Luật sư Nguyễn Thanh Hà, Chủ tịch Công ty Luật SB Law.
Dịch bệnh Covid-19 có phải là tình trạng khẩn cấp?
Chia sẻ về vấn đề này, Luật sư Nguyễn Thanh Hà, Chủ tịch Công ty Luật TNHH SB Law cho biết, giống như Hiến pháp ở nhiều quốc gia khác, Hiến pháp Việt Nam cũng có những quy định về tình trạng chiến tranh, hòa bình và tình trạng khẩn cấp. Vấn đề chiến tranh và hòa bình thuộc thẩm quyền của Quốc hội. Vấn đề khẩn cấp và giới nghiêm thuộc thẩm quyền của cơ quan thường trực hoạt động thường xuyên của Quốc hội là Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH). Trình tự của việc quyết định và công bố thường được chia thành 2 công đoạn: Công đoạn quyết định và Công đoạn công bố. Công đoạn quyết định được Hiến pháp quy định thẩm quyền của Quốc hội hoặc UBTVQH. Công đoạn công bố thuộc thẩm quyền của nguyên thủ quốc gia là Chủ tịch nước.
Điều 70 Hiến pháp năm 2013 quy định, quyết định vấn đề chiến tranh và hoà bình; quy định về tình trạng khẩn cấp, các biện pháp đặc biệt khác bảo đảm quốc phòng và an ninh quốc gia thuộc thẩm quyền của Quốc hội. Khoản 10 Điều 74 Hiến pháp năm 2013 quy định, UBTVQH có quyền quyết định tổng động viên hoặc động viên cục bộ; ban bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương. Điều 88 Hiến pháp năm 2013 về nhiệm vụ của Chủ tịch nước, theo đó, Chủ tịch nước căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội hoặc của UBTVQH, công bố, bãi bỏ quyết định tuyên bố tình trạng chiến tranh; căn cứ vào nghị quyết của UBTVQH, ra lệnh tổng động viên hoặc động viên cục bộ, công bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp; trong trường hợp UBTVQH không thể họp được, công bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương.
Bên cạnh đó, pháp lệnh của UBTVQH năm 2000 (Pháp lệnh năm 2000) quy định một cách chi tiết hơn về trình trạng khẩn cấp. Điều 2 của Pháp lệnh này quy định, theo đề nghị của Thủ tướng chính phủ, UBTVQH ra nghị quyết về tình trạng khẩn cấp. Trong trường hợp UBTVQH không họp, thì theo đề nghị của Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch nước ra lệnh ban bố tình trạng khẩn cấp.
Đối với việc ban bố tình trạng khẩn cấp về dịch, nguyên tắc, thẩm quyền, thủ tục được thực hiện theo quy định của pháp luật về phòng, chống dịch bệnh truyền nhiễm mà trực tiếp là Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm năm 2007.
Cụ thể, Điều 42 Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm năm 2007 quy định trường hợp dịch bệnh lây lan trên diện rộng, đe dọa nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe con người và kinh tế – xã hội của đất nước thì phải ban bố tình trạng khẩn cấp. UBTVQH ra nghị quyết ban bố tình trạng khẩn cấp theo đề nghị của Thủ tướng Chính phủ; trong trường hợp UBTVQH không thể họp ngay được thì Chủ tịch nước ra lệnh ban bố tình trạng khẩn cấp.
Covid-19 được xác định thuộc bệnh truyền nhiễm nhóm A (bệnh truyền nhiễm đặc biệt nguy hiểm có khả năng lây truyền rất nhanh, phát tán rộng và tỷ lệ tử vong cao hoặc chưa rõ tác nhân gây bệnh). Như vậy, trong trường hợp đòi hỏi phải ban bố tình trạng khẩn cấp về dịch thì UBTVQH sẽ ra nghị quyết ban bố tình trạng khẩn cấp theo đề nghị của Thủ tướng Chính phủ; trong trường hợp UBTVQH không thể họp ngay được thì Chủ tịch nước sẽ ra lệnh ban bố tình trạng khẩn cấp. Cũng theo quy định của Điều 1 Pháp lệnh năm 2000, tình trạng khẩn cấp được ban bố khi trong cả nước, một hoặc nhiều địa phương có thảm họa lớn do thiên nhiên hoặc con người gây ra, có dịch bệnh nguy hiểm lây lan trên quy mô rộng, đe dọa nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước và của tổ chức, tính mạng, sức khỏe, tài sản của Nhân dân hoặc có tình hình đe dọa nghiêm trọng đến an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội.
Trong đợt bùng phát đại dịch Covid-19, Việt Nam đã áp dụng biện pháp giãn cách xã hội ở các mức độ khác nhau theo Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ. Các biện pháp này ảnh hưởng đến toàn bộ đời sống kinh tế - xã hội của đất nước, làm cho một bộ phận không nhỏ người lao động bị mất việc làm, đời sống khó khăn, việc cung ứng nhu yếu phẩm từ địa phương nọ sang địa phương kia khó khăn. Mỗi một địa phương lại yêu cầu các giấy tờ khác nhau mới được vào tỉnh, ví dụ như phải có test nhanh, test PCR, điều này ảnh hưởng lớn tới hoạt động giao thương và giao thông công cộng.
