đồng xét xử không chỉ quan tâm chứng cứ xác định có tội, mà cả các chứng cứ xác định vô tội, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, áp dụng điểm, khoản, điều của Bộ luật Hình sự để xác định tội danh, quyết định hình phạt, mức bồi thường thiệt hại đối với bị cáo, xử lý vật chứng và những tình tiết khác có ý nghĩa giải quyết vụ án đều phải được trình bày, tranh luận, làm rõ tại phiên tòa. Do đó, nhiều bản án, quyết định của Tòa án đã căn cứ vào kết quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa.

Nhiều Hội đồng xét xử đã quan tâm đến việc phản ánh trung thực diễn biến tranh tụng thông qua ghi nhận tại Biên bản phiên tòa, một số trường hợp đã cho phép Luật sư, bị cáo, bị hại, đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự hoặc đại diện của những người đó được xem biên bản phiên tòa, ghi những sửa đổi, bổ sung vào biên bản phiên tòa thì Thư ký Tòa án phải ghi sửa đổi, bổ sung đó vào Biên bản phiên tòa. Nhiều bản án đã tuân thủ Điều 260 BLTTHS 2015 đã ghi đầy đủ ý kiến của người bào chữa, bị hại, đương sự, người khác tham gia phiên tòa được Tòa án triệu tập, lý do mà Hội đồng xét xử không chấp nhận những chứng cứ buộc tội, chứng cứ gỡ tội, yêu cầu, đề nghị của Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, bị hại, đương sự và người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ đưa ra…

Thứ hai, nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong xét xử được quy định tại Điều 24 BLTTDS 2015 và Điều 18 Luật Tố tụng hành chính 2015 (hợp nhất 2019) cũng được Toà án các cấp chú trọng trong quá trình xét xử các vụ án dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh thương mại (gọi chung “dân sự”), hành chính, lao động… Khác với các vụ án hình sự, trong các vụ án dân sự, hành chính phần lớn đều có sự tham gia của Luật sư với hai vai trò là người bảo vệ quyền lợi hợp pháp hoặc đại diện theo uỷ quyền của đương sự. Với vai trò của mình, các Luật sư đã tham gia tích cực trong việc thay mặt đương sự trình bày yêu cầu, tham gia xét hỏi và tranh luận, đối đáp tại phiên toà. Điểm tích cực trong các phiên toà này là Hội đồng xét xử cố gắng bảo đảm cho đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện quyền tranh tụng trong xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm theo quy định của pháp luật.

Trong một số vụ án dân sự, hành chính phức tạp, Toà án các cấp đã đảm bảo cho đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện đầy đủ quyền thu thập, giao nộp tài liệu, chứng cứ kể từ khi Tòa án thụ lý vụ án và có nghĩa vụ thông báo cho nhau các tài liệu, chứng cứ đã giao nộp; được trình bày, đối đáp, phát biểu quan điểm, lập luận về đánh giá chứng cứ và pháp luật áp dụng để bảo vệ yêu cầu, quyền, lợi ích hợp pháp của mình hoặc bác bỏ yêu cầu của người khác theo quy định của Bộ luật này. Trong quá trình xét xử, các tài liệu, chứng cứ được xem xét đầy đủ, khách quan, toàn diện, công khai, Tòa án điều hành việc tranh tụng, hỏi những vấn đề chưa rõ và căn cứ vào kết quả tranh tụng để ra bản án, quyết định. Tại các phiên tòa dân sự, hành chính, Hội đồng xét xử đã tạo điều kiện cho các bên trình bày chứng cứ, hỏi, đối đáp, trả lời và phát biểu quan điểm, lập luận về đánh giá chứng cứ, tình tiết của vụ án dân sự, quan hệ pháp luật tranh chấp và pháp luật áp dụng để giải quyết yêu cầu của các đương sự trong vụ án, không hạn chế thời gian tranh tụng theo Điều 247 BLTTDS, tạo điều kiện cho những người tham gia tranh tụng trình bày hết ý kiến. Qua tranh luận, nếu xét thấy có tình tiết của vụ án chưa được xem xét, việc xem xét chưa được đầy đủ hoặc cần xem xét thêm chứng cứ thì Hội đồng xét xử quyết định trở lại việc hỏi và tranh luận, thực hiện đúng quy định tại Điều 263 BLTTDS 2015.

