Ảnh minh họa.
Hội thẩm nhân dân ở Việt Nam là một chức danh tư pháp, đại diện cho nhân dân trong hoạt động tố tụng. Theo đó, hội thẩm nhân dân do hội đồng nhân dân địa phương bầu ra theo nhiệm kỳ để tham gia xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự, dân sự, hành chính theo quy định của pháp luật. Hội thẩm cùng với thẩm phán trực tiếp xét xử, đưa ra các phán quyết của tòa án theo nguyên tắc bình đẳng, quyết định theo đa số. Hội thẩm nhân dân còn là người thường xuyên gắn bó với nhân dân, tham gia giám sát hoạt động tư pháp, góp phần tuyên truyền pháp luật và là nhịp cầu nối giữa tòa án và người dân.
Trải qua hơn 70 năm áp dụng thực hiện, bên cạnh những ưu điểm, kết quả đạt được, chế định hội thẩm nhân dân cũng bộc lộ không ít hạn chế, khiếm khuyết. Có thể nêu ra một số thực trạng và nguyên nhân sau:
Thứ nhất, mặc dù theo quy định hiện hành thì hội thẩm tham gia tiến hành tố tụng, thay vì chỉ tham gia xét xử. Nhưng vai trò của hội thẩm ở các hoạt động tố tụng khác ngoài xét xử vẫn chưa được làm rõ. Thậm chí, ngay trong quá trình xét xử, có khi nguyên tắc “độc lập xét xử” của tòa án còn bị vi phạm, bị can thiệp thô bạo từ bên ngoài khiến thẩm phán và hội thẩm xét xử không khách quan, ra bản án không phù hợp với quy định của pháp luật, gây tác động xấu đến xã hội.
Thực tiễn cho thấy, tình trạng “trao đổi đường lối xét xử”, “báo cáo án”, “thỉnh thị án”; hội thẩm không thực sự chú tâm đến quá trình nghiên cứu hồ sơ, xét xử, “trông chờ” theo ý kiến của thẩm phán trong quá trình xét xử vẫn diễn ra. Tuy pháp luật đã có những quy định nhằm hạn chế sự “dẫn dắt”, “áp đặt” của thẩm phán, nhưng thực tế hầu hết trong các vụ án hình sự, hội thẩm gần như “phó thác" trách nhiệm cho thẩm phán. Khi tham gia xét xử, vai trò của không ít hội thẩm chưa được thể hiện rõ nét và đúng nghĩa là người đại diện của quần chúng nhân dân.
Thứ hai, theo quy định, khi được phân công xét xử, hội thẩm ngang quyền với thẩm phán trong quá trình tố tụng, nhưng pháp luật không quy định cụ thể hội thẩm phải nghiên cứu hồ sơ vụ án thời gian là bao nhiêu, trách nhiệm cụ thể của hội thẩm trong việc tuân thủ quy định này như thế nào,… Do đó, khả năng xem xét, đánh giá một cách đầy đủ, toàn diện về vụ án, nhất là trong việc lượng hình, quyết định hình phạt, trách nhiệm dân sự, bồi thường theo pháp luật trong vụ án hình sự rất khó bảo đảm. Chưa kể, đối với các vụ án phức tạp, phải chịu áp lực lớn từ bên ngoài còn khiến hội thẩm e ngại, sợ trách nhiệm, thiếu tự tin khi đưa ra quan điểm riêng của mình.
Thứ ba, trong khi kiến thức pháp luật, kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ, điều kiện làm việc giữa hội thẩm và thẩm phán vẫn còn khác nhau quá lớn thì việc thực hiện nguyên tắc “ngang quyền” và quyết định theo đa số của hội thẩm khi tham gia xét xử nhiều khi chỉ mang tính hình thức.
Thứ tư, hội thẩm tham gia vào hoạt động xét xử của tòa án nói chung phần lớn trong số họ chưa thể hiện được trách nhiệm nặng nề mà người dân trao cho. Lý do bởi, hội thẩm làm nhiệm vụ xét xử chỉ là kiêm nhiệm, chế độ chính sách dành cho họ chưa thỏa đáng (90.000 đồng/1 ngày làm nhiệm vụ), cơ chế bảo vệ đối với họ và người thân của họ chưa rõ ràng,… trong khi họ phải đối mặt với trách nhiệm công vụ, chịu sự tác động, áp lực từ bên ngoài khi làm nhiệm vụ hội thẩm…
Thứ năm, quy định về tiêu chuẩn, điều kiện trở thành hội thẩm nhân dân; công tác quản lý, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn; trách nhiệm pháp lý đối với hội thẩm hiện vẫn còn chung chung, chưa đầy đủ, rõ ràng. Thậm chí theo quy định thì hội thẩm có thể bị xử phạt tù đến 15 năm nếu ra bản án trái pháp luật, nhưng ngay với biện pháp chế tài được xem là nghiêm khắc này cũng rất khó áp dụng. Bởi, theo nguyên tắc “tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số”, với bản án trái pháp luật, giả xử có hội thẩm thuộc đối tượng bị xem xét xử lý cũng rất khó vì bản án đó còn có sự tham gia, giám sát của các tổ chức, cá nhân khác và hội thẩm cũng viện ra các lý do khác nhau để thoái thác, trốn tránh trách nhiệm.
