/ Hồ sơ - Tư liệu
/ Chiều 30 tháng 4, chúng tôi đến Sài Gòn

Chiều 30 tháng 4, chúng tôi đến Sài Gòn

24/04/2025 17:28 |5 ngày trước

(LSVN) - 14 giờ chiều ngày 30/4/1975, trên chiếc xe Zeplùn, chúng tôi - nhóm phóng viên Báo Chiến Sĩ Giải Phóng - Quân đoàn 2, vào tới dinh Độc Lập. Lúc này sân trước dinh đang ồn ã với số đông phóng viên báo chí và cán bộ, chiến sĩ ta.

Đi theo đội hình chiến đấu của Sư đoàn 324, sau giải phóng Huế, Đà Nẵng, những ngày đầu tháng 4/1975, trên những chiếc xe đò của hãng Phi Long, tôi có mặt trong Đoàn quân “Thần tốc” tiến về Sài Gòn. Ngày 17/4/1975, sau khi giải phóng Phan Rang, đội hình tiến công của Quân đoàn 2 chia ra nhiều mũi tràn vào miền Đông Sài gòn. Riêng mũi Sư đoàn 324 quay ngược ra vùng Khánh hòa để nghi binh, để đón lõng địch phản công tập hậu. Sáng 28/4/1975, tôi đang trong tâm trạng chộn rộn, nóng lòng tại thị trấn Thành, Khánh Hòa, thì phóng viên Tân Thái lái xe Zep xô tới, thúc giục tôi: “Đi! Đi ngay không mất thời cơ…”. Thế là, hai anh chúng tôi khoác súng, thay nhau vần vô lăng, nhấn ga phi xe xuôi đường số 1 theo tiếng súng phía trước. Trên đường, xe hết xăng? Xin dân! Đói cơm, khát nước ghé vào nhà dân. Không những thế, trên xe chúng tôi còn bao nhiêu là đồ ăn, trái cây… do bà con, cô bác chất lên.

11 giờ 30 phút ngày 30-4-1975, bộ đội ta cầm cờ tiến vào Dinh Ðộc Lập. Ảnh: Vũ Tạo - TTXVN.

 11 giờ 30 phút ngày 30-4-1975, bộ đội ta cầm cờ tiến vào Dinh Ðộc Lập. Ảnh: Vũ Tạo - TTXVN.

Dưới gốc cây phèo heo

Lúc ấy, anh Tân Thái cầm chiếc máy ảnh chụp bằng phim nhựa “ocvoo”, bấm lia lịa. Tôi không có máy ảnh vì, thời chiến trận Báo Chiến sĩ Giải Phóng rất nghèo, nên tôi cứ chạy lăng xăng như trẻ con mừng đón mẹ về. Tôi gặp gỡ, cười nói, chào hỏi, ghi chép, ngó nghiêng khắp khu tiền sảnh, hậu sảnh. Đi ra khu vực phía sau Dinh, tôi thấy một cây cổ thụ lừng lững, rễ cộm lên gồ ghề, cuộn sóng như những dẫy núi mi ni lan rộng mặt đất. Ngước lên, mắt tôi chạm tấm biển có dòng chữ “Cây phèo heo”. Đúng là một cây lạ, rễ giống hệt bộ phèo con heo. Sẽ là chẳng có chuyện gì đáng nói nếu tôi không tò mò tiến sát gốc cổ thụ để ngắm. Tôi bỗng khựng lại khi nhận ra một người chiến sĩ ta nằm ép sát giữa các khe rễ phèo heo, tư thế hướng về phía trước dinh. Tôi bước tới, lay lay lưng áo, hỏi: “Đồng chí làm sao thế? Đồng chí ơi! Đồng chí làm sao thế?”. Không thấy phản ứng gì, nhưng thấy lưng người chiến sĩ vẫn nóng rừng rực, nên tôi cố lật nghiêng anh lên. Trời…! Anh nằm đè lên khẩu Aka, một tay ôm chặt cây cờ Giải phóng cuộn tròn theo hình mũi tên. Mặt, ngực anh máu tràn thấm đẫm quân phục, đẫm một phần cây cờ anh đang ôm. Có lẽ anh bị thương từ buổi sáng. Anh khẽ ngước mắt nhìn tôi, đôi môi khô mấp máy. Tôi hiểu anh đang cần nước uống. Người lính nào cũng vậy, sau khi bị thương thường khát nước.

Tôi vội mở nắp bi đông mang theo, đưa vào phía môi anh. Lúng túng, xúc động xen lẫn, nên nước từ miệng bi đông cứ òng ọc tuôn tràn cả môi, tràn lên má người chiến sĩ. Anh tóp tép nuốt, nuốt cả nước lẫn máu từ má anh tràn xuống. Mừng vì biết anh còn sống mà tự nhiên tôi khóc nấc. Tôi hỏi: “Đồng chí ở đơn vị nào, tên đồng chí là gì?”. Người chiến sĩ phều phào: “Guâng đoàn bốn”. “Đồng chí tên gì?”. “Tên… Tu..ư, quê ở Giồng Trôm…”. Tôi cố vạch ngực áo anh để xem cho cặn kẽ ký hiệu đơn vị thường được thêu trên áo. Nhưng tôi không thể luận ra vì dòng ký hiệu một phần bị đạn xuyên toạc, phần còn lại đã nhòe máu từ vết thương của anh. Phải cấp cứu, phải cấp cứu ngay, tôi thoáng nghĩ và hướng ra phíatrước dinh, gào to: “Có đồng chí ở Quân đoàn bốn bị thương, mọi người tới giúp tôi một tay với…! Các đồng chí ơi…!”. Tôi vừa gào lên, vừa tháo túi băng cá nhân của mình băng quanh vùng ngực người chiến sĩ.

