Pháp luật quy định như thế nào về việc cách ly trường hợp nghi nhiễm Covid-19?
(LSVN) - Vừa qua, liên quan đến về sự việc cách ly người bệnh Covid-19 suốt 16 tiếng trên xe cứu thương tại Bệnh viện đa khoa Bảo Sơn. Vậy, hiện nay việc cách ly trường hợp nghi nhiễm Covid-19 được quy định như thế nào? Bạn đọc N.M. hỏi.
![]()
Ảnh minh họa.
Theo Thạc sĩ, Luật sư Nguyễn Đức Hùng – Phó Giám đốc Công ty Luật TNHH TGS cho biết tại Điều 49 Luật Phòng chống bệnh truyền nhiễm năm 2007 quy định:
“1. Người mắc bệnh dịch, người bị nghi ngờ mắc bệnh dịch, người mang mầm bệnh dịch, người tiếp xúc với tác nhân gây bệnh dịch thuộc nhóm A và một số bệnh thuộc nhóm B theo quy định của Bộ trưởng Bộ Y tế phải được cách ly;
2. Hình thức cách ly bao gồm cách ly tại nhà, tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh hoặc tại các cơ sở, địa điểm khác.”.
Đồng thời, tại Điều 11 Nghị định 101/2010/NĐ-CP của Chính phủ quy định cơ sở thực hiện việc cách ly y tế, cưỡng chế cách ly y tế cần phải đảm bảo các điều kiện như:
“a) Được thiết lập ở vị trí ít người qua lại. Trường hợp dùng để cách ly người mắc bệnh truyền nhiễm thuộc nhóm A hoặc một số bệnh thuộc nhóm B phải có phòng đệm trước khi vào phòng cách ly;
b) Cửa ra vào và cửa sổ phải bảo đảm đủ độ kín và chắc chắn để bảo đảm áp lực âm so với khu vực bên ngoài. Trường hợp không có phòng cách ly áp lực âm phải đặt phòng cách ly ở cuối chiều gió và mở hai cửa sổ để bảo đảm thông khí;
c) Có điện, nước sạch, khu vệ sinh độc lập và hệ thống xử lý chất thải trước khi thải vào nơi chứa chất thải.”.
Theo các quy định nêu trên thì việc cách ly y tế với người nghi nhiễm Covid trên xe cấp cứu là không đảm bảo đúng các quy định của pháp luật. Mặt khác, việc cách ly người ghi nhiễm Covid-19 trên xe cứu thương tại nơi có người dân qua lại và trong một thời gian dài, suốt khoảng 16 tiếng là vừa không đảm bảo an toàn về phòng, chống dịch bệnh, vừa ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, tâm lý và gây ra sự bức xúc rất lớn cho người bị cách ly trái quy định.
Tại điểm c khoản 2 Điều 11 Nghị định 117/2020/NĐ-CP ngày 28/09/2020 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế quy định: Hành vi “cách ly y tế, cưỡng chế cách ly y tế tại địa điểm không đủ điều kiện thực hiện cách ly y tế, cưỡng chế cách ly y tế theo quy định của pháp luật.”sẽ bị xử phạt từ 15.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với cá nhân vi phạm, còn đối tổ chức vi phạm thì mức xử phạt bằng 02 lần mức phạt tiền đối với cá nhân.
Nếu hành vi vi phạm quy định về cách ly y tế mà làm lây lan dịch bệnh thì người vi phạm có thể phải chịu trách nhiệm hình sự về “Tội làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người” theo quy định tại Điều 240 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017, với loại và mức hình phạt là phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, phạt tù từ 01 năm đến cao nhất là 12 năm tù. Ngoài ra, người phạm tội này còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
Do đó, các cơ quan chức năng cần sớm kiểm tra, xác minh, làm rõ vụ việc, để xem xét và xử lý trách nhiệm của các tổ chức và cá nhân có liên quan theo đúng quy định của pháp luật. Các cơ sở y tế cũng cần phải nghiêm túc rút kinh nghiệm từ vụ việc này, để tránh lập lại các sai sót tương tự, đảm bảo tốt nhất các điều kiện cho công tác phòng, chống dịch bệnh.
DUY ANH
Doanh nghiệp được nhập khẩu ô tô qua cảng Nghi Sơn từ ngày 24/01/2022
Cần sớm ban hành Luật Thi hành án hành chính
(LSVN) - Bản án, quyết định của TAND có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; Cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành. Đây là nguyên tắc Hiến pháp đã các đạo luật tư pháp khẳng định, nhưng thực tiễn thi hành hành chính không nghiêm, chưa đảm bảo công bằng, công lý.