1.4. Tuy nhiên, nhìn lại hoạt động xét xử và thực hiện nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được đảm bảo, cũng còn một số hạn chế, cản ngại, ảnh hưởng đến việc xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, trong đó nguyên nhân chủ yếu nằm trong nhận thức của một số người tiến hành tố tụng và một phần nằm trong ứng xử nghề nghiệp của một số Luật sư. Do cách tiếp cận và quan điểm đánh giá hành vi bị coi là phạm tội, hay quyền lợi của các bên đương sự giữa Luật sư với các cơ quan và người tiến hành tố tụng có sự khác biệt, nên nhiều Luật sư cũng chưa hoàn toàn thỏa mãn với một số bản án, quyết định của Tòa án chưa xuất phát từ kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Một số vụ án bị kéo dài, chia tách vụ án nhiều giai đoạn, dẫn đến bất lợi cho các bị cáo bị xét xử về cùng hành vi, cùng thời điểm xảy ra sai phạm.

Bên cạnh kết quả đáng ghi nhận nêu trên, đánh giá một cách thực chất, vẫn còn khoảng cách nhất định giữa chủ trương của Đảng, tinh thần và nội dung của nguyên tắc tranh tụng với thực tiễn xét xử. Vấn đề mấu chốt là mặc dù tên gọi của nguyên tắc này là “tranh tụng trong xét xử được bảo đảm”, nhưng mức độ và phạm vi những vấn đề tranh tụng đã mở rộng ngay từ khi vụ án được khởi tố chứ không chỉ diễn ra tại phiên tòa xét xử công khai. Liên quan vấn đề này, đã có những hạn chế nhất định trong việc bảo đảm quyền của người bào chữa trong giai đoạn điều tra (thủ tục, tham dự hỏi cung, thu thập tài liệu, chứng cứ). Do nội dung nguyên tắc quy định tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án do Viện Kiểm sát chuyển đến Tòa án để xét xử phải đầy đủ và hợp pháp, nếu việc thu thập, kiểm tra, sử dụng và đánh giá chứng cứ không được đầy đủ thì Tòa án khó tạo điều kiện cho Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, những người tham gia tố tụng khác thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ của mình và tranh tụng dân chủ, bình đẳng trước Tòa án. “Chất liệu” của tranh tụng chính là các tài liệu, chứng cứ được thu thập trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử và luận lý buộc tội, gỡ tội từ phía các chủ thể thực hiện các chức năng cơ bản của TTHS, nên nếu chất liệu này bị hạn chế thì chất lượng tranh tụng và phán quyết của Tòa án chắc chắn sẽ bị ảnh hưởng.

Mặt khác, để bảo đảm thực hiện nguyên tắc tranh tụng, nội dung điều luật này quy định mọi chứng cứ giữa hai bên buộc tội và gỡ tội đưa ra đều phải được trình bày, tranh luận, làm rõ tại phiên tòa. Trong một số vụ án, sau khi xét hỏi, tranh luận và đối đáp đã phát sinh các chứng cứ mới nhưng bản án, quyết định của Tòa án chưa xem xét, đánh giá mà vẫn bảo lưu quan điểm buộc tội, dẫn đến tiềm ẩn phát sinh oan, sai trong tố tụng. Đối với một số vụ án tham nhũng, xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, quá trình trưng cầu và ban hành kết luận giám định còn nhiều khác biệt, dẫn đến hiện vẫn tồn tại nhiều bản án có đánh gía khác nhau về xác định hậu quả thiệt hại vụ án vào thời điểm xảy ra sai phạm hay thời điểm khởi tố vụ án[2],

BLTTHS 2015 quy định chủ toạ phiên toà không được hạn chế thời gian tranh luận, tạo điều kiện cho những người tham gia tranh luận trình bày hết ý kiến, nhưng có quyền cắt những ý kiến không có liên quan đến vụ án. Tuy nhiên, do nội hàm của khái niệm “không liên quan vụ án” trên thực tế có thể được diễn giải khác nhau, nên chủ tọa có thể dùng quyền của mình để cắt ý kiến của người bào chữa. Nếu Kiểm sát viên không đáp lại thì cũng không có cơ chế nào buộc họ phải tranh luận đến cùng. Chất lượng và kết quả tranh tụng trong một chừng mực bị hạn chế, trong một số vụ án, phán quyết của Tòa án chưa xuất phát từ kết quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa.

