/ Trao đổi - Ý kiến
/ Dạy học Dự án đối với một số môn học trong đào tạo cao học luật ở Việt Nam

Dạy học Dự án đối với một số môn học trong đào tạo cao học luật ở Việt Nam

21/02/2024 07:03 |

(LSVN) - Giáo dục đại học không thể đi ngược lại với xu thế hội nhập toàn cầu - là nhận định tác giả đưa ra để bàn về bối cảnh yêu cầu đổi mới giáo dục đại học ở Việt Nam hiện nay. Đối với các cơ sở đào tạo luật, việc nghiên cứu đổi mới phương pháp dạy học đại học chính là bước đầu của sự hội nhập giáo dục đại học toàn cầu. Với rất nhiều phương pháp dạy học được đề cập trong lý luận dạy học đại học, có một phương pháp dạy học rất đáng được nghiên cứu và vận dụng trong giảng dạy một số môn học của chương trình đào tạo cao học luật theo hướng ứng dụng ở Việt Nam hiện nay, đó là phương pháp Dạy học dự án hay còn gọi là Project Based Learning.

Ảnh minh họa. 

Trong phạm vi bài viết, tác giả sẽ trình bày về các nội dung cơ bản của phương pháp Dạy học dự án trong giảng dạy pháp luật và áp dụng điển hình đối với môn học “Pháp luật và phát triển” trong chương trình đào tạo cao học luật kinh tế của Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh để gợi ý áp dụng cho các môn học pháp luật khác tại các cơ sở đào tạo luật ở Việt Nam hiện nay.

Sự cần thiết phải đổi mới phương pháp trong giảng dạy pháp luật ở bậc cao học tại Việt Nam hiện nay

Khi bối cảnh xã hội và bối cảnh toàn cầu đang không ngừng vận động, thay đổi và phát triển thì yêu cầu đặt ra đối với người tốt nghiệp cao học luật không còn đơn giản chỉ là những kiến thức cơ bản về pháp luật chuyên ngành và kỹ năng thông thường dễ dàng có được bằng cách tham gia đầy đủ một khoá học. Trong sự dự báo tương lai này, người học buộc phải hoàn thiện tư duy pháp lý cũng như kiến thức pháp luật chuyên ngành hoặc sẵn sàng phối hợp hiệu quả với những kiến thức và kỹ năng mới trong các lĩnh vực khác để trở thành một người thành công hoặc cống hiến tốt hơn cho xã hội. Nhận thức được dòng chảy của sự thay đổi tất yếu này trong nguồn nhân lực ngành luật của quốc gia sẽ hình thành nên một động lực để chúng ta thay đổi tư duy đào tạo người học trở thành những chuyên gia lập pháp, cán bộ ưu tú, nhà quản lý - quản trị - điều hành cao cấp, nhà giáo dục pháp lý và các nhà khoa học pháp lý mang tính khai phá trong tương lai (không chỉ dừng lại ở những công trình nghiên cứu khoa học pháp lý giới hạn trong phạm vi “lối mòn lý luận”). Chấp nhận sự thử nghiệm và thay đổi phương pháp dạy học trong các môn học pháp luật đôi khi sẽ chính là tiền để giúp cho người học có được sự chuẩn bị tâm thế và định hướng nghề nghiệp cho bản thân mình tốt hơn ở tương lai. Tác giả cho rằng, một số giá trị về tư duy và kỹ năng quan trọng cần trang bị cho người học trong thời đại mới đó là:

Kỹ năng phối hợp: Khi việc trao đổi thông tin và tương tác ngày càng trở nên dễ dàng thì người hành nghề luật cần phải khai thác tối đa kỹ năng phối hợp để biến nó trở thành thế mạnh cho bản thân mình. Người học luật cần xem đây là một kỹ năng quan trọng phải xây dựng để có thể phối hợp tốt với các chuyên gia pháp lý, luật sư, thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên hoặc những người am hiểu chuyên sâu ở khía cạnh pháp lý, lĩnh vực chuyên môn mà mình thiếu sót nhằm lấp đầy những khoảng trống về kiến thức chuyên môn chưa am hiểu để thành công hơn trong công việc. Đôi khi kỹ năng phối hợp còn cần phải được mở rộng ra ở các lĩnh vực khác không phải là pháp lý vì thực tiễn đã chứng minh có rất nhiều vụ việc để giải quyết được vấn đề đặt ra, các luật sư, thẩm phán đã phải phối hợp với các nhà khoa học, chuyên gia ở những lĩnh vực chuyên môn khác như: y tế, vật lý, hoá học, tâm lý học, chứng khoán, công nghệ thông tin… Điều đó cho thấy, kỹ năng này ngày càng trở nên quan trọng đối với người công tác ở lĩnh vực pháp lý trong xã hội hiện nay.

