Sửa Luật Thi hành án hình sự: Mở rộng phạm vi điều chỉnh là phù hợp
Góp ý vào dự thảo Luật Thi hành án hình sự (sửa đổi), Phó Trưởng Đoàn Đại biểu Quốc hội chuyên trách tỉnh Lâm Đồng Dương Khắc Mai nhận định, việc sửa đổi Luật lần này là cần thiết, kịp thời và phù hợp với định hướng của Nghị quyết số 27-NQ/TW về tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền trong giai đoạn mới.
Đối với các nội dung cụ thể, về phạm vi điều chỉnh và định hướng sửa đổi, đại biểu bày tỏ đồng tình với hướng mở rộng phạm vi điều chỉnh của dự thảo Luật, bao quát toàn bộ hoạt động thi hành các hình phạt và biện pháp tư pháp đối với cá nhân và pháp nhân thương mại. Tuy nhiên, Đại biểu cho rằng, cần làm rõ hơn ranh giới giữa thi hành án hình sự và thi hành biện pháp tư pháp, tránh chồng chéo giữa cơ quan tư pháp và cơ quan hành chính.

Quang cảnh phiên thảo luận tại Tổ 7 sáng 04/11. Nguồn: Quochoi.vn.
Về nguyên tắc thi hành án hình sự, Đại biểu nhận định, dự thảo Luật đã có bổ sung rất tiến bộ là “ứng dụng khoa học, công nghệ, chuyển đổi số và hiện đại hóa hoạt động thi hành án hình sự”. Tuy nhiên, đề nghị bổ sung thêm nguyên tắc bảo mật thông tin cá nhân và dữ liệu sinh trắc học của người chấp hành án, bảo đảm phù hợp với Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân 2025 và quyền con người được ghi nhận trong Hiến pháp 2013. Đại biểu diễn giải, công nghệ là công cụ hỗ trợ, nhưng nếu thiếu cơ chế bảo vệ dữ liệu, có thể tạo ra rủi ro pháp lý và vi phạm quyền riêng tư.
Về tổ chức bộ máy và phân cấp quản lý thi hành án, Chính phủ đề xuất giao Công an cấp xã chủ trì giám sát, giáo dục, quản lý người chấp hành án hình sự tại cộng đồng. Đại biểu bày tỏ hoàn toàn đồng tình với chủ trương này. Thực tiễn cho thấy lực lượng Công an xã ngày càng được kiện toàn, có đủ năng lực và điều kiện để đảm nhiệm nhiệm vụ quản lý, giám sát tại cơ sở. Tuy nhiên, để tránh chồng chéo, Đại biểu cho rằng cần quy định rõ mối quan hệ phối hợp giữa Công an cấp xã và Ủy ban nhân dân cùng cấp, xác định rõ đầu mối chịu trách nhiệm chính trong từng loại việc, nhất là khi người chấp hành án tái phạm hoặc vi phạm nghĩa vụ giám sát.
Trong lĩnh vực quản lý giam giữ, Đại biểu Dương Khắc Mai đề nghị bổ sung thẩm quyền trích xuất của trại tạm giam để phục vụ việc khám, chữa bệnh cho phạm nhân, hoặc cho con dưới 36 tháng tuổi theo mẹ vào trại. Theo Đại biểu, đây là những vướng mắc thực tế đang gây khó cho cơ sở, nhưng chưa được luật hóa đầy đủ.
Với vấn đề bảo đảm quyền của người chấp hành án, đại biểu cho rằng dự thảo lần này đề cao tính nhân đạo, bổ sung nhiều quy định mới như: phạm nhân được học nghề, được khám chữa bệnh, được thăm gặp trực tuyến trong trường hợp bất khả kháng, được hiến mô, bộ phận cơ thể người. Tuy nhiên, theo Đại biểu quy định về hiến mô, bộ phận cơ thể cần được cân nhắc kỹ lưỡng, thận trọng hơn. Đây là vấn đề nhạy cảm, dễ bị lợi dụng để xuyên tạc, gây hiểu lầm về chính sách nhân đạo của Nhà nước. Nếu đưa vào luật, cần quy định rõ điều kiện, cơ quan có thẩm quyền, quy trình giám sát và tuyệt đối cấm mọi hình thức ép buộc, mua bán hay lợi dụng phạm nhân.
