Nguyễn Du là con thứ 4 của bà Trần Thị Tần, vợ thứ 3 của cụ Nguyễn Nghiễm. Nguyễn Nghiễm có 8 bà vợ 21 người con. Nguyễn Du con thứ 7 nên người ta thường gọi cậu Chiêu Bảy. Ông Nguyễn Nghiễm một vị quan thanh liêm, chăm lo việc triều đình, văn chương nên không giàu có gì. Bởi vậy khi còn nhỏ, Nguyễn Du không phải một đứa trẻ có cuộc sống dư giả về vật chất. Ông được mẹ đưa về quê ngoại sống, mãi đến 6 tuổi mới về Thăng Long nhập học. Mồ côi cha lúc 10 tuổi, mồ côi mẹ lúc 13 tuổi. Kể từ đây Nguyễn Du hết cảnh êm đẹp của buổi thiếu thời, phải về ở với anh cùng cha khác mẹ là Nguyễn Khản. Mặc dù được anh tạo điều kiện ăn học, tuổi thơ Nguyễn Du bị thiệt thòi rất nhiều. Chính vì thế mà ông thấm thía câu tục ngữ một lần mẹ đưa về quê nội Tiên Điền nghe cậu bé chăn trâu hát: “Có cha, có mẹ thì hơn, không cha, không mẹ như đòn đứt dây”. Mặc dù con quan lại nhưng cuộc sống túng thiếu nên Nguyễn Du gần gũi với dân giã, thông cảm với người nghèo.

Đại thi Hào Nguyễn Du cuộc đời, sự nghiệp mang nhiều thăng trầm và bi thương.
Nguyễn Khản thấy em sớm bộc lộ tư chất văn chương thiên phú nên gửi sang học một ông thầy giỏi bên Gia Lâm. Hàng ngày, Nguyễn Du phải đi đò qua sông Nhị Hà. Cô lái đò tên Nhật có nước da trằng hồng, đôi mắt bồ câu. Mỗi lần đò ra giữa sông gió làm cho mái tóc bay bay, cô đưa đôi mắt nhìn xa xăm càng thêm đẹp. Đi đò nhiều lần cậu Chiêu mê cô lái đò có giọng nói nhẹ nhàng, ngọt ngào, săc đẹp trời cho lúc nào không biết. Một hôm đi học muộn nhân cơ hội cậu Chiêu đọc bài thơ để thổ lộ tình cảm của mình:
Hỡi ai chèo giúp tôi sang
Kẻo trời trưa quá, lỡ làng tôi ra
Còn nhiều qua lại, lại qua
Giúp nhau thêm nữa để mà…
Đọc đến đây cậu Chiêu ngập ngừng không đọc nữa. Cô lái đò bâng khuâng, không ngờ một công tử sang trọng lại để ý đến một cô lái đò, con nhà thấp hèn như mình. Cô bẽn lẽn hỏi: “Giúp nhau thêm nữa để mà… còn gì nữa cậu Chiêu”. Không ngờ cô lái đò thông minh, dí dỏm làm cho mình bất ngờ cậu Chiêu ấp úng nói : “Vậy thì nhờ… nhờ cô viết tiếp”.
Sau cái ngày hôm đó tình yêu giữa cô lái đò Nguyễn Thị Nhật và cậu Chiêu Bảy càng thắm thiết. Thế rồi chuyện đến tai anh Nguyễn Khản - một quan đại thần nhà Lê - Trịnh. Nguyễn Khản cho rằng cậu Chiêu và cô lái đò không môn đăng hộ đối. Vả lại em mình mới 15 tuổi, cô lái đò hơn 3 tuổi nên nghiêm khắc ngăn cản. Ông cho người đến nói chuyện với bố mẹ cô Nhật. Cũng từ đó bến dò trên sông Nhị Hà không còn thấy bóng dáng cô Nhật. Cậu Chiêu bị anh đưa lên gửi cho một người bạn của bố ở Thái Nguyên. Cậu Chiêu đau khổ vô cùng với mối tình đầu:
Yêu nhau những muốn gần nhau
Bể sâu trăm trượng, tình sâu gấp mười
Vì đâu cách trở đôi nơi
Bến này còn đó nào người năm xưa.
Khi cậu Chiêu Bảy từ Thái Nguyên trở về Thăng Long thấy bến đò trên sông Nhị Hà còn đó nhưng người chủ khác, cô Nhật bị ép đi lấy chồng, Cậu Chiêu đau buồn khôn tả. Nguyễn Khản biết em mình chưa quyên được mối tình đầu. Có người bạn với bố là Đoàn Nguyễn Thục ở thôn Hải An, phủ Thái Bình, trấn Sơn Nam Hạ, đỗ Hoàng giáp khoa Nhâm Thân (1752). Ông còn có tên là Đoàn Duy Tĩnh từng làm Phó đô ngự sử, tước Quỳnh Châu bá, rồi làm lần lượt làm Đốc thị Nghệ An, Giám quân, được thăng lên Thống Lĩnh Tây đạo. Hoàng Giáp Thục một con người đức độ. Ông có cô con gái thứ sáu cùng tuổi với Nguyễn Du, xinh xắn thùy mị, thạo nữ công gia chánh, đang sống với bố ở Thăng Long. Mượn cớ đi chơi Nguyễn Khản tạo điều kiện cho Nguyễn Du gặp cô tiểu thư họ Đoàn.