Kỹ năng thiết kế và quản lý dự án: Trong tương lai gần, hội nhập toàn cầu sẽ ngày càng sâu, rộng; vị thế của con người, doanh nghiệp và đất nước Việt Nam sẽ ngày càng được nâng tầm nên chắc chắn sẽ có nhiều dự án pháp lý quy mô lớn phát sinh. Vậy nên, người học luật ngay từ ban đầu phải tập làm quen với việc thiết kế, quản lý và vận hành dự án pháp lý từ quy mô nhỏ cho đến lớn để hình thành kỹ năng của riêng mình. Việc thiết kế và quản lý dự án pháp lý khoa học và hiệu quả chính là tiền đề của sự thành công và khả năng sẵn sàng đón nhận những thử thách lớn hơn sau này của người học luật sau khi tốt nghiệp.

Tư duy học tập suốt đời: Xã hội và công nghệ ngày càng phát triển đã thúc đẩy những người hành nghề luật phải sẵn sàng cho tư duy học tập suốt đời để không ngừng hoàn thiện và đổi mới bản thân nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng khắt khe của nghề nghiệp. Tính tự lực và tự học chính là yếu tố then chốt hình thành năng lực tư duy sẵng sàng học tập suốt đời của một con người. Do đó, các cơ sở đào tạo luật phải giúp người học trang bị và khai phá khả năng tự học để người học tự nhận thức, nghiên cứu, soi chiếu bản thân và quản lý quá trình học tập của mình một cách chủ động mà không cần đến sự nhắc nhở, thậm chí họ không cần đến sự hướng dẫn của người giảng viên. Tư duy học tập suốt đời là chìa khóa vạn năng để người học luật khi ra trường hành nghề không bị lạc hậu, bị bỏ lại phía sau bởi những thay đổi của thời cuộc, của xã hội. Thay vào đó, họ sẵn sàng học tập, tiếp thu, nghiên cứu, thay đổi tư duy và sẵn sàng thành công hơn ngay cả khi đã đảm nhiệm những vị trí công việc pháp lý cao cấp.

Tóm lại, những yêu cầu về tư duy và kỹ năng mà bối cảnh đặt ra đối với người hành nghề luật trong tương lai cũng là động lực và lý do để thúc đẩy việc tìm kiếm một phương pháp dạy học mới mẻ và đáp ứng những yêu cầu này.

Về phương pháp Dạy học dự án

Xuất hiện từ cuối thế kỷ 16 ở Pháp và một số quốc gia châu Âu khác, phương pháp Dạy học dự án (DHDA) (tiếng Anh là Project Based Learning) nhanh chóng có tầm ảnh hưởng lan tỏa sâu rộng từ đầu thế kỷ 20 và trở thành cơ sở lý luận phương pháp dạy học trọng tâm ở Hoa Kỳ. Lấy người học làm trung tâm, phát huy tối đa khả năng nghiên cứu vận dụng của người học, gắn kết giữa lý thuyết và hành động thực tiễn được xem là những ưu điểm vượt trội mà phương pháp DHDA mang lại so với các phương pháp dạy học truyền thống.

“Dạy học dự án là một hình thức tổ chức dạy học, trong đó học sinh thực hiện một nhiệm vụ học tập phức hợp, gắn với thực tiễn, kết hợp lý thuyết với thực hành, tự lực lập kế hoạch, thực hiện và đánh giá kết quả. Hình thức làm việc chủ yếu là theo nhóm, kết quả dự án là những sản phẩm hành động có thể giới thiệu được. Dự án là một kế hoạch, dự định, về cơ bản được đặc trưng bởi tính duy nhất của các điều kiện trong tính tổng thể của chúng, ví dụ có mục đích định trước, giới hạn về thời gian, nhân lực và các điều kiện khác” (theo tiêu chuẩn châu Âu DIN 69901)(1).

 “Phương pháp học tập theo dự án (PBL) là mô hình hình thành cách học thông qua các dự án. Theo định nghĩa trong tài liệu dành cho giảng viên, dự án là nhiệm vụ phức tạp, dựa trên những câu hỏi hoặc vấn đề mang tính thách thức, yêu cầu người học tham gia vào các hoạt động thiết kế, giải quyết vấn đề, đưa ra quyết định và nghiên cứu; các hoạt động này tạo môi trường làm việc độc lập trong một khoảng thời gian dài và kết thúc dự án bằng sản phẩm thực tế hoặc các bài thuyết trình” (theo Jones, Rasmussen, & Moffitt, 1997; Thomas, Mergendoller, & Michaelson, 1999).

“Phương pháp học tập theo dự án (PBL) là phương pháp học tập mà người học tự kiểm soát cách học, với sự hỗ trợ từ giảng viên. Sinh viên tiếp nhận kiến thức bằng cách đặt các câu hỏi từ sự tò mò thực thụ. Đặt câu hỏi chính là điểm xuất phát của một dự án. Người học sẽ hình thành câu hỏi và tự nghiên cứu với sự giám sát của giảng viên. Những gì người học thu thập được sẽ được trình bày trong dự án và thuyết trình trước khán giả của họ. Đối với phương pháp học tập này, người hướng dẫn sẽ hỗ trợ người học hệ thống hóa các bước thực hiện dự án. Trong đó, sự lựa chọn của người học là điều quan trọng nhất. Giảng viên là người đưa ra chỉ dẫn ở từng bước và thông qua từng sự lựa chọn từ người học trước khi bước vào bất kỳ nội dung nào” (theo Bell, S. (2010).