Chính vì vậy, theo quan điểm của Luật sư Hà, Chính phủ và UBTVQH và Chủ tịch nước nên có một cuộc họp để xem xét các yếu tố khác nhau để quyết định có nên áp dụng tình trạng khẩn cấp quốc gia hay không khi dịch bệnh tại một số tỉnh phía Nam đang bùng phát, số ca nhiễm bệnh mới tính hàng nghìn người một ngày.
Bài học từ quốc tế
Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), đại dịch Covid-19 được tuyên bố là tình trạng khẩn cấp y tế toàn cầu. Nhật Bản đã ban bố tình trạng khẩn cấp ở 6 tỉnh, thành, trong đó ngoài Aichi và Fukuoka, còn có Thủ đô Tokyo và 3 tỉnh phía Tây, gồm: Osaka, Kyoto và Hyogo. Tình trạng khẩn cấp lần này sẽ có hiệu lực tới ngày 31/5. Trong thời gian áp dụng tình trạng khẩn cấp, Chính phủ Nhật Bản vẫn tiếp tục yêu cầu người dân hạn chế đi ra ngoài đường nếu không có việc cần thiết, yêu cầu các cơ sở kinh doanh ăn uống không phục vụ đồ uống có cồn và đóng cửa trước 20h hàng ngày, đồng thời kêu gọi các doanh nghiệp tăng cường làm việc từ xa.
Tuy nhiên, để hạn chế tác động của tình trạng khẩn cấp đối với nền kinh tế, Nhật Bản đã nới lỏng một phần các biện pháp chống dịch khi chỉ yêu cầu các trung tâm thương mại lớn và rạp chiếu phim rút ngắn thời gian hoạt động thay vì đóng cửa; giới hạn số lượng khán giả dự khán các sự kiện thể thao, giải trí đông người ở mức tối đa 5.000 người hoặc 50% công suất của địa điểm tổ chức thay vì không cho phép khán giả tham gia. Ngoài việc ban bố tình trạng khẩn cấp ở 6 tỉnh, thành, Nhật Bản đang áp dụng các biện pháp phòng dịch trọng điểm ở 8 tỉnh khác, gồm 3 tỉnh giáp Tokyo là Saitama, Chiba và Kanagawa, tỉnh Ehime giáp Osaka, tỉnh Okinawa ở cực Nam, tỉnh Hokkaido ở cực Bắc, và các tỉnh Gifu và Mie ở miền Trung.
Luật sư Nguyễn Thanh Hà nhận định, Việt Nam có thể áp dụng tình trạng khẩn cấp trong trường hợp cần thiết, theo đó, chính phủ Việt Nam có thể tiếp tục yêu cầu người dân hạn chế ra ngoài nếu không có việc cần thiết, yêu cầu các cơ sở kinh doanh dịch vụ tạm thời đóng cửa hoặc không phục vụ đồ uống có cồn và đóng cửa trước 20h hàng ngày, đồng thời kêu gọi các doanh nghiệp tăng cường làm việc online. Yêu cầu người dân tuân thủ hoàn toàn các quy định phòng chống dịch bệnh. Có biện pháp tiến hành ngăn chặn triệt để nhằm ngăn chặn các nguy cơ lây nhiễm. Việt Nam có thể hạn chế tình trạng di chuyển từ các thành phố với nhau đồng thời phải tổ chức tốt việc cung cấp lương thực, thự phẩm và nhu yếu phẩm cho người dân bị phong tỏa.
Tuy nhiên, việc ban bố bất cứ một biện pháp hạn chế nào trong tình trạng khẩn cấp cũng cần tính tới những tác động của nó, ví dụ gần đây, việc tắc đường ở những cửa ngõ ra vào Hà Nội là một minh chứng cho việc chúng ta chưa chuẩn bị kỹ khi ban hành những quy định mới.
Lưu ý đối với doanh nghiệp
Theo Luật sư Hà, dưới ảnh hưởng của Covid-19, các doanh nghiệp đều gặp khó khăn trong việc thực hiện và đảm bảo hợp đồng giữa các bên. Với lý do chịu ảnh hưởng bởi dịch bệnh Covid-19 mà các bên đã lường trước được việc này nên việc các chủ doanh nghiệp lợi dụng Covid-19 là một sự kiện bất khả kháng là không hợp lý. Do đó nên việc một bên hoặc các bên sẽ không có quyền chấm dứt, hủy bỏ hợp đồng trong trường hợp này. Nếu những hậu quả xảy ra dù trước đó đã dùng mọi biện pháp khắc phục nhưng vẫn không thể khắc phục được thì hoàn toàn có thể coi dịch bệnh Covid-19 là sự kiện bất khả kháng. Nếu muốn không phải bồi thường thì bên gây thiệt hại có nghĩa vụ chứng minh bản thân đã áp dụng mọi biện pháp khắc phục nhưng không thể giải quyết cũng như phải báo cho bên bị thiệt hại biết trước.