Liên quan đến các phiên tòa dân sự, hành chính, bên cạnh những kết quả nêu trên, vẫn còn tình trạng thụ lý, giải quyết vụ án kéo dài, có những vụ mà tác giả là người bảo vệ quyền lợi kéo dài tới hơn 10 năm chưa giải quyết xong. Bản án, quyết định của Tòa án là sản phẩm kết tinh của quá trình tranh luận, đối đáp tại phiên tòa, nhưng tỷ lệ án bị hủy, sửa trong tố tụng dân sự và hành chính vẫn còn nhiều, đơn khiếu nại theo trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm còn tồn đọng lớn, phản ánh chất lượng xét xử của Tòa án các cấp còn hạn chế. Một số vụ án hành chính, người bị kiện là Chủ tịch UBND các cấp không có mặt, chỉ ủy quyền cho cơ quan chuyên môn, Thủ tướng Chính phủ phải có văn bản chấn chỉnh, nhưng thực tế chưa khắc phục được, ảnh hưởng đến việc bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử.

Các đại biểu tham dự Hội thảo từ đầu cầu TP. Hồ Chí Minh.

2. Một số định hướng và đề xuất nhằm bảo đảm thực hiện tranh tụng trong xét xử, nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa và một số nội dung khác về cải cách tư pháp:

2.1. Trước hết, cần khẳng định một trong những thành tựu có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình sửa đổi, bổ sung và ban hành BLTTHS, BLTTDS, Luật Tố tụng hành chính là đã thể chế hóa Hiến pháp 2013, ghi nhận chính thức tên gọi của một trong những nguyên tắc phổ quát trong các mô hình tố tụng trên thế giới là nguyên tắc tranh tụng. Tuy nội hàm của nguyên tắc này có sự khác biệt nhất định so với pháp luật tố tụng nhiều quốc gia, nhưng nó tạo ra bước đột phá lớn về tư duy pháp lý của các nhà nghiên cứu và hành nghề luật, đồng thời định hình rõ hơn bản chất, đặc điểm của mô hình tố tụng và hệ thống xét xử ở nước ta.

Tăng cường và đảm bảo tranh tụng trong TTHS nói chung và trong hoạt động xét xử nói riêng là tư tưởng mang tính đột phá, xuyên suốt nội dung đổi mới và hoàn thiện mô hình TTHS Việt Nam, được xác định là một trong những vấn đề quan trọng nhất của chủ trương về cải cách tư pháp. Chủ trương này nhằm mở rộng và tăng cường hơn nữa môi trường dân chủ, tính công khai, công bằng của quá trình giải quyết vụ án; thiết lập các cơ chế để bảo vệ ngày càng tốt hơn quyền con người, bảo đảm quyền dân chủ cho bị can, bị cáo và người đại diện của họ. Đó cũng là cơ hội mở ra các khả năng và điều kiện tốt nhất để người bị tình nghi phạm tội, đương sự thực hiện quyền bào chữa, bảo vệ quyền lợi; bảo đảm quá trình giải quyết vụ án được khách quan, toàn diện, triệt để, vô tư; bảo đảm việc giải quyết vụ án được đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Chủ trương tăng cường tranh tụng không có nghĩa là từ bỏ mô hình TTHS nước ta hiện nay để chuyển sang mô hình TTHS tranh tụng, mà thực chất là tiếp tục duy trì và phát huy những ưu điểm vốn có của mô hình TTHS thẩm vấn, tiếp thu những hạt nhân hợp lý của mô hình TTHS tranh tụng, phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam[3].

Do đó, về định hướng đổi mới tranh tụng trong xét xử, nâng cao chất lượng tranh tụng, theo chúng tôi cần nghiên cứu, xem xét một số nội dung như sau:

Thứ nhất, cần tiếp tục quán triệt đầy đủ, đúng đắn, toàn diện các quan điểm, chủ trương về xây dựng Nhà nước pháp quyền và về cải cách tư pháp thể hiện trong các văn kiện, Nghị quyết của Đảng, nhất là quan điểm cải cách tư pháp thể hiện trong Nghị quyết 08, Nghị quyết 49, Kết luận số 84 của Bộ Chính trị, các văn kiện của Đại hội lần thứ XIII của Đảng liên quan đến việc hoàn thiện mô hình TTHS nói chung và hoạt động của cơ quan xét xử nói riêng. Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương tại Đại hội XIII của Đảng đã nhấn mạnh: “Tiếp tục xây dựng nền tư pháp Việt Nam chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Hoạt động tư pháp phải có trọng trách bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân”.

