/ Luật sư - Bạn đọc
/ Căn cứ pháp lý nào để bắt tạm giam cựu Giám đốc Bệnh viện Bạch Mai Nguyễn Quang Tuấn?

Căn cứ pháp lý nào để bắt tạm giam cựu Giám đốc Bệnh viện Bạch Mai Nguyễn Quang Tuấn?

11/12/2021 15:48 |3 năm trước

(LSVN) - Căn cứ vào quy định tại Điều 8, Điều 222 Bộ luật Hình sự năm 2015, Điều 119 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì Cơ quan điều tra hoàn toàn có quyền bắt bị can Nguyễn Quang Tuấn để điều tra bởi ông Tuấn bị khởi tố về tội đặc biệt nghiêm trọng. Người bị khởi tố về tội này chỉ có thể được áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú nếu là phụ nữ có thai hoặc nuôi con dưới 36 tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà có nơi cư trú và lý lịch rõ ràng; còn trường hợp không thuộc các đối tượng này thì bắt buộc phải tạm giam theo quy định của pháp luật.

 Bắt tạm giam cựu Giám đốc Bệnh viện Bạch Mai Nguyễn Quang Tuấn.

Ngày 10/12, Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an đã ra quyết định hủy bỏ biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, ra lệnh bắt bị can để tạm giam đối với cựu Giám đốc Bệnh viện Bạch Mai Nguyễn Quang Tuấn. Cùng ngày, Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao cũng đã phê chuẩn quyết định và lệnh nêu trên.

Trước đó, ngày 21/10, Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an đã khởi tố, cho tại ngoại đối với ông Nguyễn Quang Tuấn (54 tuổi, Giám đốc Bệnh viện Bạch Mai) về tội "Vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng", theo Điều 222 Bộ luật Hình sự 2015. Cùng tội này, Bộ Công an khởi tố, bắt tạm giam ông Nguyễn Đức Đảng (45 tuổi, Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty cổ phần Thiết bị y tế Hoàng Nga). Hoạt động tố tụng trên diễn ra trong quá trình điều tra mở rộng vụ án vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng, xảy ra tại Bệnh viện Tim Hà Nội và các đơn vị liên quan.

Bên cạnh đó, Ban cán sự Đảng Bộ Y tế cũng đã họp, thống nhất và Bộ trưởng Y tế đã có quyết định đình chỉ công tác đối với ông Nguyễn Quang Tuấn cho đến khi có kết luận của cơ quan điều tra.

Chia sẻ với Tạp chí Luật sư Việt Nam về căn cứ pháp lý để bắt tạm giam cựu Giám đốc Bệnh viện Bạch Mai Nguyễn Quang Tuấn trong trường hợp này, Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn Luật sư TP. Hà Nội cho biết, bắt bị can để tạm giam và áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú là các biện pháp ngăn chặn trong quá trình thực hiện các hoạt động tố tụng trong vụ án hình sự. Việc áp dụng biện pháp tạm giam hay cấm đi khỏi nơi cư trú thì phải căn cứ vào quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, trên cơ sở đối với từng bị can, trong từng vụ án cụ thể.

Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định về tạm giam bị can để điều tra như sau: "Tạm giam có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội đặc biệt nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng".

Hiện nay, Cơ quan điều tra đang khởi tố các bị can về tội "Vi phạm về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng" theo quy định tại Điều 222 Bộ luật Hình sự năm 2015 với khung hình phạt theo khoản 4 là "Phạm tội gây thiệt hại 1.000.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 20 năm".

Điều 8 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định về tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng như sau: "Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội rất lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 07 năm tù đến 15 năm tù"; "Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội đặc biệt lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 15 năm tù đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình".

Luật sư Cường phân tích, với mức hình phạt như vậy thì đây là tội đặc biệt nghiêm trọng nên căn cứ vào quy định tại Điều 119 Bộ luật Tố tụng hình sự thì mặc nhiên Cơ quan điều tra sẽ áp dụng biện pháp tạm giam đối với các bị can để phục vụ công tác điều tra.

Điều 119 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định một số trường hợp sẽ không tạm giam đối với các tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng, cụ thể như sau:

"Đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà có nơi cư trú và lý lịch rõ ràng thì không tạm giam mà áp dụng biện pháp ngăn chặn khác, trừ các trường hợp:

a) Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã;

b) Tiếp tục phạm tội;

c) Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm hoặc người thân thích của những người này;

d) Bị can, bị cáo về tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ xác định nếu không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia".

Những người có thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều 113 của Bộ luật này có quyền ra lệnh, quyết định tạm giam. Lệnh tạm giam của những người được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 113 của Bộ luật này phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành. Trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày nhận được lệnh tạm giam, đề nghị xét phê chuẩn và hồ sơ liên quan đến việc tạm giam, Viện Kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn. Viện kiểm sát phải hoàn trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra ngay sau khi kết thúc việc xét phê chuẩn.

Như vậy, căn cứ vào quy định tại Điều 8, Điều 222 Bộ luật Hình sự năm 2015, Điều 119 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì Cơ quan điều tra hoàn toàn có quyền bắt bị can Nguyễn Quang Tuấn để điều tra bởi ông Tuấn bị khởi tố về tội đặc biệt nghiêm trọng. Người bị khởi tố về tội này chỉ có thể được áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú nếu là phụ nữ có thai hoặc nuôi con dưới 36 tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà có nơi cư trú và lý lịch rõ ràng. Còn trường hợp không thuộc các đối tượng này thì bắt buộc phải tạm giam theo quy định của pháp luật.

"Trước đây, Cơ quan điều tra áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú đối với ông Tuấn có thể có căn cứ cho rằng ông Tuấn có một trong các lý do quy định tại Điều 119 Bộ luật Tố tụng hình sự", Luật sư Cường nói.

HỒNG HẠNH

Bắt tạm giam cựu Giám đốc Bệnh viện Bạch Mai Nguyễn Quang Tuấn

Lê Minh Hoàng