“Dạy học dự án là một phương pháp dạy học; trong đó dưới sự định hướng, tổ chức, hướng dẫn, điều chỉnh của giảng viên, sinh viên tự lực lập kế hoạch hành động, tiến hành thực hiện các kế hoạch được phân công dựa trên những tri thức vốn có để tạo ra sản phẩm của mình, qua đó nhằm tạo dựng tri thức mới thông qua các dự án mang ý nghĩa thực tiễn”(2).

Về mặt nội hàm (tương đối), các định nghĩa trên là hệ thuộc của nhau và thống nhất nhau. Định nghĩa sau cùng chỉ là chi tiết hóa cụ thể định nghĩa đầu tiên, vận dụng thực tiễn dưới góc nhìn là một phương pháp dạy học trong lý luận dạy học. Tác giả đồng quan điểm với cách tiếp cận ở định nghĩa về DHDA thứ hai dưới góc độ vận dụng vào thực tiễn dạy học đại học. Tuy nhiên, sẽ là không phản ánh hết đầy đủ nội dung và bản chất cơ bản của DHDA nếu người học chỉ tiến hành thực hiện các kế hoạch được phân công dựa trên những tri thức vốn có để tạo ra sản phẩm của mình mà không được sự trợ giúp từ giảng viên để hoàn thiện dự án mà mình thực hiện(3). Mặt khác, khi vận dụng phương pháp dạy học này vào giảng dạy ngành luật ở bậc cao học thì sản phẩm tạo ra không nhất thiết phải là dự án mang ý nghĩa thực tiễn mà đó có thể là các dự án học thuật mang ý nghĩ lý luận hàn lâm khoa học pháp lý.

Dưới góc nhìn cá nhân khi nghiên cứu về chủ đề này, tác giả đưa ra định nghĩa về phương pháp DHDA trong giảng dạy ngành luật như sau: DHDA là một phương pháp của lý luận dạy học đại học; dưới sự tổ chức, định hướng, hướng dẫn, trang bị và hỗ trợ của giảng viên, người học tự hành động, tiến hành lập kế hoạch và triển khai thực hiện dự án theo chủ đề mà giảng viên đề ra cho môn học dựa trên những tri thức vốn có, đã được điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện trong quá trình học để tạo ra sản phẩm của mình trong thời hạn ấn định nhằm tạo dựng tri thức mới thông qua các dự án mang ý nghĩa lý luận hoặc thực tiễn.

Đặc điểm của phương pháp DHDA đối với môn học Pháp luật và phát triển

Trong chương trình đào tạo cao học luật kinh tế của Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, Pháp luật và phát triển là môn học có nội dung trọng tâm xây dựng nền tảng kiến thức khoa học pháp lý đủ để có thể nhận thức, đánh giá về vai trò và tầm quan trọng của pháp luật đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia. Người học sẽ được trang bị một cơ sở lý luận khoa học pháp lý cần thiết đủ để am hiểu các quy trình, hệ thống nguyên tắc xây dựng và sử dụng pháp luật của một quốc gia sao cho hiệu quả và tối ưu hóa giá trị; nhằm bảo đảm một thái độ phản ứng (ứng xử) phù hợp của nhà nước (pháp luật) đối với các mối quan hệ kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ vận động của hình thái kinh tế - xã hội khác nhau và tương thích trong một thể chế thống nhất(4). Do đó, việc vận dụng phương pháp DHDA đối với môn học này sẽ thúc đẩy quá trình tự nghiên cứu và sáng tạo sản phẩm học thuật của người học một cách giá trị hơn ngay khi chưa tốt nghiệp chương trình cao học luật. Mục tiêu hướng tới của các sản phẩm công bố là: (i) những bài viết được đăng tải trên các tờ báo uy tín hoặc các tạp chí khoa học chuyên ngành luật; (ii) các báo cáo khoa học pháp lý về một số điểm nổi bật trong các dự thảo luật; (iii) những giải pháp khả thi về hoàn thiện các quy định pháp luật, kỹ thuật lập pháp, sử dụng pháp luật hiệu quả ở quốc gia của người học hoặc (iv) đề xuất (góp ý) định hướng xây dựng, kiến tạo một chính phủ liêm chính - hiệu quả.

Trên cơ sở định nghĩa về DHDA và nghiên cứu về lý luận dạy học đại học, tác giả thấy rằng khi liên tưởng phương pháp này vào giảng dạy môn học Pháp luật và phát triển sẽ có một số đặc điểm như sau:

Thứ nhất, về định hướng công bố dự án: Chủ đề của dự án thiết lập trong môn học này phải bảo đảm một trong hai nội dung quan trọng là lý luận hoặc thực tiễn. Định hướng này nhằm thúc đẩy kết quả của sản phẩm dự án của người học bắt buộc phải có sự sáng tạo tri thức mới về đóng góp, xây dựng, hoàn thiện các quy định pháp luật hoặc giải pháp cho một hiện tượng, một vấn đề kinh tế - xã hội trong thực tiễn cần sự điều tiết của chính sách pháp luật hoặc sáng tạo, khai phá một lý luận về khoa học pháp lý.

