Tại dự thảo Luật Thuế thu nhập cá nhân (thay thế) đang được lấy ý kiến, Bộ Tài chính đã đề xuất áp dụng thuế suất 0,1% trên giá trị chuyển nhượng của từng lần giao dịch tài sản số, tài sản mã hóa, tương ứng như đang áp dụng với chứng khoán. Theo đó, các giao dịch mua bán tài sản số sẽ bị đánh thuế nếu được thực hiện trên sàn giao dịch có quản lý minh bạch, công khai giá và hoạt động thường xuyên.
Luật Công nghiệp công nghệ số được Quốc hội ban hành và có hiệu lực từ ngày 01/01/2026 sẽ lần đầu quy định tài sản số là tài sản theo pháp luật dân sự hiện hành. Đây cũng là cơ sở để cơ quan thuế áp dụng chính sách thuế tương ứng.
Theo quy định tại Điều 46, Điều 47 Luật Công nghiệp công nghệ số năm 2025, tài sản số là tài sản theo quy định của Bộ luật Dân sự, được thể hiện dưới dạng dữ liệu số, được tạo lập, phát hành, lưu trữ, chuyển giao và xác thực bởi công nghệ số trên môi trường điện tử.
Tài sản số được phân loại theo một hoặc một số tiêu chí sau: Mục đích sử dụng; Công nghệ; Tiêu chí khác.
Tài sản số bao gồm:
- Tài sản ảo trên môi trường điện tử là một loại tài sản số có thể được dùng cho mục đích trao đổi hoặc đầu tư. Tài sản ảo không bao gồm chứng khoán, các dạng số của tiền pháp định và tài sản tài chính khác theo quy định của pháp luật về dân sự; tài chính;
- Tài sản mã hóa là một loại tài sản số sử dụng công nghệ mã hóa hoặc công nghệ số có chức năng tương tự để xác thực đối với tài sản trong quá trình tạo lập, phát hành, lưu trữ, chuyển giao. Tài sản mã hóa không bao gồm chứng khoán, các dạng số của tiền pháp định và tài sản tài chính khác theo quy định của pháp luật về dân sự; tài chính;
- Tài sản số khác.
Bên cạnh đó, khi tài sản số được kinh doanh, mua bán như một tài sản thì sẽ bị thu các loại thuế theo quy định, như thuế giá trị gia tăng (VAT), thu nhập doanh nghiệp, thu nhập cá nhân,...

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.
Dưới góc độ pháp lý, Luật sư Nguyễn Thanh Hà, Chủ tịch Công ty luật SB LAW cho biết: Việc đánh thuế tài sản số giúp tăng cường sự quản lý của Nhà nước, kiểm soát các hoạt động liên quan đến tài sản số, phòng chống rửa tiền, tài trợ khủng bố và các hoạt động bất hợp pháp khác.
"Về mức thuế suất 0,1% trên giá trị chuyển nhượng, tôi cho rằng mức thuế suất cố định trên giá trị chuyển nhượng của từng lần giao dịch, tương tự chứng khoán, có ưu điểm là đơn giản, dễ tính toán và dễ thực hiện cả đối với người nộp thuế và cơ quan quản lý thuế. Điều này giúp giảm thiểu chi phí hành chính, tạo thuận lợi cho các giao dịch. Ngoài ra, mức thuế suất 0,1% được xem là tương đối thấp, không gây cản trở quá mức cho sự phát triển của thị trường này. Hơn nữa, việc áp dụng thuế suất trên giá trị chuyển nhượng từng lần có thể hạn chế tình trạng khai báo sai thu nhập để trốn thuế, vì thu nhập được tính dựa trên giá trị giao dịch thực tế", Luật sư Hà đánh giá.
Phân tích về những thách thức khi thực hiện đánh thuế tài sản số, Luật sư Nguyễn Thanh Hà cho rằng một trong những thách thức lớn nhất khi đánh thuế tài sản số là vấn đề xác định danh tính của người thực hiện giao dịch. Giao dịch tiền số thường được thực hiện qua các ví điện tử phi tập trung (DeFi), không yêu cầu cung cấp thông tin cá nhân, và có thể thực hiện xuyên biên giới.
Điều này khiến cơ quan thuế gặp rất nhiều khó khăn trong việc truy vết dòng tiền, xác định chủ thể nộp thuế, cũng như kiểm tra tính trung thực trong khai báo. Không giống như thị trường chứng khoán có các công ty chứng khoán, sàn giao dịch trong nước đóng vai trò trung gian và khấu trừ thuế tại nguồn, giao dịch tài sản số lại thiếu vắng cơ chế này.
Ngoài ra, giá trị của tài sản số biến động theo thời gian thực và có thể thay đổi chỉ trong vài phút hoặc vài giây. Việc tính thuế theo giá trị chuyển nhượng từng lần giao dịch đòi hỏi phải có hệ thống giám sát và ghi nhận dữ liệu tức thời, chính xác.
