Đoàn Luật sư TP. Hồ Chí Minh - 30 năm hình thành và phát triển

21/10/2020 04:00 | 3 năm trước

(LSVN) - Đoàn Luật sư TP. Hồ Chí Minh được thành lập vào năm 1989 theo các Quyết định số 633/QĐ-UB và 634/QĐ-UB ngày 24/10/1989 của UBND TP. Hồ Chí Minh, với nhân sự gồm 68 thành viên (28 Luật sư và 40 Luật sư tập sự). Sau hơn 30 năm hình thành và phát triển, Đoàn Luật sư TP. Hồ Chí Minh đã đạt được nhiều thành tựu nhất định, xứng đáng là Đoàn Luật sư lớn nhất của cả nước, là đầu tàu của giới Luật sư Việt Nam.

Cái nôi của nghề Luật sư

Ngày 26/11/1867, Thống đốc Nam Kỳ De La Grandière ban hành Nghị định về việc hành nghề bào chữa trước các Tòa án Pháp. Đây là văn bản pháp quy đầu tiên về nghề Luật sư được chính quyền thực dân ban hành ở xứ “Nam Kỳ thuộc Pháp”. Người hành nghề bào chữa lúc đó gọi là “biện hộ viên” (Défenseur); sau (từ 1884) gọi là “Luật sư biện hộ” (Avocat défenseur).

Sau khi xâm lược Việt Nam (1883-1884), năm 1887 Pháp thành lập Liên bang Đông Dương, gồm thuộc địa Nam Kỳ và 3 xứ bảo hộ (Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Cao Miên (Campuchia). Sau có thêm Lào (1899) và Quảng Châu Loan (1900).

Đến năm 1911, có một cuộc cải tiến quan trọng theo Sắc lệnh ngày 30/01/1911, các Luật sư bào chữa ở Đông Dương được lập thành hai danh biểu: một danh biểu ở Sài Gòn bào chữa tại các tòa án ở Nam Kỳ và Cao Miên (Campuchia); một danh biểu ở Hà Nội bào chữa tại các tòa án ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ.

Luật sư Phan Văn Trường.

Trong thời kỳ này, chỉ có một vài Luật sư Đông Dương người Việt đã vào Pháp tịch. Ở Luật sư đoàn Tòa Thượng thẩm Sài Gòn có các Luật sư người Việt quốc tịch Pháp như: Luật sư Phan Văn Trường (1876-1933), Luật sư Trịnh Đình Thảo (1901-1986), Luật sư Bùi Thị Cẩm (1912-?)… Các Luật sư này đều học luật và đỗ bằng Tiến sĩ Luật ở Pháp.

Qua lịch sử nghề nghiệp, có thể nói Luật sư Phan Văn Trường là nam Luật sư đầu tiên, Luật sư Bùi Thị Cẩm là nữ Luật sư đầu tiên người Việt Nam, cả hai Luật sư tiền bối này lúc đó là thành viên của Luật sư đoàn Tòa Thượng thẩm Sài Gòn.

Đến năm 1931, do Sắc lệnh ngày 25/5/1930 được sửa đổi, bổ sung bởi Sắc lệnh ngày 21/7/1931, có cuộc cải tổ quan trọng nhất: danh hiệu “Luật sư bào chữa” được rút gọn thành “luật sư” (Avocat), xã hội vẫn thường gọi là “trạng sư”; ngoài những công dân Pháp, người Đông Dương cũng được phép làm Luật sư.

Quy chế này được áp dụng tới ngày Cách mạng Tháng Tám năm 1945.

Trong giai đoạn này, số lượng Luật sư người Việt tăng lên đáng kể, dần dần chiếm đa số trong Luật sư đoàn Tòa Thượng thẩm Sài Gòn. Các Luật sư có tên tuổi nổi tiếng ở Sài Gòn thời kỳ này có thể kể đến là: Phan Văn Trường (1876-1933), Trịnh Đình Thảo (1901-1986), Nguyễn Hữu Thọ (1910-1996), Phạm Văn Bạch (1910-1986), Phạm Ngọc Thuần (1914-2002), Bùi Thị Cẩm (1912-?), Trần Công Tường (1915-1991), Nguyễn Thành Vĩnh (1904-1995), Thái Văn Lung (1916-1946), Vương Quang Nhường (1902- 1963), Nguyễn Văn Huyền (1913-1995), Trần Ngọc Liễng (1923-2011)…

Sau khi Việt Nam giành được độc lập, thống nhất nước nhà, Luật sư Nguyễn Hữu Thọ vốn hành nghề ở Sài Gòn và các tỉnh miền Tây vào những năm 30 trước Cách mạng Tháng Tám 1945, đã tham gia lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc và trở thành Quyền Chủ tịch nước (1980-1981), Chủ tịch Quốc hội (1981-1987), Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước (1987-2002) nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Luật sư Nguyễn Hữu Thọ.

