Ngày 09/9/2025, TAND TP. Hải Phòng mở phiên tòa phúc thẩm xét xử bị cáo Trần Thanh Hải và Nguyễn Văn Doanh cùng về tội “Gây rối trật tự công cộng” do có đơn kháng cáo của các bị cáo và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là Công ty Cổ phần kinh doanh dịch vụ thương mại Cầu vồng Hoa Lan 7&1 (sau đây gọi tắt là Công ty Hoa Lan).
Trước đó, cả hai bị cáo đã bị TAND quận An Dương (nay là TAND Khu vực 2), TP. Hải Phòng xét xử sơ thẩm và tuyên phạt Trần Thanh Hải 36 tháng tù, Nguyễn Văn Doanh 30 tháng tù theo điểm b, khoản 2 Điều 318 Bộ luật Hình sự. Riêng, bị cáo Nguyễn Văn Doanh tổng hợp hình phạt của Bản án hình sự sơ thẩm số 36/2022/HS-ST ngày 12/8/2022 của TAND huyện An Lão xử phạt 18 tháng tù cho hưởng án treo về tội “Đánh bạc”, buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung cho cả 02 bản án là 48 tháng tù.

Phiên tòa phúc thẩm ngày 09/9/2025.
Tại phiên tòa phúc thẩm, trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận định: Trần Thanh Hải thừa nhận có bảo Nguyễn Văn Doanh đuổi anh Phạm Văn Đức ra khỏi Văn phòng Công ty Hoa Lan, không thừa nhận chỉ đạo cho Doanh và một số đối tượng khác đánh anh Đức và giật, phá các mắt camera lắp tại Văn phòng Công ty Hoa Lan ngày 09/10/2023 vì cho rằng việc thay thế mắt camera mới đã được Dung đồng ý.
Bị cáo Nguyễn Văn Doanh không thừa nhận hành vi cùng một số đối tượng đánh và lôi anh Đức ra ngoài, không biết việc Hải hô hào người khác giật, phá các mắt camera trong phòng.
Tuy nhiên, căn cứ hồ sơ vụ án, HĐXX xác định ngày 09/10/2023, tại Văn phòng Công ty Hoa Lan, Trần Thanh Hải đã có hành vi đập vỡ cốc thủy tinh, quát tháo, chửi bới, đánh bà Bùi Thị Kim Dung; hô hoán, chỉ đạo Nguyễn Văn Doanh cùng một số đối tượng khác đánh, lôi anh Phạm Văn Đức ra khỏi văn phòng nhốt vào xe ô tô ngoài sân, đồng thời chỉ đạo việc phá, tháo các mắt camera trong Văn phòng của Công ty Hoa Lan; Nguyễn Văn Doanh có mặt tại hiện trường đã tiếp nhận ý chí và thực hiện hành vi giúp sức cho Hải trong vụ việc nêu trên.
Đối với việc xác định người có quyền điều hành Công ty Hoa Lan, “bị cáo Hải cho rằng Bùi Thị Kim Dung đã ký văn bản giao cho mình điều hành các hoạt động của Công ty Hoa Lan, nên có quyền đại diện điều hành hoạt động và các tài sản của Công ty. Nhưng theo quy định của pháp luật thì việc thay đổi đại diện theo pháp luật của Công ty phải được ghi tên trong đăng ký kinh doanh, nếu đại diện theo uỷ quyền thì cần lập thành văn bản có chữ ký của người đại diện theo pháp luật và dấu xác nhận của Công ty. Mặc dù Dung đã ký văn bản thoả thuận giao quyền điều hành Công ty cho Hải, nhưng sau đó lại thay đổi không đồng ý vì cho rằng Hải không góp vốn như đã hứa; Hải cũng không chứng minh được việc đã góp vốn vào Công ty, do đó, Hải chưa đủ điều kiện để đại diện điều hành Công ty Hoa Lan. Mặt khác, tranh chấp quyền điều hành Công ty trong trường hợp này là quan hệ dân sự, đương sự có quyền khởi kiện bằng một vụ án dân sự khác để bảo vệ quyền lợi của mình, chứ không được phép sử dụng vũ lực. Do đó, không có căn cứ chấp nhận quan điểm bào chữa của các luật sư bảo vệ quyền lợi cho bị cáo cho rằng hành vi của bị cáo Hải thực hiện ngày 09/10/2023 là hợp pháp để bảo vệ quyền sở hữu tài sản đã góp vào Công ty Hoa Lan”, HĐXX nhận định.