![]()
Ảnh minh họa.
Thực tiễn thi hành án hành chính không nghiêm minh
Hệ thống pháp luật về thi hành án hiện nay có Luật Thi hành án hình sự, Luật Thi hành án dân sự và các văn bản hướng dẫn quy định cụ thể trình tự thủ tục thi hành án để đảm bảo nguyên tắc Hiến định “Bản án,quyết định của TAND có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức,cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành" . Riêng việc thi hành bản án hành chính cho đến nay vẫn chưa Luật Thi hành án hành chính.
Việc thi hành bản án hành chính được quy định tản mạn nhiều văn bản khác nhau, hiệu lực thi hành không cao, chẳng hạn việc thi hành án hành chính quy định rải rác một số điều Luật Tố tụng hành chính năm 2015, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 71/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 quy định thời hạn, trình tự, thủ tục thi hành án hành chính và xử lý trách nhiệm đối với người phải thi hành án không thi hành bản án, quyết định của Tòa án.
Quá trình triển khai thực hiện tình hình chấp hành pháp luật tố tụng hành chính và thi hành án hành chính của các cơ quan hành chính nhà nước vẫn còn những tồn tại, hạn chế, điển hình là việc không ít các vụ kiện người đại diện không tham gia phiên Tòa theo triệu tập của Tòa án; số lượng bản án hành chính đã có hiệu lực chưa được thi hành ngày càng tăng qua các năm. Nguyên nhân chủ yếu là do: ý thức chấp hành pháp luật tố tụng hành chính và thi hành án hành chính của người đứng đầu cơ quan hành chính chưa nghiêm; việc xử lý trách nhiệm của cán bộ, công chức để xảy ra sai phạm trong việc tham mưu, ban hành quyết định hành chính, thực hiện hành vi hành chính và trong việc thi hành án hành chính chưa được thực hiện hiệu quả.
Để chấn chỉnh, khắc phục những tồn tại, hạn chế nêu trên, ngày 15/11/2019, Thủ tướng Chính phủ ban hành chỉ thị số 26/CT-TTg về việc tăng cường chấp hành pháp luật tố tụng hành chính và thi hành án hành chính. Theo chỉ thị, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương tập trung thực hiện một số nhiệm vụ sau đây:
- Tổ chức thực hiện nghiêm túc, hiệu quả Luật Tố tụng hành chính năm 2015, Nghị định số 71/2016/NĐ-CP của Chính phủ và kiến nghị sau giám sát của Ủy ban Tư pháp của Quốc hội về công tác chấp hành pháp luật tố tụng hành chính, thi hành án hành chính;
- Khắc phục ngay những tồn tại, hạn chế trong việc chấp hành pháp luật tố tụng hành chính và thi hành án hành chính ở bộ, ngành, địa phương thuộc phạm vi quản lý;
- Chấp hành nghiêm Điều 55, 60 và Điều 78 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 về trách nhiệm tham gia phiên tòa, tham gia đối thoại, giải trình và cung cấp kịp thời, đầy đủ hồ sơ, tài liệu có liên quan đến quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khởi kiện theo đúng quy định. Xác định đối thoại là giải pháp quan trọng nhằm giải quyết dứt điểm bức xúc, khiếu kiện của tổ chức, cá nhân;
- Thi hành, chỉ đạo thi hành nghiêm túc và dứt điểm các bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính đã có hiệu lực pháp luật;
- Khắc phục ngay tình trạng tồn đọng các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng không được thi hành. Đối với các bản án, quyết định đã có hiệu lực thi hành trước ngày 01/7/2016 (theo Phụ lục đính kèm), Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có Kế hoạch chỉ đạo, tổ chức thi hành dứt điểm vụ việc, báo cáo Thủ tướng Chính phủ kết quả trước ngày 30/3/2020;
- Tăng cường kiểm tra, đôn đốc cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc thẩm quyền quản lý trong việc chấp hành pháp luật tố tụng hành chính và thi hành án hành chính;
- Xử lý nghiêm trách nhiệm của cá nhân, tổ chức có vi phạm trong việc chấp hành pháp luật tố tụng hành chính và thi hành án hành chính theo quy định của Luật Tố tụng hành chính, Nghị định số 71/2016/NĐ-CP của Chính phủ và pháp luật khác có liên quan;
- Nâng cao chất lượng, bảo đảm việc ban hành quyết định hành chính, thực hiện hành vi hành chính tuân thủ đúng quy định của pháp luật, nhất là trong các lĩnh vực dễ phát sinh khiếu kiện như đất đai, xây dựng, xử lý vi phạm hành chính;
- Chủ động kiểm tra, rà soát, xử lý kịp thời các sai phạm trong việc ban hành, thực hiện quyết định hành chính, hành vi hành chính, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Đề cao trách nhiệm của người đứng đầu, coi công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo là nhiệm vụ chính trị quan trọng, thường xuyên của bộ, ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị, giải quyết dứt điểm những vướng mắc của công dân, tổ chức đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan, người có thẩm quyền trong bộ máy hành chính nhà nước.
