Luật sư Nguyễn Văn Tuấn, Giám đốc Công ty Luật TNHH TGS, Đoàn Luật sư TP. Hà Nội.
Về vấn đề này, Luật sư Nguyễn Văn Tuấn, Giám đốc Công ty Luật TNHH TGS, Đoàn Luật sư TP. Hà Nội cho biết, theo thông tin bạn đọc cung cấp, thửa đất được sử dụng từ năm 1975, đã có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng chưa xác định rõ diện tích đất ở thì việc xác định diện tích đất ở được công nhận không phải nộp tiền sử dụng đất được xác định theo quy định tại Luật Đất đai.
Cụ thể, theo quy định tại khoản 2 Điều 103 Luật Đất đai 2013 về việc xác định diện tích đất ở đối với trường hợp có vườn, ao, đối với trường hợp thửa đất ở có vườn, ao được hình thành trước ngày 18/12/1980 và người đang sử dụng có một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều 100 của Luật Đất đai 2013 thì diện tích đất ở được xác định theo giấy tờ đó. Trường hợp trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều 100 của Luật Đất đai 2013 chưa xác định rõ diện tích đất ở thì diện tích đất ở được công nhận không phải nộp tiền sử dụng đất được xác định bằng không quá 5 lần hạn mức giao đất ở quy định tại khoản 2 Điều 143 và khoản 4 Điều 144 của Luật Đất đai 2013.
Khoản 2 Điều 143 Luật Đất đai quy định, căn cứ vào quỹ đất của địa phương và quy hoạch phát triển nông thôn đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định hạn mức đất giao cho mỗi hộ gia đình, cá nhân để làm nhà ở tại nông thôn; diện tích tối thiểu được tách thửa đối với đất ở phù hợp với điều kiện và tập quán tại địa phương. Khoản 4 Điều 144 Luật Đất đai quy định, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh căn cứ vào quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch xây dựng đô thị và quỹ đất của địa phương quy định hạn mức đất ở giao cho mỗi hộ gia đình, cá nhân tự xây dựng nhà ở đối với trường hợp chưa đủ điều kiện để giao đất theo dự án đầu tư xây dựng nhà ở; diện tích tối thiểu được tách thửa đối với đất ở.
Như vậy, diện tích đất ở của thửa đất gia đình bạn được xác định không quá 5 lần hạn mức giao đất ở do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi có đất quy định.
Ngoài ra, theo quy định tại Điều 74 Luật Đất đai 2013, khi người sử dụng đất bị Nhà nước thu hồi đất nếu có đủ điều kiện được bồi thường quy định tại Điều 75 của Luật này thì được bồi thường. Việc bồi thường được thực hiện bằng việc giao đất có cùng mục đích sử dụng với loại đất thu hồi, nếu không có đất để bồi thường thì được bồi thường bằng tiền theo giá đất cụ thể của loại đất thu hồi do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định tại thời điểm quyết định thu hồi đất. Việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất phải bảo đảm dân chủ, khách quan, công bằng, công khai, kịp thời và đúng quy định của pháp luật.
Khi Nhà nước có quyết định thu hồi đất thì sẽ dựa vào những quy định trên để xác định diện tích đất ở trên thửa đất đang sử dụng và có những chính sách bồi thường theo đúng quy định của pháp luật.
Ý NHƯ