Khoản 2 Điều 420 Bộ luật Dân sự 2015 quy định, trong trường hợp hoàn cảnh thay đổi cơ bản, bên có lợi ích bị ảnh hưởng có quyền yêu cầu bên kia đàm phán lại hợp đồng trong một thời hạn hợp lý. Khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản xảy ra, Bộ luật Dân sự 2015 đã ghi nhận và trao quyền đàm phán lại hợp đồng cho bên có lợi ích bị ảnh hưởng. Khi đó bên có lợi ích bị ảnh hưởng có quyền yêu cầu bên còn lại sửa đổi các điều khoản trong hợp đồng cho phù hợp với thực tế và cân bằng lợi ích của hai bên. Tuy nhiên, bên nhận được lời yêu cầu đàm phán lại có nghĩa vụ phải đàm phán lại hay không thì luật lại không quy định rõ. Chính vì vậy, Luật sư Hà cho rằng các doanh nghiệp cần lưu ý những vấn đề sau đây:
Thứ nhất, giảm trừ trách nhiệm bất lợi khi đánh giá sự kiện khẩn cấp là sự kiện bất khả kháng.
Việc Nhà nước ban bố tình trạng khẩn cấp đối với dịch Covid-19 là điều hoàn toàn có thể xảy ra. Các quyết định của cơ quan có thẩm quyền quyết định hạn chế, cấm đoán: cấm lưu thông, phong toả, hạn chế lưu thông, bốc dỡ hàng hoá...
Các bên trong hợp đồng nên xem xét và thương lượng lại các điều khoản trong hợp đồng về cam kết liên quan đến chất lượng của nguyên liệu, xuất xứ của nguyên liệu, thời gian giao hàng,… để tìm kiếm sự thông cảm từ các doanh nghiệp liên quan. Nếu không thể nhận được sự đồng thuận, chia sẻ khó khăn thì đó cũng có thể là căn cứ để xin miễn trừ trách nhiệm vi phạm hợp đồng (nếu có) về sau.
Xuất phát từ lợi ích của mình và đối tác, khi đàm phán hợp đồng, các bên nên đưa điều khoản sự kiện bất khả kháng vào hợp đồng, xác định rõ các yếu tố của sự kiện, mức độ của sự kiện được xác định là “bất khả kháng” cùng với đó là nên liệt kê sự kiện khẩn cấp là một trường hợp miễn trừ trách nhiệm.
Thứ hai, đảm bảo thanh khoản an toàn.
Đại dịch Covid-19 đã ảnh hưởng rất lớn đến doanh thu của doanh nghiệp, làm dứt gãy chuỗi cung ứng làm tăng giá thành đầu vào cao. Một khi sự kiện khẩn cấp phát sinh, phần lớn doanh thu và chuỗi cung ứng đều ngừng và gây thiệt hại nghiêm trọng. Từ đó, tổ chức thu nhỏ quy mô, tạm thời đóng cửa, phải cắt giảm nhân viên hoặc thậm chí đóng cửa.
Để điều đó không xảy ra, doanh nghiệp cần lường trước tình huống xấu nhất bằng cách giảm thiểu rủi ro ở mức tối thiểu bằng cách cố gắng thanh khoản sớm và giữ cho tổ chức của mình có khả năng thanh toán, cố gắng tiếp cận nguồn “vốn” hỗ trợ từ các chương trình của Chính phủ để đảm bảo cho khả năng thanh khoản của doanh nghiệp.
Thứ ba, đánh giá rủi ro trong chuỗi cung ứng.
Khi tình trạng khẩn cấp được ban bố rất có thể đi kèm với đó là những lệnh cấm xuất nhập khẩu, đình chỉ hoạt động giao thông đường bộ, đường thuỷ, đường sắt,… Đứt gãy chuỗi cung ứng sẽ khiến cho doanh nghiệp gián đoạn việc sản xuất do vậy chủ doanh nghiệp cần tìm ra được các lỗ hổng tiềm tàng trong chuỗi cung ứng của mình. Thay thế các nguồn đầu vào nguyên liệu bổ trợ từ các nhà cung cấp nước ngoài bằng nhà cung cấp trong nước, các doanh nghiệp nên chủ động liên hệ với đối tác để xem xét nguồn nguyên liệu có thể thay thế, dự trữ đủ lượng nguyên liệu có thể doanh nghiệp hoạt động tốt trong giai đoạn 3 tháng, 6 tháng hoặc cả năm tuỳ theo quy mô của doanh nghiệp.
Thứ tư, tương tác thường xuyên với các nhà hoạch định chính sách.
Tương tác thường xuyên với các nhà hoạch định chính sách sẽ giúp doanh nghiệp nắm được bước đi tiếp theo, lập kế hoạch cho việc kinh doanh, cách vượt qua khó khăn… Một khi quyết định tình trạng khẩn cấp được ban bố, doanh nghiệp đã đi trước một bước và giảm thiểu rủi ro nhất trong khả năng của mình.
LINH CHI
Cần có những giải pháp đồng bộ để thu hồi tài sản tham nhũng đạt hiệu quả cao