Thứ hai, khởi tạo sự hứng thú của người học: Chủ đề dự án phải phù hợp với bối cảnh kinh tế - xã hội và năng lực của người học để có thể kích thích tối đa sự hứng thú làm chuyển hóa tích cực trong thái độ và tư duy tiếp cận của người học; nhằm tạo lập cho người học hệ nhận thức về giá trị lý luận hoặc giá trị thực tiễn mà dự án người học lựa chọn công bố mang lại cho xã hội và ngành khoa học pháp lý.

Thứ ba, phát huy cao độ khả năng tự học, tự nghiên cứu và tính tự lực của người học: Người học khi tham gia tích cực vào dự án của môn học sẽ phải phát huy khả năng tự học, tự nghiên cứu ở mức độ dường như là cao nhất để dự án có thể hoàn thành, đạt chất lượng để công bố và vượt qua quá trình phản biện đa chiều và tương đối khắt khe. Tự lực để tồn tại, vận động và phát triển trong các giai đoạn của quá trình tiếp thu chọn lọc, phối hợp kỹ năng và thực hiện dự án sẽ rèn luyện cho người học một khả năng liêm chính trong học thuật và làm việc ở tương lai.

Thứ tư, kiến thiết sự hành động: Trong một tư duy lý tưởng của phương pháp DHDA thì sự kết hợp giữa lý thuyết và thực hành, lý luận và thực tiễn, lên lớp học và tự học, tự nghiên cứu và khai phá tri thức; hoặc đơn thuần chỉ là sự tham khảo ý kiến, tiếp thu chọn lọc thông tin, phản biện từ các chuyên gia cũng sẽ huy động gần như tuyệt đối sự tham gia của các giác quan người học để gián tiếp hình thành những kỹ năng cần thiết.

Thứ năm, định hướng sản phẩm: Dự án hoàn thành phải là những sản phẩm hành động sẵn sàng được công bố, giới thiệu, vận dụng; đó có thể là sự kết hợp tri thức và kỹ năng của người học trên một hoặc nhiều lĩnh vực (phương diện) hoặc nhiều môn học pháp luật khác nhau. Đây là điều kiện tiên quyết để đánh giá hiệu quả của quá trình vận dụng DHDA vào môn học Pháp luật và phát triển.

Thứ sáu, bảo đảm tính phản biện trên cơ sở tự chủ, khả thi và linh hoạt: Khi các dự án hoàn thành được giới thiệu (công bố) phải trải qua quá trình phản biện ở nhiều mức độ khác nhau do người thực hiện dự án quyết định dựa trên tính khả thi. Người học có thể lựa chọn phản biện độc lập thông qua các tạp chí, tờ báo hoặc các nhà xuất bản chuyên ngành; phản biện từ các luật sư, chuyên gia am hiểu lĩnh vực chuyên môn; phản biện của các tổ chức hành nghề luật có uy tín; phản biện từ giảng viên phụ trách môn học hoặc các giảng viên khác được mời đến tham gia; phản biện từ người học khác trong lớp học để đánh giá về độ hoàn thiện của dự án.

Thứ bảy, thúc đẩy kỹ năng cộng tác làm việc nhóm: Môi trường tương tác và làm việc nhóm sẽ bảo đảm sự hỗ trợ lẫn nhau giữa nhựng người học - thành viên trong nhóm. Tính tự lực và đóng góp của từng thành viên dựa trên sự am hiểu các vấn đề khác nhau, không trùng lặp là tiền đề để tăng khả năng hoàn thành dự án cũng như việc thúc đẩy sản phẩm dự án được nâng cao tính hoàn thiện.

Các đặc điểm riêng biệt của phương pháp dạy học này chính là những ưu điểm vượt trội có khả năng tạo nên sự hứng thú cho người học và thành công cho môn học này.

Từ nghiên cứu phương pháp DHDA và nội dung cơ bản của môn học Pháp luật và pháp triển, tác giả nhận thấy quá trình thiết lập giảng dạy sẽ bao gồm các giai đoạn sau đây:

(1) Quyết định chủ đề: giai đoạn quan trọng thể hiện được bản chất của môn học và sự định hướng chuyên sâu của người giảng viên nhằm giúp người học nhận thức tập trung phạm vi các chủ đề của môn học để từ đó quyết định lựa chọn nội dung dự án mà mình dự định thực hiện. Các đối tượng của chủ đề nên được khuyến khích (nhưng không giới hạn) như: (i) vai trò và tầm quan trọng của pháp luật đối với sự phát triển quốc gia; (ii) quốc gia xây dựng, sử dụng pháp luật hiệu quả và tối ưu nhất; (iii) công tác và kỹ thuật lập pháp; (iv) phòng chống tham nhũng hiệu quả; (v) kiến tạo chính phủ số, chính phủ liêm chính, nền công vụ hiệu quả; (v) án lệ và các đạo luật thành văn; (vi) thẩm định một đạo luật tốt hoặc đánh giá, bình luận về dự thảo luật, nghị quyết, nghị định, thông tư; (vii) lý luận khoa học pháp lý.