Ngoài ra, đến nay pháp luật chưa có quy định bắt buộc hội thẩm phải có thời gian nghiên cứu vụ án là bao nhiêu, việc nắm bắt nội dung vụ án và các quy định liên quan như thế nào mới được tham gia xét xử. Chưa kể, trong trường hợp hội thẩm từ chối vì lý do nào đó hoặc bị thay đổi hội thẩm (dù là dự khuyết) khi gần đến thời điểm mở phiên tòa hoặc tại phiên tòa cũng sẽ làm ảnh hưởng đến chất lượng xét xử. Từ đó dẫn đến thực tế là tại nhiều phiên tòa, vai trò của hội thẩm khá mờ nhạt; có hội thẩm tham gia xét xử hàng chục vụ án, nhưng cũng có hội thẩm chỉ tham gia một vài vụ án mỗi năm; hầu hết hội thẩm đều đồng ý với quan điểm của thẩm phán trong hội đồng xét xử.
Có thể thấy, trong trường hợp vụ án không quá phức tạp, hội thẩm tham gia từ đầu và với tinh thần trách nhiệm cao, khi đó vụ án sẽ diễn ra thuận lợi với chất lượng xét xử bảo đảm. Tuy nhiên, trong các vụ án phức tạp, hội thẩm không thực sự dành tâm huyết, thời gian chuẩn bị cho việc nghiên cứu về vụ án thì việc xét xử sẽ rất khó khăn, thậm chí quá trình xét xử vụ án sẽ bị ảnh hưởng, khó đạt chất lượng. Bởi, không giống như chế độ bồi thẩm đoàn của nhiều nước là các bồi thẩm viên chỉ xem xét, biểu quyết vấn đề cơ bản của vụ án, còn việc áp dụng điều luật do thẩm phán chuyên nghiệp thực hiện, trong khi đó ở nước ta hội thẩm cùng thẩm phán trực tiếp xét xử từ đầu đến khi kết thúc vụ án và quyết định các vấn đề liên quan.
Do những hạn chế từ hội thẩm nhân dân nên khi tham gia xét xử, vai trò của hội thẩm chưa được thể hiện rõ và đúng nghĩa đại diện của các giới, các ngành, các tổ chức xã hội, nghề nghiệp để phản ánh một cách khách quan suy nghĩ, tâm tư của quần chúng nhân dân, chứ chưa nói đến góc độ của một luật gia thuần túy. Dù biết rằng hội thẩm chỉ tham gia hội đồng xét xử tại tòa án cấp sơ thẩm, nhưng một bản án, quyết định được tuyên nếu không rõ ràng, thiếu khách quan thì chắc chắn sẽ ảnh hưởng lớn đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, họ vừa phải mất thời gian đeo đuổi vụ án theo vòng quay tố tụng, đó là chưa kể khi bản án đó nếu bị hủy giao lại cấp sơ thẩm xét xử lại từ đầu, vừa phải bỏ ra những khoản chi phí cũng không nhỏ, nhưng quan trọng hơn đó là niềm tin của người dân vào tòa án và công lý chắc chắn sẽ bị giảm sút.
Lịch sử hoạt động tố tụng ở Việt Nam đến nay gần như chưa có hội thẩm nào phải chịu trách nhiệm pháp lý liên quan đến hoạt động xét xử. Thậm chí, có những trường hợp sai phạm do công tác xét xử gây ra rất nghiêm trọng, nhưng chỉ có thẩm phán phải chịu trách nhiệm, còn hội thẩm vô can. Mặc dù pháp luật đã có những bổ sung, điều chỉnh, nhưng nhiều quy định vẫn chung chung, rất khó xác định về sai phạm (nếu có) để quy trách nhiệm đối với hội thẩm khi tham gia xét xử. Có lẽ vậy mà Báo cáo sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 của Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương đã nhận định “Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về tổ chức, hoạt động của các cơ quan tư pháp chưa được xây dựng hoàn chỉnh, chưa tạo cơ sở pháp lý đầy đủ; chất lượng cán bộ tư pháp chưa đồng đều, còn một bộ phận không nhỏ cán bộ yếu kém cả về chuyên môn nghiệp vụ và phẩm chất chính trị, đạo đức; chưa nêu cao tinh thần trách nhiệm trong công việc, ý thức tôn trọng, chấp hành pháp luật chưa cao; thiếu khách quan, vô tư, làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với các cơ quan tư pháp”.
Từ thực tiễn mô hình tổ chức xét xử và kết quả hoạt động tư pháp ở nước ta vừa qua và trong bối cảnh hội nhập như hiện nay đang đặt ra những yêu cầu mới, đòi hỏi cần tiếp tục đổi mới và hoàn thiện về lĩnh vực tư pháp nói chung và công tác của tòa án nói riêng. Trong đó, cần nghiêm túc đánh giá một cách toàn diện, đầy đủ về lý luận và thực tiễn đối với chế định hội thẩm nhân dân. Đồng thời tập trung nghiên cứu, sửa đổi các quy định của pháp luật để vai trò đại diện nhân dân trong hoạt động tố tụng thực sự phát huy hiệu quả, đáp ứng được các yêu cầu đặt ra trong công tác xét xử, bảo đảm dân chủ, công bằng và công lý.
BẢO HƯƠNG
Tạo lập môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp