(LSVN) - Hiện nay, loại hình kinh doanh thương mại điện tử đang phát triển mạnh mẽ và xuất hiện ở các mặt của đời sống đem lại rất nhiều lợi ích, tiết kiệm được thời gian và cả vật chất. Tuy nhiên, đi cùng với sự thuận tiện cũng xuất hiện những tình trạng gian lận thương mại, chất lượng hàng hóa không đảm bảo. Đặc biệt, tình trạng trốn thuế của hình thức thương mại điện tử hay kinh doanh trực tuyến đang rất phổ biến.
Nội dung cơ bản của quản lý thuế
Thứ nhất, về chủ thể quản lý thuế: Khoản 2 Điều 2, Luật Quản lý thuế 2006 quy định cơ quan quản lý thuế bao gồm cơ quan thuế và cơ quan hải quan. Trong đó, Cơ quan thuế gồm Tổng cục thuế, Cục thuế, Chi cục thuế; Cơ quan hải quan gồm Tổng cục hải quan, Cục hải quan, Chi cục hải quan. Hiện nay, Luật Quản lý thuế 2019 đã bổ sung thêm Chi cục Thuế khu vực do hiện nay đã và đang tiến hành việc sáp nhập một số Chi cục Thuế thành các Chi cục Thuế khu vực.
Thứ hai, về nội dung quản lý thuế: Điều 3, Luật Quản lý thuế 2006 quy định các nội dung cơ bản của hoạt động quản lý thuế bao gồm: Đăng ký thuế, khai thuế, nộp thuế, ấn định thuế; Hoàn thuế, miễn thuế, giảm thuế; Xóa nợ tiền thuế, tiền phạt; Quản lý thông tin về người nộp thuế; Kiểm tra thuế, thanh tra thuế; Cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế; Xử lý vi phạm pháp luật về thuế; Giải quyết khiếu nại, tố cáo về thuế.
Luật Quản lý thuế 2019 bổ sung thêm các hoạt động: Quản lý hóa đơn, chứng từ; Hợp tác quốc tế về thuế; Tuyên truyền, hỗ trợ người nộp thuế, nhằm phù hợp thực tế mua bán hóa đơn thuế tràn lan, thiếu kiểm soát, đồng thời tương thích với xu hướng hội nhập quốc tế hiện nay. Bên cạnh đó, trong bối cảnh nền kinh tế phát triển như hiện nay, việc tuyên truyền, hỗ trợ tạo điều kiện cho người nộp thuế là cần thiết để đảm bảo thu được tối đa số tiền thuế phải nộp, tránh tình trạng thất thoát về thuế.
Về quản lý thuế với hoạt động thương mại điện tử
Luật Quản lý thuế 2006 không có các quy định riêng về quản lý thuế đối với hoạt động thương mại điện tử, do bối cảnh những năm đầu của thế kỷ 20, việc kinh doanh trên nền tảng công nghệ còn chưa phổ biến ở Việt Nam. Tuy nhiên, trong nhiều năm trở lại đây, với sự xuất hiện của các kênh mua bán trực tuyến cũng như việc kinh doanh trực tuyến trên mạng xã hội ngày một sôi động, đòi hỏi pháp luật về quản lý thuế phải sửa đổi, bổ sung nhằm phù hợp với tình hình thực tiễn.
Luật Quản lý thuế năm 2019 đã bổ sung những quy định liên quan đến quản lý thuế đối với hoạt động này theo hướng xây dựng cơ sở dữ liệu và triển khai rộng rãi các dịch vụ thuế điện tử như khai thuế điện tử, hoá đơn điện tử, nộp thuế online. Theo đó, cơ quan quản lý thuế xây dựng hệ thống công nghệ thông tin đáp ứng yêu cầu hiện đại hóa công tác quản lý thuế, tiêu chuẩn kỹ thuật, định dạng dữ liệu về hóa đơn, chứng từ điện tử, hồ sơ thuế để thực hiện giao dịch điện tử giữa người nộp thuế với cơ quan quản lý thuế và giữa cơ quan quản lý thuế với cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan[3].
Trong công tác khai thuế, tính thuế, Luật Quản lý thuế 2019 đã quy định nguyên tắc khai thuế, tính thuế riêng đối với hoạt động kinh doanh thương mại điện tử. Theo đó, với hoạt động kinh doanh thương mại điện tử, kinh doanh dựa trên nền tảng số và các dịch vụ khác được thực hiện bởi nhà cung cấp ở nước ngoài không có cơ sở thường trú tại Việt Nam thì nhà cung cấp ở nước ngoài có nghĩa vụ trực tiếp hoặc ủy quyền thực hiện đăng ký thuế, khai thuế, nộp thuế tại Việt Nam theo quy định của Bộ trưởng Bộ Tài chính[4].
Về sử dụng mã số thuế, khi bên Việt Nam chi trả tiền cho tổ chức, cá nhân có hoạt động kinh doanh xuyên biên giới dựa trên nền tảng trung gian kỹ thuật số không hiện diện tại Việt Nam thì phải sử dụng mã số thuế đã cấp cho tổ chức, cá nhân này để khấu trừ, nộp thay.
Bên cạnh đó, về vấn đề áp dụng hóa đơn điện tử khi mua bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ, Doanh nghiệp kinh doanh thương mại điện tử và một số doanh nghiệp, tổ chức kinh tế đã hoặc sẽ thực hiện giao dịch với cơ quan thuế bằng phương tiện điện tử, xây dựng hạ tầng công nghệ thông tin, có hệ thống phần mềm kế toán, phần mềm lập hóa đơn điện tử đáp ứng lập, tra cứu hóa đơn điện tử, lưu trữ dữ liệu hóa đơn điện tử theo quy định và bảo đảm việc truyền dữ liệu hóa đơn điện tử đến người mua và đến cơ quan thuế thì được sử dụng hóa đơn điện tử không có mã của cơ quan thuế khi bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ, không phân biệt giá trị từng lần bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ, trừ trường hợp rủi ro về thuế cao theo quy định của Bộ trưởng Bộ Tài chính và trường hợp đăng ký sử dụng hóa đơn điện tử có mã của cơ quan thuế.
Luật Quản lý thuế 2019 cũng có những quy định cho các cơ quan ban ngành có liên quan trong việc quản lý thuế đối với các doanh nghiệp, cá nhân kinh doanh thương mại điện tử. Theo đó, Bộ công thương phải chỉ đạo, hướng dẫn các cơ quan chức năng trong việc kết nối, cung cấp thông tin liên quan để phối hợp với Bộ Tài chính trong quản lý thuế đối với các tổ chức, cá nhân hoạt động thương mại điện tử. Ngân hàng nhà nước Việt Nam có trách nhiệm xây dựng và phát triển hệ thống thanh toán thương mại điện tử quốc gia, các tiện ích tích hợp thanh toán điện tử để sử dụng rộng rãi cho các mô hình thương mại điện tử, đồng thời thiết lập cơ chế quản lý, giám sát các giao dịch thanh toán hỗ trợ công tác quản lý thuế đối với hoạt động cung cấp dịch vụ xuyên biên giới trong thương mại điện tử. Các ngân hàng thương mại có trách nhiệm khấu trừ, nộp thay nghĩa vụ thuế phải nộp theo quy định pháp luật về thuế của tổ chức, cá nhân ở nước ngoài có hoạt động kinh doanh thương mại điện tử có phát sinh thu nhập từ Việt Nam…
Đánh giá về quản lý thu thuế đối với hoạt động thương mại điện tử
Bán hàng trực tuyến là hình thức bán hàng mà người bán hàng đưa các hàng hóa, dịch vụ của mình lên các kênh trực tuyến, như: Facebook, Zalo, Youtube, ... Bán hàng trực tuyền là một hình thức của hoạt động thương mại điện tử. Căn cứ khoản 1 Điều 3 Nghị định 52/2013/NĐ-CP về thương mại điện tử thì “Hoạt động thương mại điện tử là việc tiến hành một phần hoặc toàn bộ quy trình của hoạt động thương mại bằng phương tiện điện tử có kết nối với mạng Internet, mạng viễn thông di động hoặc các mạng mở khác”.