Từ định hướng quan trọng này, trọng tâm của cải cách tư pháp liên quan đến hoạt động xét xử của Tòa án là hoàn thiện môi trường pháp lý, đảm bảo các chủ thể tư pháp thực hiện một cách độc lập chức năng tố tụng, nhiệm vụ quyền hạn của mình theo luật định, hoàn thiện các thủ tục tố tụng tư pháp, bảo đảm tính đồng bộ, dân chủ, công khai, minh bạch, tôn trọng và bảo vệ quyền con người trong hoạt động tư pháp. Bởi lẽ, tranh tụng trong TTHS thực chất là quá trình tồn tại, vận động, đấu tranh giữa hai chức năng cơ bản của TTHS: chức năng buộc tội và chức năng bào chữa- hai chức năng có định hướng ngược chiều, đối trọng nhau. Chủ thể thực hiện các chức năng tố tụng này phải được tạo điều kiện bình đẳng với nhau trong việc bày tỏ ý kiến và bảo vệ ý kiến của phía mình trong toàn bộ quá trình giải quyết vụ án, mà đỉnh điểm của quá trình này diễn ra tại phiên toà. Đảm bảo cho Toà án thực hiện quyền tư pháp, tổ chức phiên toà xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng bảo đảm tính công khai, dân chủ, nghiêm minh; nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên toà, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp.

Thứ hai, trên cơ sở duy trì và phát huy những ưu điểm vốn có trong mô hình TTHS hiện hành; đồng thời tiếp thu có chọn lọc những hạt nhân hợp lý của mô hình TTHS tranh tụng phù hợp với truyền thống văn hoá, điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội cụ thể của nước ta, cần chú trọng đảm bảo thực chất nguyên tắc tranh tụng trong xét xử trên thực tế, nâng cao chất lượng tranh tụng thông qua việc nghiên cứu, sửa đổi về trình tự xét hỏi, phương thức điều hành của chủ tọa phiên tòa bảo đảm cho Kiểm sát viên đối đáp đến cùng với Luật sư. Tạo cơ chế để nâng cao năng lực, trình độ và tăng cường trách nhiệm của cơ quan thực hành quyền công tố và Luật sư, bảo đảm sự độc lập và bình đẳng của các chủ thể này trong thực thi chức năng, nhiệm vụ, bảo đảm quá trình giải quyết vụ án được vận hành đúng đắn, đúng quy định của pháp luật.

Để đảm bảo thực hiện nguyên tắc tranh tụng, như nhiều lần tác giả kiến nghị, cần quan niệm Luật sư là một chức danh tư pháp độc lập, có vị thế bình đẳng trong thực hiện chức năng cơ bản của TTHS, góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Việc nâng cao địa vị pháp lý của Luật sư là nhằm đảm bảo thực hiện trên thực tế quyền Hiến định được ghi nhận tại khoản 4 Điều 31 Hiến pháp 2013 quy định: “Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ Luật sư hoặc người khác bào chữa”, được xác định lần đầu tiên trong chương II về quyền con người của Hiến pháp 2013. Nghiên cứu xác định địa vị pháp lý của Luật sư không phải là người tham gia tố tụng mà là chủ thể tố tụng độc lập, bình đẳng với Kiểm sát viên sẽ góp phần nâng cao vị thế và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của Luật sư trong đời sống và trong tố tụng.

Thứ ba, để đảm bảo thực hiện nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm, cần đảm bảo thực hiện các nguyên tắc cơ bản khác trong các Bộ luật, Luật về tố tụng. Trong đó, đặt nguyên tắc tranh tụng trong mối quan hệ mật thiết với nguyên tắc suy đoán vô tội được quy định tại Điều 13 BLTTHS 2015: “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo không có tội”. Nguyên tắc suy đoán vô tội nói trên phù hợp Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 của Liên hợp quốc mà Việt Nam đã gia nhập và được pháp luật TTHS của nhiều nước trên thế giới quy định. Nguyên tắc này đòi hỏi Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân luôn trong tâm thế và ứng xử, coi bị cáo là người chưa có tội cho đến khi chứng minh theo trình tự tố tụng và bản án có hiệu lực pháp luật. Bảo đảm quyền của người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo được trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội. Thông qua việc xét hỏi công khai, tranh luận và đối đáp giữa Kiểm sát viên và Luật sư, khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì Hội đồng xét xử phải kết luận người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo không có tội, chứ không trả hồ sơ điều tra bổ sung như thực tiễn xét xử hiện nay.

