/ Đời sống - Xã hội
/ Đắk Lắk: Cần tăng cường vai trò quản lý, giám sát về công tác bảo vệ môi trường trong hoạt động chăn nuôi

Đắk Lắk: Cần tăng cường vai trò quản lý, giám sát về công tác bảo vệ môi trường trong hoạt động chăn nuôi

01/01/0001 00:00 |

(LSVN) – Là địa phương có số lượng trang trại chăn nuôi lớn và được quy hoạch bài bản nhưng thực tế nhận thấy, tại Đắk Lắk công tác quản lý trong lĩnh vực bảo vệ môi trường còn lỏng lẻo trong khâu kiểm tra, giám sát của các cơ quan chức năng. Điều này dẫn đến tình trạng nhiều trang trại chăn nuôi chưa tuân thủ, đáp ứng đúng quy chuẩn về xử lý nước thải, có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường và lây lan dịch bệnh.

Trang trại lợn hộ ông Phan Tấn Hoàn (tại xã Hòa Thuận, TP. Buôn Ma Thuột) có hệ thống xử lý nước thải sơ sài, gây mùi hôi thối ảnh hưởng đến người đi đường.

Đắk Lắk là địa phương phát triển kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp. Bên cạnh phát triển các loại cây nông nghiệp chủ lực thì những năm gần đây ngành nghề chăn nuôi cũng đang được chú trọng và đẩy mạnh, trong đó chăn gia súc chiếm số lượng lớn. Theo số liệu từ Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk hiện có khoảng 6293 trang trại chăn nuôi gia súc, gia cầm. Trong đó có 78 trang trại chăn nuôi quy mô lớn, 688 trang trại chăn nuôi quy mô vừa và 5527 trang trại chăn nuôi quy mô nhỏ. Bên cạnh những hiệu quả kinh tế mang lại thì vấn đề xử lý chất thải trong chăn nuôi chưa đảm bảo, có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường và lây lan dịch bệnh.

Tại xã Hòa Thuận (thành phố Buôn Ma Thuột) hiện có 104 trang trại chăn nuôi, trong đó có 29 trang trại chăn nuôi lợn, hầu hết là trang trại chăn nuôi hộ gia đình liên kết với doanh nghiệp theo hình thức gia công, có quy mô từ 600 đến 2000 con. Tuy nhiên, việc thu gom, xử lý chất thải của nhiều trang trại chưa đáp ứng quy chuẩn kỹ thuật quốc gia. Theo ghi nhận, nhiều trang trại chăn nuôi lợn tại khu chăn nuôi tập trung chỉ xây dựng hệ thống xử lý nước thải theo hình thức đối phó, nước thải chăn nuôi sau khi xử lý qua biogas thì được đưa ra các hố, bể chứa lộ thiên không lót bạt chống thấm để phơi khô hoặc sử dụng bón cho cây trồng mà không tiến hành các bước tiếp theo để xử lý vi khuẩn, vi trùng trước khi đưa ra nguồn tiếp nhận.

Một số trang trại lợn tại xã Ea Tul nằm trong khu quy hoạch chăn nuôi tập trung có hệ thống xử nước thải chưa đáp ứng quy chuẩn kỹ thuật, các hố, bể chứa không lót bạt chống thấm.

Tương tự, tại xã Ea Tul, Phó Chủ tịch UBND xã Bùi Tá Danh, cho biết, trên địa bàn xã hiện có 10 trang trại chăn nuôi lợn, quy mô từ 700 đến trên 1000 con. Hằng năm, Phòng Tài và Môi trường đều thực hiện kiểm tra, UBND xã cũng đề nghị ký cam kết giữa các trang trại có hợp đồng liên kết gia công với các công ty chăn nuôi và chuyển hồ sơ về Phòng Kinh tế - Hạ tầng để xem xét, đánh giá nếu đủ điều kiện thì mới công nhận. Tuy nhiên, theo ông Danh: “Nhiều trang trại vẫn chưa đảm bảo về xử lý nước thải, có làm hầm biogas nhưng chưa xử lý triệt đề về vấn đề môi trường nên mùa mưa bốc mùi hôi thối”.

Bà Đỗ Thị Mùi (xã Ea Tul), là hộ chăn nuôi liên kết với Công ty Cổ phần chăn nuôi CP Việt Nam chi nhánh Đắk Lắk cho biết, trang trại của gia đình bà hiện đang nuôi 700 con lợn thịt, nước thải chăn nuôi sau khi xử lý qua biogas thì được mang đi tưới cho cây trồng, do không đủ chi phí để lắp đặt hệ thống xử lý nước thải nên không còn cách nào khác.

Trang trại của ông Trần Văn Phú (tại xã Ea Nuôl) vi phạm về khoảng cách an toàn chăn nuôi và xả thải gây ô nhiễm môi trường nhưng đến nay nhũng sai phạm này vẫn chưa được khắc phục dứt điểm.