Trong những năm qua, các quy định pháp luật về thuế của Việt Nam đã được kiện toàn và có tính bao quát, điều chỉnh đối với thương mại điện tử (TMĐT) ngay từ khi hoạt động này mới ra đời, đảm bảo cơ sở pháp lý cho việc thu thuế, cụ thể như:
Thứ nhất, về thuế giá trị gia tăng (GTGT): Theo quy định Điều 3 và Điều 4 Luật thuế GTGT năm 2008 (đã được sửa đổi, bổ sung vào các năm 2013 và 2016) và các văn bản hướng dẫn thì các hàng hóa, dịch vụ sử dụng cho sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng tại Việt Nam là đối tượng chịu thuế GTGT; Tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế và tổ chức, cá nhân khác nhập khẩu hàng hóa chịu thuế (gọi chung là người nhập khẩu) là đối tượng nộp thuế GTGT. Do đó, các hàng hóa, dịch vụ sử dụng tại Việt Nam được mua, bán thông qua loại hình TMĐT từ các trang mạng điện tử đặt tại Việt Nam hay tại các quốc gia khác thì người bán đều phải kê khai và nộp thuế GTGT theo quy định.
Thứ hai, về thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN): Tại Điều 2 và Điều Luật Thuế TNDN năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2013) đã quy định rõ tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có thu nhập đều phải nộp thuế TNDN.
Cụ thể: Doanh nghiệp Việt Nam nộp thuế đối với thu nhập chịu thuế phát sinh tại Việt Nam và thu nhập chịu thuế phát sinh ngoài Việt Nam; doanh nghiệp nước ngoài có cơ sở thường trú tại Việt Nam nộp thuế đối với thu nhập chịu thuế phát sinh tại Việt Nam có hoặc không liên quan đến hoạt động của cơ sở thường trú đó và thu nhập chịu thuế phát sinh ngoài Việt Nam liên quan đến hoạt động của cơ sở thường trú đó; doanh nghiệp nước ngoài không có cơ sở thường trú tại Việt Nam nộp thuế đối với thu nhập chịu thuế phát sinh tại Việt Nam.
Về cách xác định số thuế phải nộp cũng như phương pháp thu thuế, Luật Thuế GTGT, Luật Thuế TNDN và các văn bản hướng dẫn đã có quy định phù hợp với từng loại đối tượng, trong đó để tạo thuận lợi cho hoạt động khai, nộp thuế cũng như phù hợp với thông lệ quốc tế, đối với trường hợp doanh nghiệp nước ngoài có hoạt động kinh doanh phát sinh thu nhập tại Việt Nam nhưng không thành lập pháp nhân, không thực hiện chế độ kế toán, chứng từ theo pháp luật của Việt Nam thực hiện việc xác định số thuế phải nộp (thuế GTGT, thuế TNDN) theo tỷ lệ % / doanh thu và tổ chức Việt Nam có trách nhiệm khấu trừ tiền thuế của doanh nghiệp nước ngoài từ số tiền chi trả cho doanh nghiệp nước ngoài và nộp số tiền thuế này vào ngân sách nhà nước.
Thứ ba, về thuế thu nhập cá nhân (TNCN): Theo quy định tại Điều 2 và Điều 3 Luật Thuế TNCN năm 2007 (được sửa đổi, bổ sung năm 2012) đối tượng nộp thuế TNCN là cá nhân cư trú có thu nhập thuộc diện chịu thuế quy định phát sinh trong và ngoài lãnh thổ Việt Nam và cá nhân không cư trú có thu nhập thuộc diện chịu thuế phát sinh trong lãnh thổ Việt Nam. Như vậy, cá nhân công dân Việt Nam hay cá nhân nước ngoài phát sinh thu nhập từ các giao dịch TMĐT tại Việt Nam và tại các trang mạng của Việt Nam cũng như các trang mạng quốc tế đều phải kê khai và nộp thuế TNCN.