Bốn là, phải bảo đảm tăng cường hiệu lực, hiệu quả của các cơ chế giám sát hoạt động tư pháp, xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh; bảo đảm tính thống nhất với đề án đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp. Giám sát hoạt động tư pháp nói chung, giám sát hoạt động tư pháp hình sự, dân sự, hành chính nói riêng là vấn đề quan trọng của cải cách tư pháp trong hệ thống Tòa án. Công tác kiểm tra, giám sát cũng đã được nêu rõ tại Báo cáo chính trị tại Đại hội XIII: “Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, phát hiện sớm, xử lý nghiêm minh các vụ việc, vụ án tham nhũng, lãng phí”. Mục 10 về định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021-2030 nêu trong Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Tăng cường công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình; kiểm soát quyền lực gắn với siết chặt kỷ cương, kỷ luật trong hoạt động Nhà nước và của cán bộ, công chức, viên chức…”. Xuất phát từ chủ trương và định hướng nêu trên, cần đảm bảo rành mạch, độc lập thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan tư pháp và sự tham gia mang tính phản biện và giám sát của Luật sư trong quan hệ phối hợp với các cơ quan tư pháp và hoạt động tư pháp.

Luật sư, Tiến sĩ Phan Trung Hoài phát biểu từ đầu cầu TP. Hồ Chí Minh.

2.2. Từ quan điểm và định hướng nêu trên, chúng tôi xin mạnh dạn đề xuất một số nội dung sửa đổi các quy định liên quan đến tổ chức phiên tòa, các giải pháp đảm bảo tranh tụng trong xét xử, nâng cao chất lượng tranh tụng như sau:

Một là, với tư cách là cơ quan thực hiện quyền tư pháp, nhân danh Nhà nước tuyên bản án có tội hay không có tội đối với bị cáo, phân định đúng sai trong quan hệ tranh chấp, cần đổi mới tổ chức và hoạt động của Toà án để Toà án thực sự là hiện thân của công lý, khách quan và công bằng, có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người. Theo đó, đề nghị nghiên cứu thêm hướng sửa đổi, hoàn thiện pháp luật về đổi mới nhiệm vụ, thẩm quyền của Toà án:

- Nghiên cứu loại bỏ những nhiệm vụ, thẩm quyền của Toà án không thuộc chức năng xét xử, ảnh hưởng đến nguyên tắc độc lập xét xử, ảnh hưởng đến tính khách quan của hoạt động xét xử như: Trách nhiệm chứng minh tội phạm; thẩm quyền khởi tố vụ án (Điều 18, Khoản 4 Điều 153 và Khoản 7 Điều 326); thẩm quyền tiếp tục xét xử vụ án khi VKS đã rút quyết định truy tố; thẩm quyền xét xử vượt quá giới hạn truy tố của VKS, giới hạn xét xử cần được thực hiện theo nguyên tắc buộc tội đến đâu thì xét xử đến đó, Toà án xét xử bị cáo trong giới hạn tối đa mà VKS truy tố. Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân cần đóng vai trò là “phán quan”, bên nào thực hiện việc buộc tội, bên đó phải có trách nhiệm chứng minh, lập luận cho các cơ sở, lý lẽ của việc buộc tội, tạo cơ sở để phát huy tính chủ động, tích cực và trách nhiệm của Kiểm sát viên và Luật sư trong thực hiện chức năng tố tụng của mình.

- Khẳng định rõ nguyên tắc Toà án chỉ thực hiện chức năng xét xử, không thực hiện những thẩm quyền thuộc chức năng buộc tội. Khi xét xử, Toà án nhận diện và đánh giá bản chất sự thật vụ án chủ yếu thông qua việc nghe các bên hỏi, tranh luận, đối đáp; dựa vào kết quả tranh tụng và căn cứ vào quy định của pháp luật để ra phán quyết. Nếu nhận thấy đủ chứng cứ xác định có tội phạm và người phạm tội thì áp dụng trách nhiệm hình sự đối với họ, nếu không đủ và không thể làm sáng tỏ chứng cứ buộc tội thì phải tuyên bị cáo vô tội. Xem xét lại quyền hạn trả hồ sơ điều tra bổ sung cho Viện kiểm sát theo Khoản 1 Điều 280 BLTTHS 2015, vì trái với nguyên tắc suy đoán vô tội được quy định tại Điều 13 BLTTHS 2015.

