(LSO) - Bộ luật dân sự (BLDS) năm 2015 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2017 đã đánh dấu bước phát triển to lớn đối với các quan hệ dân sự, quan hệ kinh tế trong môi trường kinh doanh đa ngành, đa nghề tại Việt Nam. Để hạn chế rủi ro, bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của các chủ thể trong quan hệ nghĩa vụ, các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự đã được quy định cụ thể, rõ ràng trong BLDS 2015. Trong đó, biện pháp cầm giữ tài sản là một biện pháp có vai trò quan trọng trên thực tế, góp phần tích cực trong việc đảm bảo quyền lợi cho các chủ thể trong quan hệ nghĩa vụ. Bài viết dưới đây sẽ bình luận làm rõ hơn về biện pháp này và kiến nghị một số giải pháp hoàn thiện.

1. Khái quát chung về cầm giữ tài sản
1.1. Khái niệm cầm giữ tài sản
Theo quy định tại Điều 346BLDS 2015, “cầm giữ tài sản là việc bêncó quyền (sau đây gọi là bên cầm giữ) đang nắm giữ hợp pháp tài sản là đối tượngcủa hợp đồng song vụ được chiếm giữ tài sản trong trường hợp bên có nghĩa vụkhông thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ”.
Để xác định là biện pháp bảo đảm cầm giữ tài sản, cần phải có các yếu tố:
Thứ nhất, việc cầm giữ tài sản phải xuất phát từ một hợp đồng song vụ. Hợp đồng song vụ là hợp đồng mà các bên chủ thể đều có các quyền và nghĩa vụ đối với nhau. Trong hợp đồng song vụ, bên cầm giữ đã thực hiện nghĩa vụ nhưng bên kia lại không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đối với bên có quyền.
Thứ hai, đối tượng của hợp đồng songvụ phải là tài sản.Với cách phân loại dựa theo đối tượng của hợp đồng, hợp đồngcó hai loại, một loại có đối tượng là tài sản như hợp đồng mua bán, tặng chotài sản, hợp đồng gia công… một loại có đối tượng là công việc như hợp đồng gửigiữ, hợp đồng vận chuyển… Chỉ các hợp đồng có đối tượng là tài sản thì bên cóquyền mới có quyền nắm giữ tài sản.
Thứ ba, bên có quyền chiếm giữ tài sản một cách hợp pháp. Thông thường,việc chiếm giữ tài sản là do được bên có nghĩa vụ chuyển giao hoặc là kết quả củaviệc thực hiện nghĩa vụ của bên cầm giữ.
Thứ tư, bên có nghĩa vụ có sự vi phạm hợp đồng. Khi bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì bên có quyền hay bên cầm giữ có quyền cầm giữ tài sản. Cầm giữ tài sản phát sinh ngay khi có sự vi phạm nghĩa vụ mà không cần có sự thỏa thuận của các bên.
1.2. Đặc điểm của cẩm giữ tài sản
Ngoài những đặc điểm chung củabiện pháp bảo đảm, cầm giữ tài sản còn có hai đặc điểm quan trọng đó là:
Thứ nhất, cầm giữ tài sản phát sinh không dựa trên cơ sở sựthỏa thuận của các bên bảo đảm. Đây là một biện pháp tự vệ trong quan hệ dân sự nhằmbảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của bên có quyền. Đối với biện pháp này,pháp luật cho phép bên có quyền cầm giữ tài sản của bên có nghĩa vụ mà không cầnxem xét nguyên nhân khiến cho bên có nghĩa vụ vi phạm nghĩa vụ thỏa thuận.
Ví dụ: A thuê chiếc xe của anh B để chở cả nhà đi du lịch. Và haibên đã thỏa thuận mọi hư hỏng về xe trong quá trình thuê xe sẽ do A khắc phụcvà B sẽ có trách nhiệm thanh toán chi phí khắc phục sau khi trả xe. Trên đườngđi, xe của B bị hỏng điều hòa. A đã sửa điều hòa cho xe cho B nhưng lúc giao xeB không chịu thanh toán tiền sửa điều hòa, lúc này A có quyền cầm giữ tài sảnmà không cần thỏa thuận với B.