(2) Sản phẩm dự kiến: hình thức và cấu trúc nội dung cơ bản của sản phẩm dự án dự kiến thực hiện và công bố phải được giảng viên quy định, hướng dẫn chi tiết và cụ thể để các sản phẩm công bố đạt giá trị về mặt lý luận hoặc học thực tiễn, bảo đảm sự thừa nhận rộng rãi của cộng đồng chứ không dừng lại ở sự thừa nhận của giảng viên hoặc lớp học. Một số gợi ý được tác giả đề xuất như sau: bài báo bình luận các vấn đề kinh tế - xã hội dưới góc nhìn chuyên sâu về pháp lý trên các tờ báo uy tín; bài viết nghiên cứu khoa học pháp lý đăng tải trên các tạp chí khoa học hoặc các hội thảo chuyên ngành luật; xây dựng dự thảo hoặc sửa đổi, bổ sung một văn bản pháp luật cụ thể để điều chỉnh một vấn đề xã hội đang quan tâm; báo cáo nghiên cứu kinh nghiệm và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả công tác lập pháp cho Việt Nam; báo cáo nghiên cứu kinh nghiệm phòng chống tham nhũng hiệu quả ở nhóm các quốc gia trong sạch trên thế giới (theo Tổ chức Minh bạch Quốc tế công bố Chỉ số nhận thức tham nhũng - CPI) để gợi ý kiến thiết một chính phủ liên chính; báo cáo nghiên cứu hoàn thiện chính phủ số hoặc nền công vụ hiệu quả ở Việt Nam; xây dựng dự thảo hoặc đề xuất án lệ theo quy định pháp luật Việt Nam; báo cáo đánh giá một đạo luật tốt hoặc chưa tốt ở Việt Nam; báo cáo đánh giá tác động của một đạo luật đến kinh tế - xã hội Việt Nam; bài viết chuyên sâu về lý một luận khoa học pháp lý hoặc về một giả thuyết, lý luận khoa học pháp lý mới.

(3) Thời gian thực hiện: thời gian thực hiện dự án bằng tổng thời gian giảng dạy môn học. Học viên sẽ tự thực hiện công bố sản phẩm dự án và lựa chọn hình thức công bố (dưới sự giới thiệu của giảng viên phụ trách môn học nếu xét thấy cần thiết). Trường hợp lựa chọn công bố tại lớp học thì thời gian công bố là 30 phút và quá trình phản biện thực hiện trong 30 phút vào 01 ngày ấn định (có thể là ngày thi kết thúc môn học theo ấn định của trường dưới hình thức trực tiếp hoặc trực tuyến). Giảng viên có thể sẽ phải linh hoạt trong sắp xếp thời gian và thời hạn công bố sản phẩm dự án để đạt hiệu quả cao nhất trong môn học.

(4) Tiêu chí đánh giá: Việc xây dựng và công khai các tiêu chí đánh giá sao cho khoa học là một nhiệm vụ rất quan trọng của người giảng viên nhằm bảo đảm sự khách quan và công bằng trong đánh giá kết quả môn học; từ đó sẽ gián tiếp kích thích tính cố gắng và tự lực của người học và nâng cao giá trị của môn học, cũng như các sản phẩm dự án được công bố. Những tiêu chí cơ bản không thể thiếu cho việc đánh giá đó là: mức độ đóng góp của sản phẩm dự án đối với lý luận hoặc thực tiễn; mức độ hoàn thiện dự án (thể hiện qua hình thức trình bày, sử dụng các phương pháp nghiên cứu; có dẫn chiếu, so sánh với pháp luật nước ngoài; có áp dụng giải quyết các vụ việc cụ thể; sự chuyên nghiệp trong tham khảo ý kiến chuyên gia hoặc thực hiện thống kê xã hội); mức độ uy tín (thể hiện qua phương thức công bố hoặc bên phản biện độc lập xác nhận, đánh giá là chuyên gia, tổ chức hành nghề luật có sức ảnh hưởng về chuyên môn đáng kể đối với chủ đề - dự án thực hiện được phản biện, đánh giá); mức độ am hiểu chủ đề và dự án (thể hiện qua khả năng tổ chức, trình bày công bố sản phẩm dự án; tranh luận, trả lời các câu hỏi phản biện); kết quả phản biện thể hiện qua điểm số của các giảng viên.

(5) Phân chia nhóm dự án, xây dựng kế hoạch và thực hiện dự án: công việc này có thể do giảng viên chủ động phân chia hoặc học viên tự phân chia nhóm theo số lượng nhất định tùy thuộc vào số lượng học viên lớp học. Mỗi nhóm sẽ phải tự lựa chọn chủ đề, sản phẩm dự án và hình thức công bố dự kiến để xây dựng kế hoạch làm việc và phân công thành viên sao cho phù hợp (học viên thực hiện theo sự phân công trong bảng kế hoạch chi tiết). Nhóm trưởng sẽ thay mặt nhóm để gửi kế hoạch làm việc và phân công thành viên chi tiết cho giảng viên, cũng như tương tác với giảng viên trong quá trình thực hiện dự án để nhận được sự hỗ trợ, điều chỉnh, góp ý cho dự án của mình được hoàn thiện hơn. Nhóm dự án cũng có thể thực hiện tham khảo ý chuyên gia hoặc thực hiện điều tra thống kê xã hội (nếu xét thấy cần thiết cho dự án của mình). Hành động phối hợp nhiều kỹ năng khác nhau hoặc vận dụng kiến thức bổ trợ từ các lĩnh vực khác nên được khuyến khích để tăng mức độ hoàn thiện của sản phẩm dự án thực hiện.