- Nghiên cứu, sửa đổi một số quy định tại Mục V (Thủ tục tranh tụng tại phiên toà), trong đó cần thay đổi trình tự xét hỏi theo Điều 307 BLTTHS 2015, trong đó Hội đồng xét xử chủ yếu hỏi trước, sau đó đến Kiểm sát viên và Luật sư. Rõ ràng, việc tham gia của Hội đồng xét xử không phải với vai trò chủ động thẩm vấn bị cáo, hỏi nhân chứng, xem xét vật chứng, hay nói chính xác hơn là chủ động tham gia vào quá trình buộc tội hay gỡ tội như hiện nay. Đổi mới vai trò, trách nhiệm của các chủ thể tố tụng và trình tự xét xử tại phiên toà theo hướng, trách nhiệm xét hỏi chính thuộc về Kiểm sát viên và Luật sư. Kiểm sát viên hỏi về các tình tiết chứng minh việc buộc tội. Luật sư hỏi về các tình tiết gỡ tội. Hội đồng xét xử chỉ hỏi khi cần thiết để kiểm tra chứng cứ buộc tội, gỡ tội nhằm nhận thức đúng sự thật, hỏi về những vấn đề chưa rõ hoặc có mâu thuẫn. Do đó, đề nghị trình tự xét hỏi được thực hiện theo thứ tự: Kiểm sát viên hỏi trước, sau đó đến Luật sư, cuối cùng mới đến Hội đồng xét xử hỏi nếu thấy còn những vấn đề cần làm rõ thêm. Hội đồng xét xử điều hành phần xét hỏi, hướng dẫn các bên thực hiện việc xét hỏi hoặc trình tự, căn cứ pháp luật tố tụng cần áp dụng, chỉ thực hiện việc thẩm vấn bổ sung, xem xét vật chứng sau khi bên buộc tội và bên gỡ tội đã thực hiện chức năng buộc tội và gỡ tội, đã tiến hành việc thẩm vấn, kiểm tra chéo nhân chứng, xem xét vật chứng mà thấy vấn đề còn chưa rõ, yêu cầu Kiểm sát viên, Luật sư thẩm vấn thêm hoặc trực tiếp thẩm vấn, xem xét vật chứng, trên cơ sở kết quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ, kết quả tranh tụng tại phiên toà để ban hành phán quyết.

- Từ thực tiễn giải quyết đơn khiếu nại theo trình tự giám đốc thẩm và tái thẩm hiện nay còn tồn đọng rất lớn, trong khi trình tự xem xét lại rất phức tạp, do người bị kết án, đương sự nếu không thỏa mãn thường có nhu cầu trợ giúp về mặt pháp lý trong việc soạn thảo đơn xin kháng nghị, đồng thời người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi mong muốn được tham gia phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm để tiếp tục bảo vệ quyền lợi cho khách hàng của mình. Do đó, đề nghị bỏ cụm từ “trường hợp xét thấy cần thiết và có căn cứ sửa một phần bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật” theo quy định tại Điều 383 BLTTHS 2015 đối với người bào chữa, mà cần coi đây là trường hợp tham gia bắt buộc nếu bị cáo, đương sự khiếu nại kêu oan hoặc có căn cứ cho thấy bản án có hiệu lực bị coi là trái pháp luật.

- Trong thủ tục xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao được quy định trong Chương XXVII của BLTTHS 2015, tuy không quy định rõ, nhưng người bào chữa, bảo vệ quyền lợi có thể giúp khách hàng của mình gửi đơn khiếu nại đến Ủy ban Thường vụ Quốc hội để nơi đây yêu cầu, Ủy ban Tư pháp của Quốc hội, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao kiến nghị, Chánh án TAND Tối cao đề nghị để Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao phải mở phiên họp để xem xét lại quyết định đó theo Điều 404 BLTTHS 2015. Khoản 3 Điều 405 BLTTHS 2015 là trong trường hợp xét thấy cần thiết, Tòa án nhân dân Tối cao có thể mời cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan tham dự phiên họp nói trên.