Đối với quan điểm cho rằng nơi xảy ra vụ việc ngày 09/10/2023 không phải trụ sở làm việc của Công ty Hoa Lan nên không phải là nơi công cộng, HĐXX cho biết Công ty Hoa Lan xây dựng Văn phòng điều hành Dự án nhà ở thương mại tại xã Lê Lợi, đây cũng là nơi giao dịch và làm việc thường xuyên của nhiều nhân viên trong thời gian thực hiện dự án. Theo quy định tại Điều 7 Nghị định 144/2021/NĐ-CP ngày 31/12/2021 của Chính phủ thì đây được coi là nơi công cộng.
Bị cáo Trần Thanh Hải có hành vi đập vỡ cốc chỉ đạo người khác giật, phá các mắt camera là tài sản của Công ty Hoa Lan mang đi và đánh, đuổi anh Phạm Văn Đức ra khỏi văn phòng; Nguyễn Văn Doanh tham gia tích cực, giúp sức cho Trần Thanh Hải; nên các bị cáo cùng phải chịu tình tiết định khung hình phạt “có hành vi phá phách” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 318 Bộ luật Hình sự. Đối với việc cấp sơ thẩm kết luận Trần Thanh Hải có hành vi “xúi giục người khác phạm tội” theo điểm d khoản 2 Điều 318 Bộ luật Hình sự, HĐXX thấy các bị cáo có mặt tại hiện trường là do Dung gọi đến và việc Hải bảo Doanh “lôi thằng này ra ngoài cho chị” chỉ mang tính bột phát, giữa Hải và Doanh không có sự bàn bạc, phân công thống nhất từ trước và Doanh là người có đầy đủ năng lực nhận thức và điều khiển hành vi nên không thể coi lời nói trên của Hải đã kích động, dụ dỗ, hoặc thúc đẩy Doanh thực hiện tội phạm; do đó, Hải không phải chịu tình tiết định khung hình phạt “xúi giục người khác gây rối”…
Đối với Nguyễn Văn Doanh, HĐXX nhận định bị cáo có nhân thân xấu, có 01 tiền án chưa được xóa, phạm tội trong thời gian thử thách của án treo nên phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “tái phạm” theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.
Về vai trò của từng bị cáo và quyết định hình phạt, HĐXX cho rằng: Trong vụ án này, các bị cáo là đồng phạm giản đơn, phạm tội mang tính bột phát, không có dự mưu. Bị cáo Trần Thanh Hải là người chủ động khơi mào vụ việc xô xát, trực tiếp đánh Bùi Thị Kim Dung và anh Phạm Văn Đức, hô hào người khác xô xát với anh Phạm Văn Đức, đồng thời chỉ đạo việc giật phá các mắt camera lắp trong Văn phòng nên giữ vai trò cao nhất. Như đã phân tích, Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng định khung hình phạt “xúi giục người khác gây rối” theo điểm d khoản 2 Điều 318 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Hải không đúng, nên cần sửa án sơ thẩm, giảm một phần hình phạt cho bị cáo Hải là phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo. Đối với Nguyễn Văn Doanh có nhân thân xấu, đã từng 02 lần bị kết án, trong đó có 01 lần chưa được xóa án tích, nhưng tham gia đồng phạm với vai trò thứ yếu, bởi lẽ: Doanh là người phụ thuộc vào Hải (là em họ và được Hải cho đi làm cùng dự án), nên cần giảm một phần hình phạt cho bị cáo Doanh là phù hợp với quy định tại Điều 58 Bộ luật Hình sự. Bị cáo Doanh phạm tội trong thời gian thử thách của án treo, nên cần tổng hợp hình phạt tù với bản án đã cho hưởng án treo để buộc bị cáo thi hành hình phạt chung theo quy định tại khoản 5 Điều 65 Bộ luật Hình sự.