Về chế độ lao động và học nghề, Đại biểu Dương Khắc Mai kiến nghị cần quy định cụ thể hơn về tiêu chí đào tạo nghề gắn với nhu cầu tái hòa nhập sau khi chấp hành xong án. Cần tạo cơ chế phối hợp giữa trại giam và doanh nghiệp, cơ sở giáo dục nghề nghiệp, để chương trình học nghề mang tính thực tiễn, giúp phạm nhân thực sự có cơ hội tái hòa nhập, tránh tái phạm. Đồng thời, phải có quy định minh bạch trong quản lý và sử dụng quỹ lao động phạm nhân, ngăn ngừa tiêu cực, lạm dụng lao động cho mục đích thương mại. Hiện nay đã có nghị quyết về lao động ngoài trại giam, do đó cần phải nhân rộng mô hình này và đào tạo nghề có chất lượng là rất quan trọng, tạo sinh kế để phạm nhân tái hòa nhập cộng đồng.
Bổ sung biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú: Khắc phục khoảng trống pháp lý hiện nay
Đối với dự án Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam và cấm đi khỏi nơi cư trú (sửa đổi), Đại biểu Dương Khắc Mai cho rằng, việc mở rộng phạm vi điều chỉnh của Luật để bổ sung nội dung thi hành biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú là hoàn toàn xác đáng, nhằm bảo đảm tính đồng bộ của hệ thống pháp luật và khắc phục khoảng trống pháp lý hiện nay. Tuy nhiên, Đại biểu đề nghị Cơ quan chủ trì soạn thảo làm rõ cơ chế phối hợp giữa cơ quan tiến hành tố tụng và chính quyền địa phương trong việc giám sát người bị cấm đi khỏi nơi cư trú; cần quy định cụ thể trách nhiệm của UBND cấp xã, Công an cấp xã trong theo dõi, xác nhận việc chấp hành; bổ sung quy định về cơ chế kiểm tra, báo cáo định kỳ và xử lý khi người bị áp dụng biện pháp vi phạm nghĩa vụ. Đồng thời, để nâng cao hiệu quả, đề nghị nghiên cứu ứng dụng công nghệ số, sử dụng dữ liệu dân cư, thiết bị định vị hoặc hệ thống cảnh báo tự động, nhưng phải bảo đảm quyền riêng tư và tuân thủ Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân năm 2025.
Về bảo đảm quyền của người bị tạm giữ, tạm giam, Đại biểu đánh giá cao việc dự thảo đã thể chế hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013 về bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Tuy nhiên, một số quyền quan trọng cần được quy định ngay trong luật, không giao quá nhiều cho văn bản dưới luật.
Cụ thể, về dữ liệu sinh trắc học (Điều 15, 16), dự thảo quy định thu thập mống mắt, ADN, giọng nói của người bị tạm giữ, tạm giam. Đây là điểm mới, thể hiện bước tiến trong ứng dụng công nghệ quản lý. Tuy nhiên, để tránh xâm phạm quyền riêng tư, đại biểu cho rằng cần bổ sung nguyên tắc rõ ràng: “Việc thu thập, lưu trữ, xử lý thông tin sinh trắc học phải tuân thủ quy định của Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân và chỉ sử dụng cho mục đích tố tụng, quản lý giam giữ”.
Về quyền được nhận quà và đồ vật thiết yếu (Điều 28): Dự thảo bỏ quy định người bị tạm giữ, tạm giam “được nhận quà của thân nhân gửi” và chỉ cho phép nhận tiền, đồ thiết yếu. Quy định này tuy nhằm mục đích tăng tính quản lý, nhưng có thể gây tác động tâm lý không tốt, nhất là với người chưa thành niên, người nghèo, người ở xa. Do đó, Đại biểu đề nghị giữ nguyên quy định của Luật hiện hành, cho phép nhận quà bằng hiện vật của thân nhân, đồng thời quy định cụ thể việc kiểm tra, kiểm soát quà gửi để bảo đảm an toàn, tránh lạm dụng.
Về đối tượng đặc thù, đại biểu cho biết dự thảo có điểm mới khi quy định người đồng tính, chuyển giới được bố trí giam giữ riêng, thể hiện tinh thần nhân đạo và tiến bộ. Tuy nhiên, đề nghị cần hướng dẫn chi tiết điều kiện cơ sở vật chất, tiêu chuẩn buồng giam, bảo đảm an toàn cho nhóm đối tượng này.