Luật sư Sài Gòn tham gia kháng chiến chống Pháp

Hơn một tháng sau ngày Cách mạng Tháng Tám thành công, ngày 10/10/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 46 tổ chức đoàn thể Luật sư. Theo đó, các tổ chức Luật sư cũ được duy trì với một số điểm sửa đổi cho phù hợp với tình hình mới. Do điều kiện lúc bấy giờ, số lượng luật sư ở nước ta, cả trong Nam ngoài Bắc, đều rất ít.

Thực tế ở Sài Gòn lúc đó, Việt Minh giành được chính quyền chỉ có 28 ngày thì phải tiến hành cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp trở lại tái chiếm Đông Dương. Một số trí thức đang hành nghề Luật sư ở Sài Gòn và các tỉnh Nam Kỳ, từ đấu tranh yêu nước đã trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương, đồng hành cùng lịch sử tiến hành cuộc đấu tranh vũ trang và chính trị kéo dài suốt 9 năm (1945-1954).

Trong hàng ngũ kháng chiến, các Luật sư đã được bố trí sử dụng vào những chức vụ quan trọng như: Luật sư Phạm Văn Bạch, Chủ tịch Ủy ban nhân dân Nam Bộ, Ủy ban Kháng chiến hành chánh Nam Bộ; Luật sư Phạm Ngọc Thuần, Phó Chủ tịch có thời kỳ giữ Quyền Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến hành chánh Nam Bộ, kiêm nhiệm Chính trị Ủy viên Bộ Tư lệnh Nam Bộ phụ trách 3 quân khu 7, 8 và 9; Luật sư Trương Tấn Phát, Giám đốc Sở Tư pháp; Luật sư Nguyễn Thành Vĩnh, Giám đốc Sở Tài chánh; Luật sư Lê Đình Chi, Trưởng phòng Quân pháp Bộ Tư lệnh Nam Bộ; Luật sư Thái Văn Lung, Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến hành chánh quận Thủ Đức,...

Luật sư Sài Gòn dưới chế độ chính quyền Sài Gòn

Sau Hiệp định Genève năm 1954 đến tháng 4 năm 1975, đất nước tạm phân chia thành hai miền Nam – Bắc. Miền Nam dưới chế độ Việt Nam Cộng hòa có hai quy chế Luật sư lần lượt được ban hành: Quy chế theo Luật số 1/62 ngày 8-1/1962 thời Tổng thống Ngô Đình Diệm và quy chế theo Sắc luật số 025/66 ngày 07/7/1966 thời Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu.

Văn phòng Luật sư đoàn Sài Gòn đặt trong trụ sở Tòa Thượng thẩm Sài Gòn (số 131 đường Công lý, nay là đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa).

Bào chữa viên nhân dân và Luật sư ở Thành phố Hồ Chí Minh từ sau ngày 30/4/1975 đến nay

Tổ chức bào chữa viên nhân dân được thành lập trong suốt 10 năm đầu ở Thành phố Hồ Chí Minh sau ngày 30/4/1975

Sau ngày giải phóng miền Nam 30/4/1975, Sài Gòn được đổi tên thành Thành phố Hồ Chí Minh. Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam cho thực hiện và triển khai tổ chức bào chữa viên nhân dân theo Thông tư số 06/BTP-TT ngày 11/6/1976 của Bộ Tư pháp.

Theo đó, lúc này, ở Thành phố Hồ Chí Minh thiết lập một Phòng Bào chữa viên, đặt tại địa chỉ 97 Nguyễn Thị Minh Khai (nay là đường Pasteur) quận 1.

Những bào chữa viên đầu tiên công tác ở Thành phố Hồ Chí Minh là những cán bộ công chức nhà nước.

Ngày 31/10/1983, Bộ Tư pháp ra Thông tư số 691/QLTPK hướng dẫn kiện toàn tổ chức bào chữa. Thực hiện Thông tư này, Ủy Ban Nhân Dân thành phố ra quyết định thành lập Đoàn bào chữa viên nhân dân với 28 người, gồm những bào chữa viên đã tham gia hoạt động này từ ngày mới giải phóng và bổ sung thêm một số thành viên mới đã dự xong lớp bồi dưỡng pháp lý xã hội chủ nghĩa do Bộ Tư pháp tổ chức dành cho các trí thức ngành luật cũ ở miền Nam.

Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh ra đời

Ngày 18/12/1987, Hội đồng Nhà nước đã thông qua Pháp lệnh Tổ chức Luật sư.

Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh đã được Ủy Ban Nhân Dân Thành phố ra Quyết định số 633, 634 và 635/QĐ-UB cùng ngày 24/10/1989 thành lập, với nhân sự gồm 68 thành viên (28 Luật sư và 40 Luật sư tập sự).

Từ lúc mới thành lập, trụ sở Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh đặt tại số 104 Nguyễn Đình Chiểu, phường Đa Kao, quận 1.

Đến nay, đã trải qua hơn 30 năm với các nhiệm kỳ Ban Chủ nhiệm lần lượt kế tiếp nhau: nhiệm kỳ I (1995-1998), nhiệm kỳ II (1998-2002), nhiệm kỳ III (2002-2005), nhiệm kỳ IV (2005-2008), nhiệm kỳ V (2008-2013).

Đại hội đại biểu Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh lần thứ VI, (2014-2019) đã được triệu tập trong 2 ngày 12 và 13/10/2014, tại Hội trường Thành phố Hồ Chí Minh, với gần 600 luật sư đại diện cho 3.786 luật sư thành viên tham dự. Đại hội đã bầu ra Ban Chủ nhiệm có 15 thành viên và Hội đồng Khen thưởng, kỷ luật có 9 thành viên.

Giúp việc cho Ban Chủ nhiệm có Văn phòng Đoàn Luật sư và 07 Ban chuyên môn do các thành viên Ban Chủ nhiệm phụ trách.

Song song với việc kiện toàn bộ máy hoạt động, ngày 22/10/2016 Đại hội đại biểu bất thường đã thông qua Nội quy Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh, văn bản quan trọng quy định chi tiết những vấn đề nội bộ của Đoàn như: Luật sư thành viên, người tập sự hành nghề luật sư; cơ cấu tổ chức, cơ chế hoạt động của Đoàn Luật sư; chế độ văn bản; tài chính và tài sản của Đoàn Luật sư; khen thưởng, kỷ luật, giải quyết khiếu nại, tố cáo. Tại Hội nghị này, các đại biểu cũng đã thông qua Nghị quyết về phí gia nhập và phí đăng ký tập sự hành nghề Luật sư.

Về tổ chức Đảng: Đảng đoàn Đoàn Luật sư gồm 05 thành viên trực thuộc Ban Thường vụ Thành ủy, Đảng bộ Đoàn Luật sư trực thuộc Đảng bộ Khối Dân-Chính- Đảng Thành phố, có 255 đảng viên (tính đ61ng tháng 10/2020) sinh hoạt tại 12 Chi bộ trực thuộc.

Về các tổ chức đoàn thể và đơn vị trực thuộc: Đoàn Luật sư có tổ chức Công đoàn cơ sở, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Câu lạc bộ Nữ Luật sư và Câu lạc bộ Luật sư hành nghề với tư cách cá nhân. 

Như vậy, có thể khẳng định cho đến nay bộ máy tổ chức của Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh cũng như cơ chế vận hành đã được thiết lập ổn định và đang phát huy hiệu quả. Đoàn đã thực hiện nghiêm túc đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, quy định của pháp luật trong việc kết hợp nguyên tắc quản lý nhà nước với chế độ tự quản của Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh.

Thực hiện phương châm: “Phát huy truyền thống, đoàn kết xây dựng Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh ngày càng phát triển vững mạnh”, Ban Chủ nhiệm nhiệm kỳ VI đã thực hiện nghiêm túc nguyên tắc kết hợp quản lý nhà nước với chế độ tự quản của tổ chức xã hội nghề nghiệp Luật sư, giữ gìn sự đoàn kết nội bộ, làm việc trên tinh thần tự nguyện không hưởng thù lao, công khai, minh bạch, dân chủ, giữ được hoạt động ổn định và từng bước phát triển, đáp ứng yêu cầu của Thành phố và Liên đoàn Luật sư Việt Nam, khôi phục hình ảnh và uy tín của Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh, xứng đáng là Đoàn Luật sư lớn nhất của cả nước, là đầu tàu của giới luật sư Việt Nam.

THANH THANH

/mo-rong-doi-tuong-duoc-ho-tro-do-anh-huong-cua-covid-19.html