Đồng thời, các chủ thể này cũng có thể tham gia vào quá trình Hội đồng Thẩm phán quyết định tiến hành thẩm định hồ sơ vụ án, từ đó có các biện pháp phù hợp nhằm xác minh, thu thập chứng cứ, tài liệu, đồ vật để chứng minh  việc vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc có hay không tình tiết quan trọng mới làm thay đổi cơ bản nội dung quyết định của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao. Do đó, cần minh định thủ tục để Luật sư có thể tham gia vào trình tự xét lại cả quyết định của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao khi khách hàng yêu cầu.

- Nghiên cứu, sửa đổi chế định Hội thẩm nhân dân theo Đề án của Tòa án nhân dân Tối cao theo hướngxây dựng chế định Hội thẩm đoàn, xác định rõ tiêu chuẩn thể hiện được sự vô tư, khách quan, không phụ thuộc vào trình độ, hiểu biết pháp luật, xây dựng cơ chế lựa chọn Hội thẩm nhân dân một cách ngẫu nhiên, bình đẳng và công bằng, tạo cơ chế để người dân thật sự tham gia hoạt động xét xử của Tòa án, là cơ sở ban hành bản án, quyết định của Hội đồng xét xử.

- Phù hợp với Đề án Tòa án điện tử của Tòa án nhân dân Tối cao, Nghị quyết về tổ chức phiên tòa trực tuyến của Quốc hội thông qua ngày 12/11/2021 và dự thảo Thông tư liên tịch về tổ chức phiên tòa trực tuyến, để đảm bảo thực hiện nguyên tắc tranh tụng trong xét xử, nâng cao chất lượng tranh tụng, đề xuất Tòa án nhân dân Tối cao trang bị màn hình TV, hệ thống mạng và các đầu mối kết nối tại phòng xử án các cấp để Hội đồng xét xử, các chủ thể tham gia tranh luận, đối đáp có thể sử dụng dữ liệu điện tử hoặc tài liệu, chứng cứ được số hóa để trình chiếu trong quá trình xét hỏi, tranh luận, đối đáp, làm cơ sở kiểm tra, đánh giá chứng cứ tại phiên tòa.

- Nghiên cứu xem xét lại cơ chế “thỉnh thị án”, hạn chế việc hình thành cơ chế chỉ đạo “liên ngành” để có giải pháp bảo đảm thực chất nội dung có ý nghĩa đặc biệt quan trọng được nêu tại đoạn cuối Điều 26 BLTTHS 2015 là “bản án, quyết định của Tòa án phải căn cứ vào kết quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa”. Để thực hiện đúng đắn BLTTHS 2015, đề nghị nên xem xét lại cơ chế phối hợp để thống nhất quan điểm và đường lối xử lý như được quy định tại Điều 8, Điều 9 và Điều 10 Thông tư liên tịch số 01/2010/TTLT/VKSTC-BCA-TANDTC ngày 27/8/2010 và thực tế tố tụng hiện nay. Cụ thể, cần hủy bỏ quy định trong thời hạn chuẩn bị xét xử, sau khi nghiên cứu hồ sơ thấy còn thiếu những chứng cứ quan trọng, có vi phạm thủ tục tố tụng, bị can phạm vào tội khác hoặc có đồng phạm khác, thì Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa trao đổi với Kiểm sát viên để có biện pháp khắc phục kịp thời hoặc có thể bổ sung được tại phiên tòa mà không phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Không nên duy trì cơ chế nếu Kiểm sát viên và Thẩm phán chưa thống nhất ý kiến, thì báo cáo lãnh đạo liên ngành xem xét cho ý kiến về việc giải quyết vụ án.

Hai là, nghiên cứu sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện pháp luật liên quan diện chủ thể người bào chữa, thủ tục đăng ký bào chữa, quan hệ phối hợp và giám sát giữa Luật sư với cơ quan Tòa án và hoạt động xét xử, có thể bao gồm:

- Sửa đổi các quy định về diện chủ thể, lựa chọn người bào chữa theo hướng đảm bảo tính chuyên nghiệp, chỉ giữ lại diện người bào chữa là Luật sư; trợ giúp viên pháp lý, bỏ người bào chữa là “người đại diện của người bị buộc tội” và “bào chữa viên nhân dân”.