Thứ hai, cầm giữ tài sản không có thời hạn. Khoản 4 Điều 349 BLDS 2015 quy định bên cầm giữ chỉ phải giao lại tài sản cầm giữ khi bên có nghĩa vụ đã thực hiện xong nghĩa vụ với mình. Nói cách khác, cầm giữ tài sản không quy định thời hạn cụ thể mà kéo dài cho đến khi bên vi phạm nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ.
2. Quy định của pháp luật về cầm giữ tài sản
Cầm giữ tài sản được quy định trong BLDS 2015 từ Điều 346 đến Điều 350.
Về xác lập cầm giữ tài sản, Khoản 1 Điều 347 quy định “Cầm giữ tài sản phát sinh từ thời điểm đến hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ”. Khi có hành vi vi phạm nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ, cầm giữ tài sản ngay lập tức phát sinh. Quyền cầm giữ tài sản chỉ được thực hiện khi có các điều kiện như đã phân tích ở trên.
Hiệu lực đối kháng với ngườithứ ba phát sinh từ thời điểm bên cầm giữ chiếm giữ tài sản. Khi cầm giữ tài sảnđược xác lập một cách hợp pháp, bên cầm giữ có quyền truy đòi tài sản và đượcưu tiên thanh toán theo quy định tại điều 308 BLDS 2015. Hiệu lực đối kháng vớingười thứ ba của biện pháp cầm giữ tài sản có khả năng đối kháng rất lớn, vìkhi bên cầm giữ đã chiếm giữ tài sản thì chỉ phải trả lại tài sản khi bên cónghĩa vụ đã thực hiện xong nghĩa vụ với mình và không có bất kì một ngoại lệnào.
Ví dụ: Trong trường hợp tài sản cầm giữ đã được thế chấp trước đóvà biện pháp thế chấp đã đăng kí. Khi bên nhận thế chấp muốn xử lý tài sản thếchấp đang bị cầm giữ, bên nhận thế chấp phải tự mình thực hiện nghĩa vụ đối vớibên cầm giữ hoặc yêu cầu bên thế chấp thực hiện nghĩa vụ mới có thể thu hồi tàisản để xử lý được.
Quyền và nghĩa vụ của bên cầm giữ tài sản được quy định như sau:
"Điều 348. Quyền của bên cầm giữ
1. Yêu cầu bên có nghĩa vụ phải thựchiện đầy đủ nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng song vụ.
2. Yêu cầu bên có nghĩa vụ phải thanhtoán chi phí cần thiết cho việc bảo quản, giữ gìn tài sản cầm giữ.
3. Được khai thác tài sản cầm giữ để thuhoa lợi, lợi tức nếu được bên có nghĩa vụ đồng ý.
Giá trị của việc khai thác tài sản cầm giữ được bù trừ vào giá trị nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ.
Điều 349. Nghĩa vụ của bên cầm giữ
1. Giữ gìn, bảo quản tài sản cầm giữ.
2. Không được thay đổi tình trạng củatài sản cầm giữ.
3. Không được chuyển giao, sử dụng tàisản cầm giữ nếu không có sự đồng ý của bên có nghĩa vụ.
4. Giao lại tài sản cầm giữ khi nghĩa vụđã được thực hiện.
5. Bồi thường thiệt hại nếu làm mất hoặchư hỏng tài sản cầm giữ.”
Bên cầm giữ có quyền:
+ Yêu cầu bên có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ đối với mình. Tuy nhiên ngay cả khi không có biện pháp bảo đảm cầm giữ tài sản, bên có quyền cũng có thể yêu cầu bên vi phạm nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ. Việc cầm giữ tài sản nhằm nâng cao trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ.