(6) Công bố sản phẩm dự án và phản biện khoa học: một số hình thức công bố được gợi ý để nhóm dự án có thể lựa chọn công bố sản phẩm dự án mà mình thực hiện sao cho phù hợp với khả năng và năng lực của nhóm mình như: tại lớp học; các hội thảo khoa học chuyên ngành luật; các chuyên mục pháp luật của tờ báo uy tín; tạp chí khoa học chuyên ngành luật; chuyên gia pháp lý hoặc tổ chức hành nghề luật có uy tín hoặc tầm ảnh hưởng về chuyên môn đối với nội dung dự án thực hiện.

Hình thức công bố sẽ quyết định đến phương thức thực hiện phản biện khoa học đối với dự án thực hiện công bố. Sản phẩm công bố có thể được thực hiện phản biện bởi giảng viên phụ trách, giảng viên hoặc chuyên gia được mời tham gia phản biện, học viên của lớp học. Sản phẩm dự án đã được công bố và đăng tải trên tạp chí khoa học chuyên ngành luật hoặc hội thảo chuyên ngành không cần phải thực hiện phản biện. Các sản phẩm dự án được công bố trên chuyên mục pháp luật của các tờ báo uy tín hoặc đánh giá độc lập của chuyên gia, tổ chức hành nghề luật vẫn có thể phải thực hiện phản biện tại lớp học theo quyết định của giảng viên hoặc đề xuất của nhóm thực hiện dự án.

(7) Đánh giá kết quả và rút kinh nghiệm: khi hoàn thành công bố sản phẩm dự án, nhóm tự thực hiện đánh giá đóng góp của các thành viên trong quá trình thực hiện dự án và nhóm trưởng phải gửi đến giảng viên phụ trách (thành viên nhóm có thể gửi ý kiến trao đổi riêng với giảng viên nếu nhận thấy việc đánh giá này là chưa khách quan và ý kiến phản hồi của giảng viên trên cơ sở tham thảo ý kiến của các thành viên còn lại trong nhóm là quyết định cuối cùng). Giảng viên thực hiện đánh giá sản phẩm dự án dựa trên các tiêu chí đề ra kết hợp với tự đánh giá thành viên trong nhóm để quyết định điểm số của từng học viên.

Kết thúc môn học, đại diện các nhóm dự án chia sẻ về kết quả, trải nghiệm, khó khăn và kinh nghiệm khi thực hiện dự án của mình cùng với giảng viên phụ trách và học viên trong lớp học. Hành động này sẽ thể hiện được sự gắn kết của các thành viên trong lớp học và tạo dựng giá trị dấu ấn về dự án khoa học pháp lý (tạm gọi là đầu tiên) của người học.

Những giá trị đạt được khi vận dụng phương pháp DHDA đối với giảng dạy các môn học pháp luật ở bậc cao học

Phương pháp DHDA giúp những người hành nghề luật trong tương lai phát triển kiến thức và kỹ năng đa chiều: kỹ năng phối hợp, kỹ năng thiết kế và quản lý dự án, kỹ năng giải quyết vấn đề, và tư duy học tập suốt đời(5). Người học sẽ được vận dụng tối đa các kỹ năng, tư duy pháp lý và khả năng khai phá của mình thông qua việc chấp nhận thử thách cao hơn so với phương pháp dạy học truyền thống như cách mà chuyên gia pháp lý, luật sư, thẩm phán… trong tương lai phải đối mặt và giải quyết. Bởi vì DHDA đề cao cách học hơn là cách dạy, khả năng vận dụng kiến thức và kỹ năng giải quyết vấn đề hơn là chỉ thụ động đón nhận sự truyền đạt kiến thức chuyên ngành, môi trường làm việc nhóm được khuyến khích hơn là một cá nhân tự hành động. Vì vậy, tư duy người học sẽ được đổi mới, sẵn sàng chấp nhận thử thách và sự phản biện đa chiều hơn là chỉ chú trọng vào việc một mình đi tìm kết quả đúng cho một bài tập kết môn. Mặc dù, trong DHDA người học giữ vai trò trung tâm nhưng việc gợi mở, hỗ trợ, định hướng và cung cấp kỹ năng cần thiết của người giảng viên vẫn đóng vai trò quan trọng quyết định ít nhiều đến hiệu quả, sự thành công của môn học. Dưới sự hỗ trợ của giảng viên, người học có thể được trợ giúp về giải pháp và động lực để vượt qua những thách thức, khó khăn trong quá trình thực hiện dự án(6).