Thứ tư, về các chủ thể nước ngoài kinh doanh trên lãnh thổ Việt Nam: Luật Quản lý thuế năm 2019đã có quy định người nộp thuế phải thực hiện đăng ký thuế và được cơ quan thuế cấp mã số thuế trước khi bắt đầu hoạt động sản xuất, kinh doanh hoặc có phát sinh nghĩa vụ với ngân sách nhà nước.
Căn cứ các quy định của pháp luật và tình hình thực tiễn hoạt động trong lĩnh vực TMĐT, Bộ Tài chính đã chỉ đạo cơ quan thuế thực hiện các chính sách thuế và công tác quản lý thuế đối với TMĐT phù hợp với từng loại hình hoạt động, từng mô hình hoạt động kinh doanh TMĐT.
Hệ thống luật pháp liên quan đến quản lý thuế đối với lĩnh vực TMĐT của Việt Nam đã được quy định. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, công tác quản lý thuế đối với một số hoạt động TMĐT đã bộc lộ những hạn chế cần sớm có giải pháp khắc phục. Cụ thể:
Một là, phần lớn các tổ chức, cá nhân kinh doanh TMĐT tại Việt Nam không tiến hành đăng ký kinh doanh nên cơ quan nhà nước khó theo dõi, quản lý, xác định đối tượng. Đặc biệt là đối với loại hình quảng cáo trực tuyến, bán hàng qua mạng xã hội (như thông qua Google, Facebook, Zalo...). Trong đó, các hành vi mà doanh nghiệp (như Google, Yahoo…) vi phạm thường không kê khai hoặc kê khai sai doanh thu thuế GTGT; Không kê khai thuế nhà thầu đối với dịch vụ của một số công ty đa quốc gia có phát sinh dịch vụ ở Việt Nam.
Ngoài ra, hoạt động bán hàng trực tuyến qua mạng xã hội của các tổ chức, cá nhân hiện nay đang bùng phát nhanh chóng, trong khi cơ quan quản lý lại thiếu chế tài để tiến hành thu thuế kinh doanh khi phát sinh giao dịch buôn bán.
Hai là, nhiều tổ chức, cá nhân kinh doanh sử dụng tài khoản cá nhân để thanh toán các khoản phí dịch vụ nước ngoài không kê khai doanh thu tính thuế. Trong đó, một bộ phận khá lớn các tổ chức, cá nhân sử dụng website để quảng bá sản phẩm, hàng hóa, bán trực tiếp cho người tiêu dùng là cá nhân không xuất hóa đơn bán hàng, không kê khai doanh thu tính thuế GTGT và thuế thu nhập doanh nghiệp.
Ba là, một số hoạt động TMĐT chưa có trong danh mục ngành nghề kinh doanh, hơn nữa còn có hoạt động TMĐT đang trong tình trạng tranh cãi thuộc vào loại hình kinh doanh nào, dẫn đến khó khăn trong việc xác định bản chất, loại hình để đánh thuế hoạt động kinh doanh, trong khi tùy theo loại hình hoạt động mà cơ quan quản lý thuế áp dụng các mức thuế khác nhau.
Thực tế cho thấy, đã xuất hiện nhiều cá nhân thực hiện các giao dịch mua bán tiền “ảo”, chuyển nhượng các vật phẩm “ảo” trong game hay cho thuê ứng dụng để đặt quảng cáo trực tuyến có doanh thu lên đến hàng chục tỷ đồng, thậm chí hàng trăm tỷ đồng nhưng không kê khai, nộp thuế đầy đủ.