Tiếp tục cho ý kiến về dự án Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam và cấm đi khỏi nơi cư trú (sửa đổi), Phó Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng, An ninh và Đối ngoại của Quốc hội Trần Đức Thuận, Đại biểu Quốc hội tỉnh Nghệ An cho rằng, về phạm vi điều chỉnh và bảo đảm quyền con người, việc bổ sung biện pháp “cấm rời khỏi nơi cư trú” trong dự thảo Luật đã mở rộng phạm vi điều chỉnh so với Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015. Đây là biện pháp ngăn chặn cần thiết, có ý nghĩa trong quá trình tố tụng hình sự… Tuy nhiên, Đại biểu đề nghị Cơ quan soạn thảo cần rà soát lại các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự để bảo đảm sự thống nhất và rõ ràng về căn cứ áp dụng các biện pháp ngăn chặn.
Đại biểu nhấn mạnh, các biện pháp như tạm giữ, tạm giam, cấm rời khỏi nơi cư trú đều là những biện pháp hạn chế một phần quyền con người, quyền công dân, do đó cần quy định thật chặt chẽ, minh bạch và tránh lạm dụng. Luật phải vừa bảo đảm tính răn đe, vừa đạt được mục đích của các biện pháp tố tụng, đồng thời bảo vệ tối đa quyền con người trong thực tế thi hành.
Qua thực tế, Đại biểu Trần Đức Thuận cho biết, hiện nay lực lượng Bộ đội Biên phòng (BĐBP) đang gặp khó khăn trong quá trình thực hiện nhiệm vụ đấu tranh, phòng chống tội phạm theo thẩm quyền, đặc biệt là tại các địa bàn vùng sâu, vùng xa, biên giới và hải đảo…“Thực tế cho thấy, BĐBP hiện có 427 đồn biên phòng và 07 ban chỉ huy biên phòng cửa khẩu cảng, nhưng chỉ có 240 đơn vị được tổ chức buồng tạm giữ. Các đồn biên phòng ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo gặp nhiều khó khăn về cơ sở vật chất, phương tiện và khoảng cách xa với các cơ sở tạm giữ của Công an”, Đại biểu nêu rõ.
Từ thực tiễn đó, Đại biểu đề nghị bổ sung quy định cho phép các Đồn biên phòng ở vùng sâu, vùng xa và Ban chỉ huy biên phòng cửa khẩu cảng được tổ chức buồng tạm giữ tại chỗ, để bảo đảm điều kiện thực hiện nhiệm vụ tạm giữ người vi phạm... Cùng với đó, cần quy định rõ thẩm quyền cho lực lượng bộ đội biên phòng được thực hiện một số hoạt động điều tra theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, bởi trong quá trình tạm giữ, lực lượng này cần tiến hành các biện pháp điều tra ban đầu nhằm làm rõ hành vi phạm tội.
Tiếp tục phiên thảo luận, cho ý kiến về dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Lý lịch tư pháp, Phó Trưởng Đoàn Đại biểu Quốc hội chuyên trách tỉnh Lâm Đồng Nguyễn Hữu Thông bày tỏ cơ bản thống nhất với sự cần thiết sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật.
Với các quy định cụ thể, về cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp tập trung (Điều 11, 12, 26, 27), Đại biểu cho biết, dự thảo quy định cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp được xây dựng tập trung, thống nhất tại Cục Hồ sơ nghiệp vụ, Bộ Công an. Đây là bước đi phù hợp với yêu cầu bảo đảm kết nối dữ liệu dân cư và chuyển đổi số. Tuy nhiên, để bảo vệ dữ liệu cá nhân, theo đại biểu, việc tập trung hóa dữ liệu về án tích, cấm đảm nhiệm chức vụ, quản lý doanh nghiệp…cần có cơ chế giám sát độc lập, tránh việc lạm quyền hoặc truy cập trái phép.
Đại biểu đề nghị bổ sung vào Điều 11 quy định về chế độ bảo mật và truy cập dữ liệu, trong đó quy định rõ về phân quyền truy cập theo chức năng, không giao toàn quyền cho cơ quan quản lý dữ liệu; đồng thời cần có cơ chế ghi nhận việc truy cập, xử lý, chia sẻ dữ liệu; trách nhiệm hình sự hoặc hành chính khi làm lộ, khai thác sai mục đích dữ liệu lý lịch tư pháp.