- Hiện nay giữa BLTTHS và Luật Luật sư có sự khác nhau trong diện chủ thể có quyền lựa chọn người bào chữa. Điểm (e) khoản 1 Điều 4 BLTTHS 2015 quy định diện người thân thích của người tham gia tố tụng khá rộng, bao gồm: “Vợ, chồng, bố đẻ, mẹ đẻ, bố chồng, mẹ chồng, bố vợ, mẹ vợ, bố nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi; ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột; cụ nội, cụ ngoại, bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, cháu ruột”. Trong khi đó, điểm (b) khoản 3 Điều 27 Luật Luật sư lại quy định “người khác” có thể nhờ người bào chữa cho người bị buộc tội. Có thể hiểu “người khác” là bất kỳ ai, bạn bè, đồng nghiệp, người thân, người không quen biết nhưng thấy hoàn cảnh khó khăn của người bị buộc tội nên chủ động nhờ người bào chữa cho họ. Do đó, cần sửa đổi quy định này theo hướng mở rộng cho “người khác” là bất cứ ai cũng có thể xem xét, mong muốn trợ giúp cho người bị buộc tội.

- Nghiên cứu sửa đổi, đi đến bãi bỏ chế độ và thủ tục đăng ký bào chữa theo quy định tại Điều 78 BLTTHS 2015, theo đó khi có yêu cầu của người bị buộc tội hoặc thân nhân gia đình họ, Luật sư chỉ cần xuất trình Thẻ Luật sư, văn bản yêu cầu của người bị buộc tội, giấy giới thiệu của tổ chức hành nghề là được các cơ quan, người có thẩm quyền tố tụng chấp thuận (nếu không thuộc trường hợp phải từ chối bào chữa, bảo vệ quyền lợi), cập nhật trong hồ sơ vụ án và thông báo cho cơ sở giam giữ. Khi làm việc tại các cơ sở giam giữ, Luật sư chỉ cần xuất trình Thẻ Luật sư là được làm việc với người bị buộc tội đang bị giam giữ mà không phát sinh thêm bất cứ thủ tục hành chính nào khác.

- Nghiên cứu, hướng dẫn cụ thể hơn về các hành vi bị coi là vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng, nhất là những hành vi và quyết định xâm phạm đến quyền tự bào chữa, nhờ Luật sư hoặc người khác bào chữa, cũng như cản trở, xâm phạm đến các quyền và nghĩa vụ của người bào chữa. Ví dụ: Đó là các hành vi không yêu cầu cử người bào chữa cho bị can, bị cáo trong trường hợp bắt buộc phải chỉ định người bào chữa; cản trở, đưa ra những yêu cầu vô lý để từ chối đăng ký bào chữa; không tạo điều kiện cho thân nhân và người bào chữa được gặp mặt người bị buộc tội khi họ từ chối người bào chữa trong giai đoạn xét xử; không giao các lệnh, quyết định tố tụng cho bị can, bị cáo theo đúng quy định của pháp luật xâm phạm đến quyền bào chữa của bị can, bị cáo; xác định không đúng tư cách tham gia tố tụng của người tham gia tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử dẫn đến xâm hại nghiêm trọng quyền và lợi ích hợp pháp của họ.

Bên cạnh đó, cũng phải đưa vào diện vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng khi có căn cứ để xác định có việc mớm cung, bức cung, nhục hình trong quá trình tiến hành TTHS làm cho lời khai của bị can không đúng sự thật; các khiếu nại, tố cáo của bị can, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không được giải quyết theo đúng quy định của pháp luật đã xâm phạm nghiêm trọng đến quyền, lợi ích của họ.

[1]. Báo cáo tổng kết cống tác nhiệm kỳ I (2009-2014) và Dự thảo Báo cáo tổng kết công tác nhiệm kỳ II (2015-2021) của Liên đoàn Luật sư Việt Nam.

[2] Tham khảo: https://plo.vn/phap-luat/de-xuat-an-le-ve-thoi-diem-xac-dinh-thiet-hai-trong-an-hinh-su-1007308.html.

[3] Ban cán sự Đảng Viện kiểm sát nhân dân Tối cao - Đề án mô hình tố tụng hình sự Việt Nam - Bản trình bày tại phiên họp của Ban chỉ đạo Cải cách tư pháp TW ngày 22/2/2012 (tài liệu đã dẫn).

 

Luật sư, Tiến sĩ PHAN TRUNG HOÀI

Ủy viên Đảng Đoàn, Phó Chủ tịch Liên đoàn Luật sư Việt Nam

Trọng tài viên Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam

Thành viên Hội đồng Tư vấn Án lệ Tòa án nhân dân Tối cao

Cải cách tư pháp chính là động lực phát triển để nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác của Toà án

Lê Minh Hoàng