Về việc xác định giá trị tài sản bị thiệt hại và trách nhiệm dân sự, HĐXX cho rằng tài liệu, chứng cứ thu thập được có trong hồ sơ vụ án không đủ căn cứ xác định giá trị tài sản bị thiệt hại; không làm rõ được là trước khi bị giật phá thì các camera còn hoạt động bình thường hay không; khi 02 camera trong văn phòng bị giật xuống thì nhiều người chứng kiến, nhưng việc kết luận có 05 camera khác bên ngoài sân cũng bị tháo mang đi cùng thời điểm là không đủ cơ sở vững chắc; Công ty Hoa Lan khai có 06 camera bị mất, chỉ tìm được 01 chiếc camera rơi ngoài vườn nhưng chưa giám định xem nó còn khả năng sử dụng lại hay không để khấu trừ vào giá trị tài sản bị thiệt hại; không làm rõ việc Hải có lắp các mắt camera mới để thay cho camera cũ trị giá bao nhiêu tiền và còn hoạt động hay không; ngoài Hải thì các thành viên khác của Công ty Hoa Lan có thể truy cập vào camera để sử dụng hay không. HĐXX thấy việc cấp sơ thẩm căn cứ vào Bản báo giá thiết bị và Bản quyết toán do Công ty Trường Khang tự lập để kết luận về giá trị 07 camera tang vật bị hư hỏng là không đủ cơ sở vững chắc, lẽ ra phải thu thập các biên bản nghiệm thu, thanh lý hợp đồng, chứng từ thanh toán..., làm rõ ai là người thi công, thời gian thi công... để xác định có đúng là Công ty Trường Khang đã lắp đặt các mắt camera hay không, nếu đủ căn cứ xác định số camera bị hư hỏng trị giá 4.520.600 đồng thì cần xem xét trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo về tội “Cố ý huỷ hoại hoặc làm hư hỏng tài sản” theo khoản 1 Điều 178 Bộ luật Hình sự. Ngoài việc trình báo về 07 camera bị hư hỏng, Công ty Hoa Lan còn trình báo về việc bị hư hỏng 01 máy in trị giá khoảng trên 10 triệu đồng, nhưng chưa được cấp sơ thẩm xem xét, đánh giá.
Từ đó, HĐXX nhận định chưa đủ căn cứ xác định được tài sản của Công ty Hoa Lan bị thiệt hại và giá trị các tài sản đó là bao nhiêu, nên không có căn cứ buộc các bị cáo bồi thường thiệt hại. Do đó, cần sửa bản án sơ thẩm về vấn đề này; trách nhiệm dân sự trong vụ án sẽ được tiếp tục xác minh, làm rõ để xem xét, giải quyết sau.
Theo HĐXX, hồ sơ vụ án thể hiện, trong quá trình điều tra, truy tố có một số sai sót về tố tụng, mặc dù chưa được coi là nghiêm trọng; một số tình tiết của vụ án chưa điều tra, làm rõ, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm lại nhận định các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện An Dương, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện An Dương, Kiểm sát viên đã thực hiện đều hợp pháp là không đúng. Tuy nhiên, những sai sót trên không làm ảnh hưởng đến định tội danh và quyết định hình phạt đối với các bị cáo; để đưa vụ án ra xét xử kịp thời nhằm răn đe, giáo dục, tuyên truyên và ổn định tình hình an ninh trật tự địa phương; đồng thời cũng để giữ ổn định cho bản án cấp xét xử thấy không cần thiết phải hủy Bản án sơ thẩm để điều tra lại mà chỉ cần kiến nghị Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát có thẩm quyền tiếp tục điều tra bổ sung để làm rõ hành vi vi phạm của những người tham gia sự việc ngày 09/10/2023 và ngày 10/11/2023 nói trên để xử lý theo quy định của pháp luật.
Từ đó, HĐXX phúc thẩm tuyên phạt bị cáo Trần Thanh Hải 30 tháng tù, bị cáo Nguyễn Văn Doanh 24 tháng tù cùng về tội “Gây rối trật tự công cộng”; đồng thời bác kháng cáo của Công ty Hoa Lan.
Sau khi bản án phúc thẩm được tuyên, Công ty Hoa Lan đã có đơn gửi Viện KSND Tối cao và TAND Tối cao đề nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm đối với bản án phúc thẩm của TAND TP. Hải Phòng. Theo đó, Viện KSND Tối cao và TAND Tối cao đã tiếp nhận đơn của Công ty Hoa Lan.
Trong đơn đề nghị giám đốc thẩm, Công ty Hoa Lan cho rằng quá trình điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm đối với các bị cáo về tội “Gây rối trật tự công cộng” là không đúng tội danh, không đúng với ý thức chủ quan và hành vi khách quan mà các bị cáo đã gây ra, bỏ lọt nhiều tội phạm và người phạm tội, nhiều tình tiết có ý nghĩa quan trọng trong việc giải quyết vụ án chưa được làm rõ.
Tại phiên tòa phúc thẩm nhiều tình tiết chưa được đề cập, làm rõ; việc áp dụng pháp luật chưa đúng với hành vi phạm tội, có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm.