Để làm sinh động hóa giá trị lợi ích mà người học có được từ DHDA, tác giả lấy một ví dụ làm mô phỏng như sau: nhóm học viên cao học chuyên ngành luật kinh tế tại trường đại học X đã lựa chọn chủ đề thao túng giá cổ phiếu trên thị trường chứng khoán tập trung Việt Nam để thực hiện dự án với sản phẩm dự kiến là đưa ra giải pháp để Chính phủ có thể phát hiện, ngăn chặn, kiểm soát và xử lý hiệu quả đối với hành vi này. Thách thức đặt ra đối nhóm học viên này là không hề nhỏ khi mà đây là một hành vi rất phức tạp và khó nhân diện nếu chỉ trên nền tảng kiến thức pháp luật đã có. Mặc dù trong quá trình thực hiện dự án nhiều lần họ đón nhận sự thất bại và dường như không thể tiếp cận hành vi này, nhưng cuối cùng bằng một kế hoạch dự án được xây dựng chỉn chu, khả năng tự nghiên cứu hành vi này dưới góc độ kinh tế luật cộng với kỹ năng phối hợp với chuyên gia trong lĩnh vực công nghệ thông tin, ngân hàng và chứng khoán (bằng sự gợi ý và giới thiệu của giảng viên), họ đã nhận ra mấu chốt giải quyết vấn đề nằm ở dòng tiền thao túng và dấu vết thao túng từ các tài khoản ngân hàng có tính liên kết. Kết quả này đã giúp họ nhận ra hành vi thao túng như là một cá thể sống trên thị trường và dòng tiền thao túng chính là mạch máu của cá thể sống này; nếu kiểm soát chặt chẽ để chặn được dòng tiền thao túng thì sẽ ngăn chặn triệt để hành vi này thay vì kiểm soát trên bề mặt hành vi vi phạm pháp luật như lý luận hiện nay. Từ đó, họ đã hoàn thành bài viết của mình và công bố trên tạp chí khoa học pháp lý uy tín thể một sự đóng góp kiến thiết một thị trường chứng khoán Việt Nam trong sạch và phát triển bền vững trong tương lai. Có thể rằng, những kiến nghị và giải pháp của họ chưa chắc được đánh giá cao, nhưng tựu trung lại họ đã vượt qua thử thách để có được kỹ năng phối hợp, kỹ năng tự học, kỹ năng giải quyết vấn đề và kỹ năng thiết kế, quản lý dự án.

Việc áp dụng phương pháp DHDA vào một số môn học pháp luật trong chương trình đào tạo cao học luật của các cơ sở đào tạo luật tại Việt Nam hiện nay

Trên cơ sở kết quả nghiên cứu và trình bày về nội dung cơ bản của phương pháp DHDA và thiết lập phương pháp này điển hình trong giảng dạy môn học Pháp luật và phát triển của Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, tác giả thiết nghĩ phương pháp này còn có thể tương thích và nên được áp dụng (hoặc kết hợp) trong giảng dạy các môn học pháp luật dưới đây:

(1) Pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại: môn học này dường như có mức độ tương thích khá cao với phương pháp DHDA khi mà việc thiết lập các dự án mang giá trị lý luận hoặc thực tiễn không quá khó để người học có thể thực hiện và hiệu quả mang lại người học được trải nghiệm, nghiên cứu và vận dụng tốt hơn. Tác giá khuyến nghị nên lựa chọn chủ đề dự án theo ba hướng tiếp cận trọng tâm là: (i) đề xuất dự thảo hoặc bình luận án lệ về tranh chấp kinh doanh thương mại, (ii) đánh giá pháp lý hoặc tham gia mô phỏng một vụ việc tranh chấp kinh doanh thương mại điển hình và (iii) bài viết về một điều khoản điển hình tranh chấp trong hợp đồng hoặc bình luận - kiến nghị sửa đổi một quy định pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại dựa trên một vụ việc cụ thể. Việc áp dụng phương pháp DHDA và định hướng chủ đề tương tự như trên cũng có thể vận dụng đối với môn học Pháp luật về hợp đồng nhưng cần bổ sung thêm một định hướng chủ đề quan trọng không thể thiếu cho môn học này là tư vấn - đàm phán - soạn thảo hợp đồng mô phỏng bằng vụ việc điển hình trên thực tế (nguồn tư liệu rõ ràng) hoặc tình huống giả định.

(2) Pháp luật và chính sách công: bởi vì tính chất gần gũi của nội dung môn học này với môn học Pháp luật và phát triển nên việc áp dụng gần như có định hướng tương đương với nội dung mà tác giả đã trình bày các phần trên.

(3) Luật so sánh: hiện nay môn học này được xem là trọng tâm khi việc đào tạo luật đang chịu sự chi phối và ảnh hưởng đáng kể từ bối kinh tế cảnh hội nhập toàn cầu. Bởi lẽ, khả năng hiểu biết, so sánh với pháp luật nước ngoài là điều không thể thiếu của người học luật, đặc biệt là đối tượng người học có định hướng nghiên cứu hoặc làm việc ở các môi trường có yếu tố nước ngoài hoặc có khả năng sử dụng pháp luật nước ngoài. Do đó, khi áp dụng phương pháp DHDA vào môn học này, tác giả chỉ kiến nghị cho định hướng với một chủ đề duy nhất là dự án so sánh với pháp luật nước ngoài về một quy định pháp luật trong lĩnh vực cụ thể hoặc trình bày và gợi ý, đề xuất áp dụng một chế định, quy định của pháp luật nước ngoài tại Việt Nam.