+ Khai thác tài sản cầm giữ để thu hoa lợi, lợi tức nếu bên có nghĩa vụ đồng ý. Bên cầm giữ không phải là chủ sở hữu của tài sản cầm giữ. Do vậy nếu muốn khai thác tài sản cầm giữ cần có sự đồng ý của bên có nghĩa vụ. Quy định này nhằm giúp bên có nghĩa vụ tăng khả năng thực hiện nghĩa vụ và giúp bên cầm giữ bù đắp những chi phí phát sinh trong quá trình cầm giữ tài sản, nhất là trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ trong thời gian dài.
+ Yêu cầu bên có nghĩa vụ thanh toán chi phí cần thiết để bảo quản, giữ gìn tài sản cầm giữ. Những tài sản cầm giữ có yêu cầu về bảo quản khác nhau. Có những tài sản chỉ phải bảo quản ở điều kiện thường, có nhưng tài sản phải bảo quản ở điều kiện đặc biệt và khi bên cầm giữ thực hiện việc bảo quản đó thì bên có nghĩa vụ phải thanh toán chi phí cho việc bảo dưỡng. Thực chất việc bên cầm giữ bảo quản, giữ gìn tài sản của bên cầm giữ là thực hiện thay cho bên có nghĩa vụ. do vậy bên có nghĩa vụ phải thanh toán những chi phí này cho bên cầm giữ tài sản.
Bên cầm giữ có các nghĩa vụ:
+ Bảo quản, giữ gìn, không được thay đổi tình trạng tài sản cầm giữ, không được chuyển giao, sử dụng tài sản cầm giữ nếu không được bên có nghĩa vụ đồng ý. Các nghĩa vụ này tương ứng với các quyền của bên cầm giữ.
+ Giao lại tài sản cầm giữ khi nghĩa vụ đã được thực hiện. bên có quyền cầm giữ tài sản để nhằm mục đích bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ. Khi nghĩa vụ đã được thực hiện, bên cầm giữ phải trả lại tài sản cho bên có nghĩa vụ.
+ Bồi thường thiệt hại nếulàm mất, hư hỏng tài sản. Bên cầm giữ tài sản có nghĩa vụ bảo quản tài sản. Dovậy, nếu làm hư hỏng, giảm sút giá trị của tài sản thì bên cầm giữ phải bồi thườngthiệt hại.
Theo quy định tại điều 350BLDS 2015, cầm giữ tài sản chấm dứt khi có một trong các trường hợp sau:
Thứ nhất, bên cầm giữ không còn chiếm giữ tài sản trên thực tế. Việcnày có thể do bên thứ ba chiếm giữ tài sản trái pháp luật hoặc bên cầm giữkhông thực hiện quyền cầm giữ nữa. Tuy nhiên khi tài sản bị chiếm giữ trái phápluật, bên cầm giữ có quyền truy đòi tài sản. Do vậy khi bên cầm giữ không thựchiện quyền chiếm giữ thì chiếm giữ tài sản chấm dứt.
Thứ hai, các bên thỏa thuận thay thế cầm cố bằng biện pháp bảo đảmkhác. Vấn đề này nằm trong phạm vi quyền tự định đoạt của các bên trong quan hệhợp đồng. Các chủ thể có thể thỏa bất cứ biện pháp bảo đảm nào mà pháp luật quyđịnh để thay thế biện pháp cầm giữ.
Thứ ba, nghĩa vụ đã được thực hiện xong. Khi thực hiện xong nghĩa vụthì mục đích bảo đảm thực hiện nghĩa vụ đã đạt được. Do vậy cầm giữ tài sản chấmdứt.
Thứ tư, tài sản cầm giữ không còn. Cầm giữ tài sản là việc bên cóquyền chiếm giữ tài sản của bên có nghĩa vụ. Khi tài sản không còn thì cầm giữđương nhiên chấm dứt.
Thứ năm, theo thỏa thuận của các bên. Bản chất của giao kết hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận. Tất cả các hợp đồng có hiệu lực pháp luật đều là hệ quả sự thỏa thuận cho dù sự thỏa thuận đó được thể hiện ở hình thức nào. Do đó, biện pháp cầm giữ tài sản cũng có thể chấm dứt theo thỏa thuận giữa bên có quyền và bên có nghĩa vụ.