Chính phủ đề nghị Tỉnh ủy, Thành ủy, Đoàn đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo và giám sát đối với Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân trong việc chấp hành pháp luật tố tụng hành chính và thi hành án hành chính,…
Cần sớm ban hành Luật Thi hành án hành chính
Thực tiễn việc tổ chức thi hành án hành chính theo Nghị định và Chỉ thị của Chính phủ nêu trên đến nay mặc dù đã đưa ra nhiều biện pháp tăng cường chấp hành pháp luật tố tụng hành chính và thi hành án hành chính nhưng đến nay còn nhiều hạn chế bấp cập, dẫn đến những trường hợp bản án hành chính có hiệu lực không được chấp hành nghiêm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức,cá nhân ảnh hưởng đến uy tín của cơ quan nhà nước và cũng là nguyên nhân khiến công dân bức xúc, khiếu nại kéo dài.
Thực tiễn số vụ án hành chính chưa thi hành vẫn tồn đọng. Phần lớn các bản án hành chính chậm được thi hành người phải thi hành án lại chính là Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp, dẫn đến việc Tòa án phải ra quyết định buộc thi hành; cơ quan thi hành án dân sự ban hành văn bản kiến nghị xử lý trách nhiệm đối với những trường hợp vi phạm nghĩa vụ thi hành án, nhưng thực tế chưa có trường hợp nào bị xử lý theo quy định.
Hầu hết các bản án, quyết định phải thi hành liên quan đến lĩnh vực quản lý nhà nước về đất đai -là lĩnh vực hết sức phức tạp, các vụ việc tranh chấp, khiếu kiện kéo dài nhiều năm.
Mới đây, trên cơ sở Báo cáo của Bộ Tư pháp về công tác thi hành án hành chính năm 2021, Phó Thủ tướng Thường trực Phạm Bình Minh có ý kiến chỉ đạo chỉ đạo công tác thi hành án hành chính. Theo đó, Chính phủ yêu cầu Bộ Tư pháp tổ chức thực hiện có hiệu quả theo phương hướng, nhiệm vụ và các giải pháp nêu trong Báo cáo số 244/BC-BTP ngày 11/11/ 2021 để chấn chỉnh, khắc phục những tồn tại, hạn chế, nâng cao hiệu quả công tác thi hành án hành chính. Đồng thời, chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành, cơ quan có liên quan trực tiếp kiểm tra một số địa phương có nhiều bản án hành chính đã có hiệu lực thi hành nhưng chưa thi hành, chậm thi hành; làm rõ nguyên nhân, kiến nghị xử lý trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân theo quy định tại Nghị định số 71/2016/NĐ-CP của Chính phủ và pháp luật khác có liên quan; báo cáo Thủ tướng Chính phủ kết quả thực hiện.
Đối với, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương: Tổ chức thực hiện nghiêm túc, hiệu quả Luật Tố tụng hành chính, Nghị định số 71/2016/NĐ-CP của Chính phủ và Chỉ thị số 26/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ, có các biện pháp chấn chỉnh, khắc phục ngay những tồn tại, hạn chế (nhất là trong việc tổ chức thi hành các bản án đã có hiệu lực pháp luật) để nâng cao hiệu quả công tác thi hành án hành chính.
Cụ thể đối với Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương: Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Đắk Lắk, Kiên Giang, Bà Rịa -Vũng Tàu, Long An, Bình Phước, Phú Yên, Quảng Nam tập trung chỉ đạo, khẩn trương thi hành dứt điểm các bản án hành chính đã có hiệu lực thi hành trên địa bàn trong năm 2022; báo cáo kết quả gửi Bộ Tư pháp để tổng hợp báo cáo Thủ tướng Chính phủ.
Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có bản án hành chính đã có hiệu lực từ năm 2020 trở về trước thuộc trách nhiệm thi hành của Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đến nay chưa được thi hành xong (Phụ lục số 3,Báo cáo số 244/BC-BTP của Bộ Tư pháp) chỉ đạo làm rõ nguyên nhân, xem xét trách nhiệm và xử lý theo quy định đối với các tổ chức, cá nhân có liên quan theo quy định tại Điều 8 Nghị định số 71/2016/NĐ-CP Chính phủ, trừ trường hợp bản án bị hoãn, tạm đình chỉ thi hành; báo cáo kết quả gửi Bộ Tư pháp để tổng hợp báo cáo Thủ tướng Chính phủ.
Hoạt động xét xử và thi hành các bản án hành chính liên quan đến lĩnh vực đất đai là loại án mang tính chất đặc thù vì quan hệ giữa người khởi kiện với người bị kiện tuy bình đẳng về tố tụng trước Tòa án đó chỉ là lý thuyết, nhưng trong quan hệ hành chính, trong thực tiễn thì người bị kiện là người quản lý, còn người khởi kiện là người bị quản lý (người bị kiện trong vụ án hành chính thuộc lĩnh vực đất đai là người có chức vụ trong cơ quan quản lý nhà nước, nhiều trường hợp người bị kiện còn giữ chức vụ trong cơ quan Đảng như Thường vụ, Phó Bí thư huyện ủy, Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân,...), hai chủ thể này trong từng vụ án mà có thể là người được thi hành án hay người phải thi hành án; ở mỗi vụ án cụ thể vai trò, vị trí của hai chủ thể này lại khác nhau. Đó là chưa nói đến trường hợp người phải thi hành án là Chủ tịch UBND nhưng lại là Trưởng ban chỉ đạo thi hành án ở địa phương dẫn đến việc Thi hành án dân sự, cụ thể là chấp hành viên làm sao cương quyết trong thi hành án hành chính?
Tại khoản 3 Điều 60 Luật Tố tụng hành chính quy định ủy quyền tham gia tố tụng hành chính như sau: “Trường hợp người bị kiện là cơ quan, tổ chức hoặc người đứng đầu cơ quan, tổ chức thì người bị kiện chỉ được ủy quyền cho cấp phó của mình đại diện. Người được ủy quyền phải tham gia vào quá trình giải quyết toàn bộ vụ án, thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của người bị kiện theo quy định của Luật này”. Tuy nhiên, trong thực tiễn quy định này không được thực thi, về quy định về thi hành án hành chính lại không quy định cụ thể về đối tượng được ủy quyền.
Thực tế cho thấy, sau khi có quyết định buộc thi hành án hành chính, Chấp hành viên được phân công tiến hành làm việc với người phải thi hành án là Chủ tịch Uỷ ban nhân dân, có vụ nào Chấp hành viên làm được trực tiếp với Chủ tịch Uỷ ban nhân dân hay phải thông qua các cơ quan chuyên môn thay mặt làm việc với Chấp hành viên? Luật tố tụng hành chính đã có quy định còn chưa thực hiện, huống chí là thi hành án hành chính chưa có Luật!
Trong tố tụng hành chính người dân đã gặp nhiều khó khăn trong tranh tụng để có phán quyết có hiệu lực đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của mình, nhưng càng khó khăn hạn chế trong thủ tục thi hành án, dẫn đến việc bản án có hiệu lực trên,... Giấy! Người dân thắng kiện kêu trời không thấu!
Từ thực tiễn thi hành các quy định của pháp luật hiện hành về thi hành án hành chính, Quốc hội cần nghiên cứu ban hành Luật Thi hành án hành chính, khắc phục những bất cập, khó khăn, vướng mắc, tạo hành lang pháp lý rõ ràng, đầy đủ và hiệu quả cho công tác thi hành án hành chính để chấm dứt thực trạng án hiệu lực trên,... Giấy! Có Luật Thi hành án hành chính áp dụng thống nhất mới đảm bảo công bằng, công lý trong tố tụng án "Dân kiện Quan".
Luật sư NGUYỄN HỒNG HÀ
Phó Chủ nhiệm Đoàn Luật sư tỉnh Khánh Hòa