Vốn hai gia đình quen biết nhau, đã nghe tên cậu con trai thứ bảy của Hoàng Giáp, Quận công Nguyễn Nghiễm. Lúc này quan Đông các họ Đoàn mới nhìn thấy mặt càng quý mến Nguyễn Du. Dần dần, Đoàn tiểu thư cũng đem lòng quý mến chàng trai họ Nguyễn. Năm 1780 Thăng Long xảy ra vụ án năm Canh Tý, một số tiều thần mưu phục chức thế tử cho Trịnh Tông. Khi Trịnh Tông được lên ngôi chúa xảy ra sự lộng hành của kiêu binh. Nguyễn Khản đang làm Trấn thủ Sơn Tây bị khép tội mưu loạn. Ông bị bãi chức đưa đi giam ở nhà Châu Quận công. Nguyễn Du được gia đình họ Đoàn đón về ở trấn Sơn Nam Hạ. Về đó Nguyễn Du tiếp tục học tập, năm Quý Mão (1783) đậu tú tài, trở thành con rể họ Đoàn.
Năm 1786, quân Tây Sơn ra Bắc Hà. Năm 1789, Nguyễn Huệ đại phá quân Thanh và xóa luôn chế độ thối nát Lê – Trịnh gia đình họ Nguyễn Tiên Điền cũng tan nát theo, trôi dạt mỗi người một ngả. Nguyễn Du về ẩn náu quê vợ Thái Bình. Mười năm “gió bụi nơi quê vợ”, nhiều đêm ông không ngủ nghĩ về thời thế, nghĩ về bản thân, có lúc buồn tủi nhớ quê đến bật khóc:
… Ở đất khách lâu, ngồi dưới đèn nhưng rơi lệ
Quê nhà xa ngàn dặm, nhìn trăng mà đau lòng.
Ở đó trên dòng Long Giang, ngoài thôn Nam Đài
Tiếng sóng buốt lạnh tiễn đưa kim cổ…
Trong lúc ruột gan bồn chồn không yên, đi đâu về đâu lên Thăng Long, về Bắc Ninh, hay ra với nhà Tây Sơn, Nguyễn Du đem tâm tư của mình bày tỏ với cụ Cửu, người bác họ của vợ. Cụ Cửu người cao tuổi nhất họ bên vợ lúc đó, cũng là bậc tiên tri của làng. Sau khi phân tích nhân tình thế thái cụ Cửu khuyên: “Núi Hồng, Sông Lam mảnh đất cố hương cần cho cháu lúc này”. Nguyễn Du thấy lời nói cụ Cửu hợp với mình lúc này năm 1796 gia đình dắt díu nhau về quê. Cũng trong năm đó, ông trốn vào Gia Định theo chúa Nguyễn Ánh nhưng không thành bị Quận công Nguyễn Thận bắt giam 3 tháng ở Nghệ An.
Sau khi được thả về Tiên Điền ông làm thơ: “My trung mạn hứng” (Cảm hứng trong tù) lấy thêm 2 người vợ sinh mười người con, cả nhà sống trong một túp lều tranh. Cuộc sống vô cùng cực khổ ông phải lên núi Hồng Lĩnh đi săn, xuống biển câu cá, có phen phải ăn hoa cúc trừ bữa. Quặn lòng nhìn con thơ gầy yếu ông viết: “Mười đứa con thơ xanh tựa rau”. Chán nản trước cảnh xã hội, cùng với cảnh nhà đang còn cơ cực, Nguyên Du u buồn: “Ta có chút tâm sự không biết tỏ cùng ai dưới chân núi Hồng, dòng sông Quế sâu thăm thẳm”. Nhưng không gì ngăn cản được đam mê sáng tác của thi sĩ, những ngày sống ở quê nhà bên dòng Sông Lam trong một túp lều đơn sơ ông nắm trên một chiếc võng gai, kê bên là chiếc hương án. Mỗi khi nghĩ ra được một câu, một tứ thơ hay ông vội đứng dậy ghi liền vào giấy. Truyện Kiều được chỉnh sửa từng câu, từng ý nhờ có những năm tháng Nguyễn Du sống đạm bạc ở quê nhà.
Những năm cuối đời ông làm quan ở Huế, ông ghê tởm với sự giả dối, tham tàn vô độ của những kẻ mệnh danh là cha mẹ dân, lên mặt cầm cân nẩy mực, răn dạy trăm họ. Ông tận mắt chứng kiến: “Ném bạc đâm toạc tờ giấy”. Bản thân bị bệnh tật dày vò, bọn quan lại luôn rình mò, nên Nguyễn Du sống lạnh lùng không mấy khi nói. Vua Gia Long trách ông “rụt rè, sợ sệt chỉ vâng dạ”. Làm quan ở chốn cung đình nhưng gia đình ông sống trong cảnh túng bấn. Ông phải tiết kiệm từng xu gửi về nuôi vợ, nuôi con ở quê nhà. Do đó những bài thơ ở Huế đều buồn. Trong bài “Ngẫu đề” ông viết:
Thập khẩu đề cơ Hoành Lĩnh Bắc
Nhất thân ngọa bệnh Đế thành đông
(Mười miệng đói kêu ngoài Hoàng Lĩnh Bắc
Một thân nằm bệnh Đế thành đông).
Sinh ra trong một gia đình quan lại nhưng cuộc đời, sự nghiệp của Nguyễn Du mang nhiều thăng, trầm và bi thương. Chính thân phận giúp ông nhìn đời, nhìn xã hội sâu sắc hơn, thông cảm, thấu hiểu đối với mỗi con người. Nó tích tụ, bồi đắp cho ông vốn sống, đầy ắp tư liệu để viết nên nhiều tác phẩm nổi tiếng, mà Truyện Kiều là một kiệt tác
HẢI HƯNG