Cũng là trang trại chăn nuôi lợn nằm trên địa bàn xã Ea Tul, hộ ông Nguyễn Văn Dũng chia sẻ: “Trang trại xây từ năm 2015 và được UBND thành phố Buôn Ma Thuột cấp Giấy phép chứng nhận đủ điều kiện chăn nuôi, hằng năm đều có cam kết bảo vệ môi trường. Cơ quan chức năng cũng có xuống kiểm tra và nhắc nhở chúng tôi thực hiện đúng quy trình xử lý nước thải nhưng do khó khăn quá nên cũng cứ xin họ tạo điều kiện chứ chưa có kinh phí để làm”.

Còn tại xã Ea Nuol, huyện Buôn Đôn hiện có 38 trang trại chăn nuôi, trong đó có 18 trang trại chăn nuôi lợn, hoạt động từ năm 2013 đến nay. Trao đổi với PV, bà H’Cuên H’wing, Phó Chủ tịch xã cho biết, hằng năm UBND xã phối hợp với đoàn liên ngành kiểm tra, qua đó cũng phát hiện một vài cơ sở chăn nuôi vi phạm và tiến hành xử phạt theo quy định. Nhưng bên cạnh đó, vẫn còn nhiều trang trại chưa chấp hành đúng quy định về xứ lý nước thải, một số trang trại dù đã bị xử phạt vẫn không khắc phục vi phạm.

 Hệ thống xử nước thải chăn nuôi tại Trang trại của ông Huỳnh Thanh Phụng chưa đúng theo quy chuẩn như trong Báo cáo đánh giá tác động môi trường của Dự án.

“Chúng tôi gặp không ít khó khăn trong quá trình kiểm tra, giám sát vì khi đi kiểm tra đột xuất thì cũng không thể vào trang trại được do quy định về phòng chống dịch bệnh. Nhiều trang trại tính phối hợp chưa cao, đôi lúc chúng tôi phải đợi ngoài cổng rất lâu mới được vào kiểm tra, có khi đành quay về vì không ai mở cửa cho vào trang trại”, bà H’Cuên nói.

Đáng chú ý, trại lợn của ông Trần Văn Phú tại xã Ea Nuôl có quy mô 3000 con, cơ sở chăn nuôi này có vị trí biệt lập nhưng chưa phù hợp theo Điều 5 Thông tư 23/2019/TT-BNNPTNT của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quy định khoảng cách an toàn chăn nuôi trong trang trại. Ngoài ra, hệ thống xử lý chất thải rắn và chất thải lỏng chưa đúng quy định theo Thông tư 12/2021/TT-BNNPTNT, chưa phù hợp với quy mô trang trại dẫn đến quá tải gây ô nhiễm môi trường và có nguy cơ lây lan dịch bệnh. Những sai phạm này đã được Đoàn thanh tra của Chi Cục Chăn nuôi và thú y kết hợp với Phòng Chăn nuôi của UBND huyện Buôn Đôn và UBND xã Ea Nuôl tiến hành kiểm tra, lập biên bản. Mặc dù vi phạm nghiêm trọng nhưng trang trại hộ ông Trần Văn Phú vẫn không bị xử lý mà chỉ yêu cầu “thực hiện đúng theo quy định của pháp luật”.

Còn trại lợn của ông Huỳnh Thanh Phụng tại buôn Kô Đung (xã Ea Nuôl, huyện Buôn Đôn) có quy mô 3600 con, cũng đang liên kết gia công với Công ty cổ phần chăn nuôi CP Việt Nam chi nhánh Đắk Lắk. Mặc dù đã được UBND tỉnh Đắk Lắk ban hành Quyết định phê duyệt Báo cáo đánh giá tác động môi trường của Dự án, trong đó yêu cầu đáp ứng mọi điều kiện về bảo vệ môi trường về thu gom và xử lý nước thải chăn nuôi. Theo đó, nội dung Quyết định nêu rõ “nước thải chăn nuôi phát sinh từ chuồng trại chăn nuôi (khoảng 46m3/ngày đêm) thu gom cùng với chất thải chăn nuôi (khoảng 7,56 tấn/ngày) được đi qua mương dẫn đến bể thu gom, từ bể thu gom tiến hành bơm, ép tách phân (bằng máy tách phân). Nước thải sau khi đã tách phân được xử lý qua nhiều bể khác nhau rồi mới đưa ra hồ lắng, hồ sinh học, bãi lọc ngập nước, hồ sinh học kết hợp thực vật thả nổi, bể khử trùng rồi mới đưa ra nguồn tiếp nhận”. Thế nhưng thực tế trang trại này có hệ thống xử lý nước thải vô cùng sơ sài, ngoài hầm biogas, trang trại không xây lắp hệ thống hệ thống các hồ lắng, hồ sinh học theo quy chuẩn mà chỉ đào vài hố đất lộ thiên để lắng nước thải. Các hố đất này cũng không được lót bạt chông thấm khiến một lượng nước thải lớn ngấm xuống đất, mùa mưa dễ tràn ra bên ngoài.