Thú thực, lúc đó tôi cứ quấn bừa chứ không nhìn rõ vết thương phía dưới vạt áo lính của anh. Phía trước dinh, hình như không có ai nghe thấy tiếng gọi của tôi, nên không thấy động tĩnh phản hồi. Quấn băng xong, tôi vuột chạy ra phía trước dinh, vừa chạy vừa gào để tìm người hỗ trợ. Sân trước dinh đông đúc có tới vài trăm người, vẫn ồn ã vui mừng chiến thắng. Tôi chạy ra chiếc xe Zéplùn của tôi, vừa tìm, vừa gọi anh Tân Thái vì anh cầm chìa khóa xe. Không thấy anh Tân Thái, tôi đành chạy quay lại phía cây phèo heo. Một số người thấy tôi hô hào cũng ào theo, trong đó có mấy người nước ngoài. Tôi đề nghị ai đó có xe cho mượn để chở thương binh đến bệnh viện. Rất nhanh chóng có đến mấy chiếc xe chạy tới. Chúng tôi khiêng người chiến sĩ lên một chiếc xe Zep không mui tiếp cận vị trí nhanh nhất, do một người nước ngoài lái. Việc khiêng thương binh lên xe tưởng đơn giản mà quá khó khăn. Anh thương binh Quân đoàn 4 này kiên quyết kháng cự. Hai tay anh quặp lại ôm chặt cây cờ cùng khẩu súng, vừa ghì chặt vào rễ cây phèo heo. Tôi không sao gỡ tay, nhấc anh lên được. Lại sợ làm đau vết thương trên người đồng đội, tôi cứ loay hoay một hồi mà không gỡ được.

Tôi quát, “Đồng chí Tư, chiến sĩ Quân đoàn 4 chú ý lắng nghe mệnh lệnh: Chúng ta, đồng chí đã hoàn thành nhiệm vụ giải phóng đất nước, dinh Độc Lập cờ Giải phóng đã tung bay. Tôi, sĩ quan Quân giải phóng Miền Nam, ra lệnh: Đồng chí trao lại khẩu súng, lá cờ trên tay để đi làm nhiệm vụ mới! Rõ chưa!”. Anh chiến sĩ cố ngước lên nhìn tôi như dò xét. Thấy bộ mặt tôi nghiêm nghị quân sự, anh mới từ từ buông tay, tuân lệnh.

Chiếc xe Zép rú còi chạy vun vút trong chiều. Đường phố Sài Gòn tràn đầy cờ hoa, nắng gió. Lúc đó, tôi cũng chẳng biết đã đi qua những con phố nào, nhưng với thời gian không lâu, xe đã đến dừng tại Bệnh Viện Chợ Rẫy. Đón xe chúng tôi là tốp thanh niên áo xanh, đeo băng đỏ. Họ là lực lượng thanh niên, sinh viên được cách mạng tập hợp để làm nhiệm vụ bảo vệ, giữ gìn trật tự, trị an ngay những ngày đầu giải phóng.Nghe tôi trình bày, họ nhanh chóng huy động bác sĩ đưa thương binh lên bàn cấp cứu. Lát sau, họ cùng bác sĩ quay ra, thông báo: “Do không được cứu chữa kịp thời, anh ấy đã hi sinh …”!

Sài Gòn - đêm đầu tiên

Đêm ấy, chúng tôi ngủ tại căn nhà bảo vệ mái bằng phía trái cổng, trong khuôn viên dinh Độc Lập. Vừa vuimừng, vừa buồn, vừa mệt nên chẳng thấy đói, chúng tôi cũng chẳng thiết ăn gì. Nhưng khát thì không thể nhịn được. Người “bảo vệ” dinh cho chúng tôi mượn cái xoong nhỏ để đun nước. Nhưng chao ôi! Không có bếp, không có củi mà cũng chẳng có gạch để kê làm “đồ rau”. Loay hoay một lục, nồi nước cũng được đun bởi “sáng kiến” kê một phần xoong vào bậc lên xuống trong nhà, phía quai xoong còn lại dùng đoạn giây thép buộc treo lên. Tôi giữ phần giây treo cho thăng bằng. Người bảo vệ khệ nệ bê ra một đống giấy tờ, rồi nhóm lửa. Khi xoong nước đã sôi được hạ xuống, anh Tân Thái lôi từ ba lô ra một túi đường, “Thả cả” vào đó. Túi đường có nhẽ tới nửa kg, chứ không phải ít. Đêm Sài gòn tháng tư quá nóng. Xoong nước vừa sôi như nóng bỏng hơn nhiệt độ vốn có. Chúng tôi thì khát cháy cổ, không sao uống nước được. Chúng tôi liền nghĩ ra việc đi tìm mua đá lạnh. Đang ngẩn ngơ chần chừ vì không có tiền, thì người bảo vệ đưa cho tôi năm chục - tiền Sài Gòn thời đó. Anh bảo: “Các đồng chí cầm xài đỡ…”.