(4) Pháp luật về mua bán và sáp nhập công ty: việc áp dụng DHDA đối với môn học này nên được kết hợp với việc xây dựng tình huống giả lập mô phỏng dựa trên các thương vụ mua bán và sáp nhập có thật trên thực tế để việc áp dụng DHDA có chiều sâu nghiên cứu và vận dụng pháp luật có liên quan. Tuy nhiên, tùy vào mức độ chấp nhận áp dụng thử nghiệm DHDA mà giảng viên hoàn toàn có thể cho phép người học tự giả định mô phỏng về các thương vụ mua bán, sáp nhập các công ty đang hoạt động để thực hiện dự án về một thương vụ mua bán, sáp nhập để tăng sự hứng thú cho người học, thúc đẩy khả năng tư duy logic và tự nghiên cứu.

DHDA là phương pháp dạy học đại học còn khá mới mẻ và chưa phổ biến ở các cơ sở đào tạo luật tại Việt Nam. Với tư duy dạy học đại học cổ điển, đa phần các nhà giáo dục học đều theo khuynh hướng ủng hộ vận dụng phương pháp này ở các ngành khoa học - kỹ thuật mang nặng tính thực hành, hơn là giảng dạy ở ngành luật - thuộc nhóm khoa học xã hội và nhân văn. Tuy nhiên, trên thực tế cho thấy nếu nghiên cứu và vận dụng phương pháp này phù hợp sẽ mang lại những hiệu quả tích cực cho một số môn học ở bậc cao học luật mà không chỉ dừng lại ở môn học Pháp luật và phát triển.

Kích thích khả năng sáng tạo và tự lực, nâng cao tư duy nghiên cứu và vận dụng của người học để giải quyết các vấn đề thực tiễn hoặc khai phá lý luận thông qua các sản phẩm học thuật được đề cao giá trị là những lợi ích không thể bàn cải mà phương pháp dạy học này mang đến cho người học.

Với việc lấy người học làm trọng tâm để xây dựng, phát triển dự án và sáng tạo tri thức mới, người giảng viên phụ trách môn học chỉ đóng vai trò là người cung cấp những kiến thức cơ sở, gợi mở chủ đề dự án, cung cấp kỹ năng nghiên cứu, mô tả cách thức giải quyết vấn đề thực tiễn, hướng dẫn cách thức triển khai kế hoạch làm việc nhóm thực hiện dự án; bảo đảm sự liên kết, tương tác, chia sẻ và báo cáo tiến độ thời gian thực hiện dự án giữa giảng viên và người học chính là yếu tố tiên quyết để phương pháp DHDA đạt hiệu quả cao nhất. Mong rằng sẽ ít nhiều gợi mở cho giảng viên luật thêm một phương pháp dạy học thú vị và hiệu quả cho một số môn học trong chương trình đào tạo cao học luật tại các cơ sở đào tạo ngành luật ở Việt Nam. Dưới góc độ của người học, hy vọng phương pháp DHDA sẽ mang đến cho họ một sự nhận thức về giá trị và một sự cảm nhận về trách nhiệm của nghiên cứu khoa học pháp lý đối với việc đóng góp vào sự phát triển ở quốc gia của họ. Người học sẽ tự nhìn nhận tầm quan trọng của pháp luật đối với sự phát triển của một quốc gia theo thế giới quan của họ qua môn học đó.

(1)       Lê Chi Lan, Tập bài giảng Lý luận dạy học đại học - Chương trình Đào tạo nghiệp vụ sư phạm, Trường Đại học Sài Gòn, 2022.

(2)       Trần Thị Hoàng Yến, Vận dụng dạy học theo dự án trong môn Xác suất thống kê ở trường đại học (chuyên ngành kinh tế - kỹ thuật), Luận án Tiến sĩ Giáo dục học, Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam, 2012, tr. 7.

(3)       Mai Hải Đăng, Phương pháp Dạy học dự án thúc đẩy động cơ và thái độ học tập của sinh viên, Tạp chí Luật học - Đại học Quốc gia Hà Nội), tập 37, số 01 (2021), tr. 34.

(4)       Đề cương môn học Luật và phát triển, Khoa Luật - Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, https://docs.google. com/document/d/1eJEZBfPAG_F1ObRWKNqeHrnlWp5rWW0H3SD8ozNNSmo/mobilebasic), ngày 12/02/2023.

(5)       Carpenter, A., Developing ‘NextGen’Lawyers through Project-Based Learning, Modernizing Legal Education, 2020, tr. 126.

(6)       Xem thêm Project-based learning for the enhancement of self-regulated learning and creativity in a course of ESP, https://www. researchgate.net/profile/Nijole-Burksaitiene/publication/265594455_Project-based_learning_for_the_enhancement_of_self- regulated_learning_and_creativity_in_a_course_of_ESP/links/5915f3b30f7e9b70f49db23a/Project-based-learning-for-the- enhancement-of-self-regulated-learning-and-creativity-in-a-course-of-ESP.pdf, ngày 12/02/2023.

 NCS.THS QUÁCH MINH TRÍ

Công ty Luật TNHH Passio Lawyers

Xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa: Những yếu tố tác động và vấn đề đặt ra

Nguyễn Mỹ Linh