Trao đổi về vấn đề này, ông Trần Ngọc Sơn, Phó Chi Cục trưởng Chi Cục chăn nuôi và thú y cho rằng, Chi Cục chỉ quản lý về góc độ chăn nuôi, việc kiểm tra và xử lý vi phạm về lĩnh vực môi trường thuộc về Sở Tài nguyên và Môi trường và các Phòng Tài nguyên và Môi trường sẽ phù hợp hơn. Về việc cấp giấy phép chăn nuôi nếu là dự án quy mô lớn thì sẽ thuộc thẩm quyền UBND tỉnh còn nếu trang trại có quy mô vừa và nhỏ của hộ gia đình thì thuộc thẩm quyền UBND huyện/thị và UBND xã. Do đó, quá trình cấp phép Chi Cục không tham gia thẩm định hệ thống xử lý nước thải nên không nắm được vấn đề này. Đối với các trang trại quy mô lớn từ 10.000 con trở lên hệ thống xử nước thải rất hiện đại và đúng quy chuẩn còn những trang trại có quy mô 1000 đến 2000 con do chi phí lắp đặt lớn nên quá trình thực hiện nhiều trang trại làm chưa triệt để.

Theo Điều 59, Luật Chăn nuôi 2018 quy định về xử lý nước thải trong chăn nuôi trang trại:
a) Tổ chức, cá nhân sở hữu cơ sở chăn nuôi trang trại có trách nhiệm thu gom, xử lý nước thải chăn nuôi đáp ứng quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về nước thải chăn nuôi trước khi xả thải ra nguồn tiếp nhận theo quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường;
b) Nước thải chăn nuôi đã xử lý đáp ứng đúng quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về nước thải chăn nuôi được sử dụng cho cây trồng;  
c) Nước thải chăn nuôi chưa xử lý khi vận chuyển ra khỏi cơ sở chăn nuôi trang trại đến nơi xử lý phải sử dụng phương tiện, thiết bị chuyên dụng. 

Mức xử phạt vi phạm hành chính hộ chăn nuôi gây ô nhiễm môi trường:
Căn cứ khoản 1, khoản 2 Điều 19 Nghị định 155/2016/NĐ-CP quy định như sau:
- Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với hành vi thải chất thải vệ sinh hầm cầu, hóa chất độc, các nguồn gây dịch bệnh vào môi trường trái quy định về bảo vệ môi trường.
- Đối với hành vi gây ô nhiễm đất, nước (nước ngầm, nước mặt bên trong và ngoài khuôn viên của cơ sở) hoặc không khí vượt quy chuẩn kỹ thuật về môi trường đất, nước, không khí xung quanh bị xử phạt như sau:
+ Phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 80.000.000 đồng đối với trường hợp hàm lượng chất gây ô nhiễm (thông số môi trường) trong đất, nước hoặc không khí vượt quy chuẩn kỹ thuật dưới 03 lần đối với thông số môi trường nguy hại hoặc dưới 05 lần đối với thông số môi trường thông thường;
+ Phạt tiền từ 80.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng đối với trường hợp hàm lượng chất gây ô nhiễm (thông số môi trường) trong đất, nước hoặc không khí vượt quy chuẩn kỹ thuật từ 03 lần đến dưới 05 lần đối với thông số môi trường nguy hại hoặc từ 05 lần đến dưới 10 lần đối với thông số môi trường thông thường;
+ Phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 150.000.000 đồng đối với trường hợp hàm lượng chất gây ô nhiễm (thông số môi trường) trong đất, nước hoặc không khí vượt quy chuẩn kỹ thuật từ 05 lần trở lên đối với thông số môi trường nguy hại hoặc từ 10 lần trở lên đối với thông số môi trường thông thường.

Căn cứ Điều 48 Nghị định 155/2016/NĐ-CP quy định về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp như sau:
- Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã có quyền:
+ Phạt cảnh cáo;
+ Phạt tiền đến 5.000.000 đồng;
+ Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính có giá trị đến 5.000.000 đồng;
+ Áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả vi phạm quy định tại các điểm a, b, c và đ khoản 3 Điều 4 Nghị định này.
- Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện có quyền:
+ Phạt cảnh cáo;
+ Phạt tiền đến 50.000.000 đồng;
+ Tước quyền sử dụng Giấy phép môi trường có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn thuộc thẩm quyền;
+ Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính có giá trị đến 50.000.000 đồng;
+ Áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả vi phạm quy định tại các điểm a, b, c, đ, e, g, h, i, k, l, m, o, p, q, r, s và t khoản 3 Điều 4 Nghị định này (được sửa đổi bởi khoản 33 Điều 1 Nghị định 55/2021/NĐ-CP)
- Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có quyền:
+ Phạt cảnh cáo;
+ Phạt tiền đến 1.000.000.000 đồng;
+ Tước quyền sử dụng Giấy phép môi trường có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn;
+ Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính;
+ Áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả vi phạm quy định tại khoản 3 Điều 4 Nghị định này.

LAM SƠN – HƯƠNG TRẦN

Một số dấu hiệu, hành vi vi phạm trong việc quản lý hóa đơn

Lê Minh Hoàng