Về quyền yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp (Điều 7) và quản lý Phiếu lý lịch tư pháp số 1, số 2 (Điều 41), Đại biểu Nguyễn Hữu Thông nhận định, đối với Phiếu lý lịch tư pháp số 1, thực tiễn cho thấy đang tồn tại việc lạm dụng trong nhiều thủ tục hành chính đối với yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp số 1 (kể cả Phiếu lý lịch tư pháp số 2), ngay cả khi không cần thiết cho mục đích quản lý, tạo ra gánh nặng không cần thiết cho cả người dân và cơ quan quản lý nhà nước. Để khắc phục tình trạng trên, đại biểu kiến nghị Cơ quan chủ trì soạn thảo bổ sung điều khoản giao Chính phủ ban hành danh mục cụ thể các trường hợp bắt buộc nộp Phiếu Lý lịch tư pháp và danh mục này được cập nhật theo định kỳ để phù hợp với tình hình thực tiễn từng giai đoạn cụ thể; đồng thời nghiêm cấm yêu cầu nộp Phiếu lý lịch tư pháp đối với thủ tục nằm ngoài danh mục do Chính phủ quy định để tránh tình trạng yêu cầu tràn lan như thực tiễn thời gian qua.
Đối với Phiếu lý lịch tư pháp số 2, Đại biểu nêu: Dự thảo đã thu hẹp quyền yêu cầu Phiếu lý lịch tư pháp số 2, quy định “Cơ quan, tổ chức không được yêu cầu cá nhân cung cấp Phiếu lý lịch tư pháp số 2”, và yêu cầu phải có sự đồng ý của cá nhân trước khi sử dụng Phiếu này. Đại biểu bày tỏ quan điểm đồng tình với quy định này, thể hiện bước tiến lớn về bảo vệ bí mật đời tư. Tuy nhiên, Đại biểu cũng băn khoăn, quy định một cách cứng nhắc (không có ngoại lệ) như dự thảo có thể khiến người dân gặp khó khăn khi thực hiện các thủ tục về xin thị thực, xuất cảnh, nhập cư... mà quốc gia sở tại yêu cầu phải cung cấp các thông tin liên quan đến án tích.
Để đảm bảo tính khả thi và có tính dự báo của một số trường hợp có thể phát sinh trong thực tế, đại biểu đề nghị bổ sung vào khoản 4 Điều 7 quy định theo hướng “Cơ quan, tổ chức chỉ được yêu cầu cá nhân cung cấp Phiếu lý lịch tư pháp số 2 trong các trường hợp liên quan đến an ninh, quốc phòng, nhập cư, hoặc theo điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên”.
Cho ý kiến về việc sửa đổi các nội dung liên quan đến thủ tục cấp Phiếu Lý lịch tư pháp cho người Việt Nam ở nước ngoài, đặc biệt là Phiếu Lý lịch tư pháp số 2, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật và Tư pháp của Quốc hội Trần Hồng Nguyên, Đại biểu Quốc hội tỉnh Lâm Đồng cho biết thực tế hiện nay còn nhiều khó khăn, vướng mắc đối với người Việt Nam ở nước ngoài xin cấp Phiếu Lý lịch tư pháp trong việc nộp hồ sơ trực tuyến qua VneID, quy trình nộp hồ sơ trực tiếp cũng như vẫn còn nhiều vướng mắc khi nhận kết quả.
Từ thực tế đó, Đại biểu kiến nghị cần nghiên cứu các giải pháp nhằm tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho kiều bào, phù hợp với chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước đối với cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài. Đại biểu đề xuất có thể nghiên cứu phương thức nộp hồ sơ trực tuyến thay thế. Trong trường hợp không thể sử dụng VNeID từ nước ngoài, cần nghiên cứu một website hoặc phương thức nộp online khác. Đồng thời, cần hoàn thiện quy trình trực tuyến. Phương thức nộp hồ sơ mới phải cho phép người Việt Nam ở nước ngoài truy cập, điền thông tin, hoàn thiện hồ sơ và đóng lệ phí. Sau khi hồ sơ được xét duyệt, kết quả nên được trả online qua VNeID để thuận lợi hơn. Điều này giúp tạo điều kiện thuận lợi cho kiều bào trong việc xin cấp Phiếu Lý lịch tư pháp, đồng thời vẫn phải đảm bảo yêu cầu bảo mật của hệ thống thông tin.