3. Một số hạn chế và đề xuất hoàn thiện biện pháp cầm giữ tài sản
3.1. Một số hạn chế của biện pháp cầm giữ tài sản
+ Về căn cứ phát sinh cầm giữ tài sản: Hiện nay BLDS 2015 quy định bên có quyền cầm giữ tài sản khi có sự vi phạm nghĩa vụ mà không quan tâm đến việc vi phạm nghĩa vụ là do nguyên nhân chủ quan hay khách quan. Trong trường hợp vi phạm nghĩa vụ do sự kiện bất khả kháng hay hoàn toàn do lỗi của bên có quyền thì việc quy định như vậy là chưa phù hợp.
+ Về thời hạn cầm giữ tài sản: BLDS 2015 không quy định cụ thể về thời hạn cầm giữ tài sản như hiện nay sẽ gây rất nhiều khó khăn khi các chủ thể áp dụng trên thực tế. Việc không đặt ra thời hạn cầm giữ sẽ gây khó khăn, bất lợi cho bên có quyền bởi không biết sẽ phải cầm giữ trong bao lâu thì bên vi phạm nghĩa vụ mới hoàn thành nghĩa vụ. Thời hạn cầm giữ có tầm quan trọng đặc biệt đối với trường hợp tài sản cầm giữ cần phải được bảo quản trong điều kiện đặc biệt, cần có chi phí cao. Thông thường, chi phí bảo quản tài sản sẽ do bên cầm giữ thanh toán trước, sau đó yêu cầu bên có nghĩa vụ thanh toán lại cho mình. Việc không quy định thời hạn cầm giữ sẽ gây khó khăn cho bên cầm giữ khi bên có nghĩa vụ không tự giác thanh toán nghĩa vụ chính. Mặt khác, bên có nghĩa vụ bị vi phạm lại phải gánh chịu chi phí bảo quản cho chính tài sản bảo đảm.
+ Về xử lý tài sản cầm giữ: Hiện nay, BLDS 2015 không quy định về cơ chế xử lý tài sản cầm giữ. Điều này gây ảnh hưởng rất lớn đối với quyền của cho bên cầm giữ. Vì bên cầm giữ không tự định đoạt được tài sản cầm giữ. Chính “lỗ hổng” này tạo điều kiện cho bên có nghĩa vụ kéo dài thời gian vi phạm bởi họ biết chắc rằng, tài sản của mình vẫn được bên cầm giữ bảo quản mà không được định đoạt (theo nghĩa vụ của bên cầm giữ được quy định tại Điều 349 BLDS năm 2015). Dựa vào điểm này, bên có nghĩa vụ khi phải thực hiện nghĩa vụ với chủ thể khác sẽ đưa tài sản trở thành đối tượng của cần giữ tài sản nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ với bên kia. Như vậy, trong một số trường hợp, bên có quyền từ thế “chủ động” lại rơi vào thế “bị động” nếu bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ để lấy lại tài sản. Do đó, bên có quyền sẽ không lựa chọn biện pháp này để gây sức ép đối với bên có nghĩa vụ bởi không có hiệu quả.
3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật về biện pháp cầm giữ tài sản
Thứ nhất, quy định về các trường hợp bên có nghĩa vụ vi phạm nghĩa vụdo sự kiện bất khả kháng hay hoàn toàn do lỗi của bên có quyền. Khoản 2 Điều351 BLDS 2015 quy định: “Trường hợp bêncó nghĩa vụ không thực hiện đúng nghĩa vụ do sự kiện bất khả kháng thì không phảichịu trách nhiệm dân sự, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật cóquy định khác”. Như vậy, trường hợp hai bên không có thỏa thuận, khi bên viphạm nghĩa vụ chứng minh được nghĩa vụ đã thỏa thuận không được thực hiện hoặcthực hiện không đúng là do sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lườngtrước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiếtvà khả năng cho phép thì không phải chịu trách nhiệm dân sự. Đối với biện phápcầm giữ tài sản, việc cầm giữ tài sản phát sinh khi bên có nghĩa vụ vi phạmnghĩa vụ. tuy nhiên đối với các trường hợp do sự kiện bất khả kháng hay hoàntoàn do lỗi của bên có quyền thì việc cho phép bên có quyền có quyền cầm giữtài sản là chưa hợp lý. Do vậy cần quy định các trường hợp loại trừ quyền cầmgiữ tài sản của bên có quyền khi bên có nghĩa vụ vi phạm nghĩa vụ.