Hơn nữa, không phải tất cả các hoạt động liên quan đến tài sản số đều là “chuyển nhượng” theo nghĩa truyền thống. Ví dụ, các hoạt động như staking, lending, yield farming, mua bán NFT, hoặc giao dịch qua sàn phi tập trung… đều có thể phát sinh thu nhập nhưng lại không dễ dàng xác định giá trị giao dịch thực tế hoặc thời điểm phát sinh nghĩa vụ thuế.
Hiện nay, Việt Nam vẫn chưa có cơ sở pháp lý đầy đủ để công nhận tiền mã hóa là một loại tài sản hợp pháp. Điều này dẫn đến sự thiếu nhất quán nếu đồng thời vừa không công nhận quyền sở hữu nhưng lại đánh thuế trên giao dịch tài sản đó. Chưa kể, hệ thống giám sát, kiểm tra và thu thuế đối với tài sản số gần như chưa được thiết lập.
Nếu không có công cụ công nghệ phù hợp, việc thu thuế sẽ khó khả thi. Chưa kể, điều này có nguy cơ tạo ra gánh nặng tuân thủ cho nhà đầu tư chân chính mà vẫn không kiểm soát được các hành vi trốn tránh nghĩa vụ thuế từ các tổ chức/cá nhân sử dụng nền tảng quốc tế hoặc giao dịch ẩn danh.
Nếu thiết kế chính sách thuế chưa hợp lý, quá nặng về thu mà không đi kèm chính sách quản lý và khuyến khích phát triển, nhà đầu tư có thể lựa chọn giao dịch qua các nền tảng quốc tế không bị kiểm soát bởi pháp luật Việt Nam. Việc này sẽ khiến dòng vốn chảy ra nước ngoài, làm giảm hiệu quả thu thuế.
Kiến nghị một số giải pháp nhằm đảm bảo hiệu quả thực thi đối với đề xuất này, theo Luật sư Nguyễn Thanh Hà, về khía cạnh pháp lý và quản lý, thay vì chỉ tập trung vào địa điểm của sàn giao dịch, cần áp dụng nguyên tắc đánh thuế dựa trên nơi cư trú của người nộp thuế. Tức là, dù người Việt Nam giao dịch trên sàn nước ngoài, nếu họ là đối tượng cư trú thuế của Việt Nam và phát sinh thu nhập chịu thuế, họ vẫn có nghĩa vụ khai báo và nộp thuế theo quy định của pháp luật Việt Nam. Điều này đòi hỏi quy định rõ ràng về nghĩa vụ khai báo thuế của cá nhân đối với thu nhập phát sinh từ nguồn nước ngoài (trong trường hợp này là từ giao dịch tài sản số trên sàn quốc tế).
Đồng thời, cần đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục để người dân nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật thuế; xây dựng hệ thống kê khai thuế điện tử thân thiện, dễ sử dụng; xem xét quy định trách nhiệm của các ngân hàng, tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán trung gian trong việc cung cấp thông tin giao dịch liên quan đến các khoản tiền chuyển vào/ra các sàn giao dịch tài sản số nước ngoài… Tuy nhiên, việc này cần cân nhắc kỹ lưỡng để đảm bảo quyền riêng tư của người dùng và không gây cản trở các giao dịch hợp pháp.
Về công nghệ, cần thiết phát triển các công cụ phần mềm giúp cơ quan thuế theo dõi và đối chiếu thông tin về các ví điện tử, địa chỉ ví công khai để ước tính thu nhập; hợp tác với các công ty chuyên về phân tích blockchain để có được thông tin về các giao dịch lớn, các địa chỉ ví liên quan đến các hoạt động đáng ngờ hoặc các cá nhân có hoạt động giao dịch lớn.
Việt Nam cũng cần tích cực đàm phán và ký kết các hiệp định tránh đánh thuế hai lần (DTAAs) và đặc biệt là các thỏa thuận trao đổi thông tin thuế (TIEAs) với những quốc gia nơi sàn giao dịch tài sản số lớn đặt trụ sở hoặc có nhiều người dùng Việt Nam. Điều này sẽ cho phép cơ quan thuế Việt Nam yêu cầu thông tin về các giao dịch của công dân Việt Nam trên sàn nước ngoài.
Trong tương lai, khi Việt Nam có vị thế pháp lý rõ ràng hơn về tài sản số, có thể xem xét yêu cầu các sàn giao dịch quốc tế phải hợp tác trong việc cung cấp dữ liệu giao dịch hoặc thậm chí có văn phòng đại diện tại Việt Nam để thực hiện những nghĩa vụ liên quan đến thuế. Tuy nhiên, điều này đòi hỏi sự đàm phán và thống nhất ở cấp độ quốc tế.