Bốn là, vấn đề xác định doanh thu, thu nhập của các đối tượng kinh doanh TMĐT gặp khó khăn. Hiện nay, công tác quản lý TMĐT chưa có các công cụ để kiểm soát, theo dõi lượng hàng hóa cũng như doanh thu phát sinh từ các hoạt động này.
Việc xác định doanh thu chủ yếu dựa trên hóa đơn bán hàng và nội dung giao dịch thanh toán. Thực tế, nhiều đối tượng kinh doanh TMĐT khi cung cấp hàng hóa, dịch vụ không xuất hóa đơn hoặc xuất hóa đơn không đúng thực tế; Thực hiện phương thức thanh toán bằng tiền mặt là chủ yếu, hoặc nếu thanh toán qua ngân hàng thì sử dụng các tài khoản ngân hàng không đăng ký với cơ quan Thuế.
Trong khi đó, pháp luật cũng chưa có quy định về trách nhiệm của ngân hàng trong việc cung cấp thông tin giao dịch thanh toán TMĐT, trách nhiệm của các đơn vị cho thuê máy chủ về cung cấp thông tin các doanh nghiệp vận hành các trang mạng có hoạt động kinh doanh TMĐT..., nên cơ quan Thuế còn gặp khó khăn trong quản lý kê khai, xác định doanh thu của các đối tượng kinh doanh TMĐT.
TMĐT có những tính chất đặc thù như quy mô hoạt động rộng trên môi trường internet có tính phi biên giới, dễ dàng thay đổi, che dấu hoặc xóa dữ liệu giao dịch. Vì vậy, vấn đề quản lý thu thuế là khá khó khăn đối với các giao dịch TMĐT xuyên biên giới ví dụ như trường hợp cung cấp dịch vụ đặt phòng trực tuyến, dịch vụ du lịch đăng ký trực tuyến.
Trong các trường hợp này, khách hàng sử dụng dịch vụ thường trả tiền trực tiếp cho doanh nghiệp ở nước ngoài, sau đó doanh nghiệp nước ngoài này lại chuyển tiền phòng cho khách sạn, cơ sở lưu trú... nên khó xác định giao dịch cũng như doanh thu của doanh nghiệp nước ngoài để tính, khấu trừ tiền thuế.
Mặc dù, chưa có số liệu thống kê đầy đủ nhưng chắc chắn nếu tình trạng này kéo dài, ngân sách nhà nước thất thu là không nhỏ, khi sự phối hợp giữa ngành Thuế với các bộ, ngành liên quan để tăng cường hiệu quả quản lý thu ngân sách nhà nước đối với hoạt động TMĐT vẫn còn hạn chế như hiện nay.
Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về quản lý thu thuế với hoạt động kinh doanh thương mại điện tử
Đối với hoạt động kinh doanh trực tuyến trong nước
Thứ nhất, rà soát, bổ sung hoàn thiện các quy định pháp luật về thuế đối với giao dịch điện tử nhằm giúp cho việc kê khai nộp thuế được thuận tiện. Đồng thời, tăng cường khả năng kiểm soát và ngăn ngừa các hành vi trốn thuế của các tổ chức, cá nhân có thu nhập từ hoạt động TMĐT.
Thứ hai, nâng cao sự phối hợp giữa cơ quan thuế với các ngân hàng, các cơ quan quản lý chuyên ngành và các tổ chức quốc tế trong việc đổi các thông tin về quản lý thuế, nhằm kiểm soát chặt chẽ việc kê khai, nộp thuế của tổ chức, cá nhân khi phát sinh thu nhập từ các giao dịch điện tử. Bên cạnh đó, cần tăng cường công tác đào tạo, tập huấn cho cho đội ngũ cán bộ công chức chuyên trách, nâng cao năng lực quản lý trong lĩnh vực nào.
Thứ ba, chú trọng công tác tuyên truyền chính sách pháp luật về thuế để nâng cao nhận thức và ý thức tự giác của các tổ chức, cá nhân trong việc kê khai, nộp thuế từ các giao dịch điện tử, tránh thất thu cho ngân sách nhà nước.
Thứ tư, phát triển công cụ tìm kiếm internet thông minh trên các trang web có hoạt động TMĐT để xác định hoạt động TMĐT chưa được kê khai thuế; Ghi chép các kết quả làm bằng chứng để sử dụng trong quá trình tính thuế và thanh tra, kiểm tra… phục vụ quản lý thuế theo công nghệ tìm kiếm và thông lệ quản lý thuế về TMĐT của các nước phát triển.
Đối với hoạt động thương mại điện tử ở nước ngoài
Thứ nhất, để quản lý thuế với thương mại điện tử ở nước ngoài hiệu quả, cần cả sự phối hợp từ các cơ quan khác, đặc biệt là hải quan và ngân hàng. Theo đó, hàng hóa xuất, nhập khẩu từ nước ngoài vào Việt Nam hoặc từ Việt Nam ra nước ngoài phải chịu sự giám sát của cơ quan hải quan. Liên quan đến việc này, Tổng cục Hải quan đang xây dựng Đề án quản lý hoạt động thương mại điện tử đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu với yêu cầu đặt ra với việc quản lý hoạt động thương mại điện tử với hàng hóa xuất nhập khẩu là phải hạn chế việc lợi dụng chính sách hiện hành để giảm hoặc tránh nghĩa vụ thuế. Chẳng hạn, việc nhập khẩu hàng hóa theo hình thức quà tặng, hàng xách tay.
Thứ hai, xây dựng hệ thống dữ liệu liên quan đến giao dịch thương mại điện tử. Một trong những điểm khó hiện nay là chưa có hệ thống tiếp nhận, lưu giữ, xử lý dữ liệu liên quan đến giao dịch thương mại điện tử. Từ đó phát sinh trường hợp khách hàng mua hàng qua các sàn giao dịch thương mại điện tử, các website điện tử bán hàng vào thời điểm hàng hóa được giảm giá nhưng khi về đến Việt Nam, hải quan không có căn cứ để tính thuế trên trị giá hàng hóa đã giảm, mà tính theo nguyên giá của hàng hóa. Do đó, cần xây dựng hệ thống dữ liệu liên quan đến giao dịch thương mại điện tử và có quy định cụ thể về việc chấp nhận trị giá giao dịch qua thương mại điện tử là trị giá thực của giao dịch để thực hiện tính thuế.
Thứ ba, xây dựng cơ sở pháp lý để ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng thực hiện khấu trừ với thu nhập phát sinh tại Việt Nam của nhà cung cấp nước ngoài. Ngân hàng Nhà nước và các ngân hàng thương mại cần phối hợp để xác định được tiêu chí và điều kiện khấu trừ khoản thuế theo đúng quy định của pháp luật về thuế với giao dịch xuyên biên giới. Mặt khác, Ngân hàng Nhà nước cũng cần thúc đẩy việc quản lý thanh toán qua thẻ tín dụng như Visa, Master để vừa phù hợp với thông lệ quốc tế, vừa có thể khấu trừ tại nguồn với các giao dịch đó.
Thứ tư, cần tăng cường khuyến khích các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài đăng ký, kê khai và nộp thuế tại Việt Nam.
__________________________________ [1] Nguyễn Thị Ngọc Anh, Pháp luật về quản lý thuế thu nhập ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, Luận văn thạc sỹ luật học, Hà Nội, 2015, tr.10Vũ Văn Cương, Pháp luật quản lý thuế trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn , Luận án tiến sĩ luật học, Hà Nội, 2012, tr. 12-13. [2] Vũ Văn Cương, Pháp luật quản lý thuế trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn , Luận án tiến sĩ luật học, Hà Nội, 2012, tr. 12-13. [3] http://tapchitaichinh.vn/co-che-chinh-sach/lan-dau-tien-luat-hoa-quy-dinh-quan-ly-thue-voi-thuong-mai-dien-tu-309329.html. [4] Khoản 4 Điều 42 Luật quản lý thuế 2019. |
MỸ LINH