Thứ hai, cần quy định cụ thể về thời hạn cầm giữ tài sản. Như đã phântích ở trên, việc không quy định thời hạn cầm giữ tài sản gây bất lợi cho bên cầmgiữ. Việc quy định thời hạn cầm giữ giúp bảo đảm tốt hơn lợi ích hợp pháp củabên cầm giữ đồng thời tăng cường trách nhiệm của bên có nghĩa vụ. Khi có 1 thờihạn cầm giữ tài sản, trong thời hạn này bên có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ.Nếu hết thời hạn mà bên có nghĩa vụ tiếp tục vi phạm nghĩa vụ thì bên cầm giữtài sản được tác động vào tài sản cầm giữ để bảo vệ quyền lợi của mình. Khi cóquy định như vậy, bên có nghĩa vụ không thể chây lỳ không thực hiện nghĩa vụtrong thời gian dài vì khi quá hạn cầm giữ, bên cầm giữ sẽ có biện pháp tác độngvào tài sản.
Thứ ba, quy định về biện pháp xử lý tài sản cầm giữ. Trên thực tế,không phải bao giờ giá trị tài sản cầm giữ cũng lớn hơn giá trị nghĩa vụ phảithực hiện mà giá trị của tài sản cũng có thể bằng hoặc nhỏ hơn giá trị nghĩa vụbảo đảm. Việc không quy định về xử lý tài sản cầm giữ là một thiếu sót lớn củaBLDS 2015, làm mất đi ý nghĩa của cầm giữ tài sản với vai trò một biện pháp bảođảm. Khi không được xử lý tài sản bảo đảm, bên có quyền chỉ có thể khai tháctài sản để bù trừ nghĩa vụ nếu được bên có nghĩa vụ đồng ý. Khi bên có nghĩa vụkhông đồng ý thì bên cầm giữ không thể bảo đảm được quyền và lợi ích hợp pháp củamình. Do vậy, BLDS 2015 hoặc các văn bản dưới luật hướng dẫn về biện pháp cầmgiữ tài sản cần có quy định về xử lý tài sản cầm giữ để tạo điều kiện cho bêncó quyền thực thi tốt nhất quyền năng của mình trên thực tế. Trong trường hợpbên vi phạm nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ củamình thì bên cầm giữ có quyền xử lý tài sản đảm bảo một cách nhanh nhất, ít tốnkém nhất nhưng vẫn đảm bảo khách quan, trung thực. Mặt khác, Bộ luật dân sự năm2015 cần quy định phương thức xử lý tài sản cầm giữ để loại trừ việc bên cầm giữsẽ tuỳ tiện trong việc xử lí tài sản.
Các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ nói riêng và cầm giữ tài sản nói chung có ý nghĩa, vai trò cực kì quan trọng trong việc bảo đảm lợi ích cho các bên khi tham gia vào các quan hệ dân sự. Tuy nhiên cần quy định thật chặt chẽ để tránh việc lợi dụng kẽ hở của luật để xâm hại đến quyền và lợi ích của bên chủ thể khác trong quan hệ dân sự.
HOÀNG ĐÌNH DŨNG, TAQSKV2 QK4
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Bộ luật Dân sự 2015. [2] Trường Đại học Luật Hà Nội (2019), Giáo trình Luật dân sự Việt Nam, Nxb CAND. [3] Nguyễn Văn Hợi (2014), Một số vấn đề về cầm giữ tài sản trong Bộ luật dân sự, Tạp chí Luật học số 11/2014. |