Ảnh minh họa.
Theo Cục trưởng Cục Việc làm Vũ Trọng Bình, nhìn chung năm 2021, cung - cầu lao động của thị trường lao động bị tác động tiêu cực, nguồn cung lao động suy giảm nghiêm trọng, số lao động bị mất việc làm, giảm giờ làm việc, ngừng việc lớn khiến cho số lao động có việc làm giảm mạnh. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu việc làm đảo chiều. Tỷ lệ lao động thiếu việc làm, thất nghiệp tăng cao, tiền lương, thu nhập giảm, đời sống của người lao động gặp nhiều khó khăn và cuối cùng, có sự dịch chuyển lao động lớn từ thành thị về nông thôn, từ các trung tâm kinh tế lớn về các tỉnh...
Trước tình hình đó, Quốc hội, Chính phủ đã ban hành các giải pháp, nhiệm vụ cụ thể để phục hồi, phát triển kinh tế xã hội tại Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 30/01/2022. Quốc hội cũng thông qua Nghị quyết số 43/2022/QH15 về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ chương trình phục hồi kinh tế. Thực hiện nhiệm vụ được giao tại Nghị quyết số 11/NQ-CP, Bộ LĐTBXH đã phối hợp với các bộ, ngành liên quan để xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 08/2022/QĐ-TTg quy định về việc hỗ trợ tiền thuê nhà cho người lao động theo trình tự thủ tục rút gọn. Ước tính ban đầu của Bộ LĐTBXH, sẽ chi 6.600 tỉ đồng hỗ trợ tiền thuê nhà cho 3,4 triệu người lao động.
Về thủ tục, việc triển khai chi trả tiền hỗ trợ sẽ thực hiện theo hướng đơn giản hóa thủ tục hành chính, phát huy vai trò, trách nhiệm của người lao động, người sử dụng lao động trong việc thực hiện chính sách. Giải thích rõ về mục tiêu chính sách, lãnh đạo Cục Việc làm nêu rõ, Quyết định số 08/2022/QĐ-TTg nhằm chia sẻ, hỗ trợ cho người lao động còn khó khăn về nhà ở để họ yên tâm làm việc, tham gia phục hồi sản xuất cùng với người sử dụng lao động, hỗ trợ doanh nghiệp "giữ chân" được người lao động để có nhân lực cho phục hồi, phát triển sản xuất kinh doanh. Đồng thời, chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh để giữ chân người lao động vào làm việc, hạn chế việc phải ngừng hoạt động sản xuất kinh doanh do thiếu lao động. Đặc biệt, chính sách hướng tới mục tiêu thu hút trở lại những lao động do tác động của đại dịch COVID-19 đã phải rời bỏ thành phố về quê.
Chính sách hỗ trợ tiền thuê nhà cho người lao động hỗ trợ cho 2 đối tượng người lao động tại các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế trọng điểm theo Nghị định số 82/2018/NĐ-CP.
Thứ nhất là lao động đang làm việc. Điều kiện hưởng là đang ở thuê, ở trọ trong khoảng thời gian từ ngày 01/02/2022 đến ngày 30/6/2022; có hợp đồng lao động không xác định thời hạn hoặc hợp đồng lao động xác định thời hạn từ 1 tháng trở lên được giao kết và bắt đầu thực hiện trước ngày 01/4/2022; đang tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc (có tên trong danh sách tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc của cơ quan bảo hiểm xã hội) tại tháng liền kề trước thời điểm doanh nghiệp lập danh sách lao động đề nghị hỗ trợ tiền thuê nhà. Trường hợp người lao động không thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc theo quy định tại khoản 4 Điều 2 Nghị định số 115/2015/NĐ-CP ngày 11/11/2015 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo hiểm xã hội về bảo hiểm xã hội bắt buộc thì phải có tên trong danh sách trả lương của doanh nghiệp của tháng liền kề trước thời điểm doanh nghiệp lập danh sách lao động đề nghị hỗ trợ tiền thuê nhà. Mức hỗ trợ: 500.000 đồng/tháng, tối đa 3 tháng.
Thứ hai là hỗ trợ tiền thuê nhà cho người lao động quay trở lại thị trường lao động. Điều kiện hưởng là: đang ở thuê, ở trọ trong khoảng thời gian từ ngày 1/4/2022 đến ngày 30/6/2022; có hợp đồng lao động không xác định thời hạn hoặc hợp đồng lao động xác định thời hạn từ 1 tháng trở lên được giao kết và thực hiện trong khoảng thời gian từ ngày 01/4/2022 đến ngày 30/6/2022, trừ hợp đồng lao động giao kết tiếp nối của hợp đồng lao động đã giao kết và thực hiện trước đó; đang tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc (có tên trong danh sách tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc của cơ quan bảo hiểm xã hội) tại tháng liền kề trước thời điểm người sử dụng lao động lập danh sách lao động đề nghị hỗ trợ tiền thuê nhà. Mức hỗ trợ: 1.000.000 đồng/tháng, tối đa 3 tháng, chi trả hàng tháng.
PV
Một số bất cập trong quá trình thực hiện cung cấp lý lịch tư pháp