Bước ra cổng dinh, tôi hỏi đường đến chợ Bến Thành. Có đến vài chục người đang đứng truyện trò, bàn luận sôi nổi trước cổng dinh ào đến, vây quanh tôi như vây quanh một thần tượng. Họ ríu ran, hỏi han xởi lởi. Có một cháu bé chen tới, sờ lần vào chiếc dây lưng da thò ra sau lưng áo tôi. Tôi chẳng hiểu chuyện gì, nên cứ toét miệng cười. Ngồi sau chiếc xe “Honda 67” của một thanh niên, vèo vèo vài phút tôi đã có mặt trước cổng chợ Bến Thành. Đêm Sài Gòn sáng trưng. Thành phố ồn ã, đông vui như hội. Tôi ghé tới quầy mua chanh. Chị bán chanh tấp đầy chanh vào mũ cối của tôi và dứt khoát từ chối khi tôi móc túi lấy đưa chị tờ “năm chục”. Chị tươi cười đứng lên nhìn, ngắm tôi và đặc biết quan sát phía sau lưng áo tôi…Tôi sang quầy bán đá cây, mua nguyên một tảng đá lạnh nặng tới năm, sáu ký. Anh bán đã cũng quyết không lấy tiền và cũng ngắm nhìn, cặp mắt tò mò xói vào lưng áo tôi.

Lúc này, tôi mới nhận ra người vây quanh xem tôi mua hàng có tới cả chục, đa số là thiếu niên. Do tảng đá hình chữ nhật vừa to, vừa lạnh, tôi nảy ra “sáng kiến” tháo dây lưng xiết vòng giữa thân tảng đá để xách. Khi vừa rút giây lưng ra khỏi vòng bụng thì tất cà ồ lên. Các cháu thiếu niên reo lên: “A cái đuôi, cái đuôi Việt Cộng…”. Có một giọng bé gái vút cao: “Tụi bay ơi! Hổng phải các chú Việt Cộng có đuôi! Hổng phải đuôi! Chú Việt Cộng đẹp trai, dễ thương, trắng bóc như người Đà Lạt…”. Rồi tất cả cười vang đêm phố. Tôi vỡ lẽ, bật cười: Hóa ra việc chăm chăm quan sát, sờ lần vào chiếc dây lưng từ khi tôi vừa bước ra cửa dinh Độc Lập, đến khi cháu bế reo lên là do các cháu chưa từng “thực mục sở thị” anh bộ đội – Việt Cộng. Họ tò mò xem “Cái đuôi Việt Cộng”. Chợt nhớ thời trước đó, bộ máy tuyên truyền của chính quyền Sài Gòn đã vẽ những bức áp phích to đùng, treo khắp mọi nẻo đường, có hình “Sáu tên Việt Cộng có đuôi, đánh đu không gẫy một cọng đu đủ”. Họ tuyên truyền nhảm nhí: Việt Cộng đói kém, gầy yếu sống trên rừng sâu, núi đỏ lâu năm, nên đã mọc đuôi …”. Tôi bật cười ha ha… rõ to. Vừa cười, tôi vừa giải thích, vừa khoác vai lũ trẻ cùng đoàn người chuyền tay nhau xách chanh, xách đá lạnh rồng rắn, tíu tít truyện trò cùng bộ hành về dinh Độc Lập…

Thế mà đã 50 năm. Sài Gòn giờ đã đàng hoàng hơn, to đẹp hơn chục lần năm xưa. Thi thoảng, tôi vẫn nhớ về cái ngày đầu tiên ấy, nhớ người chiến sĩ Quân đoàn 4 đã ngã xuống trước giao thừa độc lập. Tôi vẫn cảm nhận được sức lực ghì chằng từ hai cánh tay người lính trẻ vào khẩu súng, vào cây cờ Giải phóng dưới gốc cây phèo heo sau dinh Độc Lập. Tôi vẫn nhớ tiếng cười, tiếng trẻ ngây thơ reo vang “Hổng phải các chú Việt Cộng có đuôi! Các chú Việt cộng hổng có đuôi…” của các cháu thiếu niên ngây thơ trong cái đêm đầu tiên củangày 30 tháng 4 năm 1975 tại Sài Gòn lịch sử. Có lần, tôi tự chiêm nghiệm, tiếc nuối: Nếu như, cái ngày hôm ấy, tôi, hoặc ai đó phát hiện sớm hơn, thì người lính ôm súng, ôm cờ kia sẽ đang được hạnh phúc cùng chúng ta.

Luật sư, Tiến sĩ PHẠM HUỲNH CÔNG

Các tin khác