Ảnh minh họa.
1. Cơ sở của khoa học - công nghệ và Đổi mới sáng tạo trong phát triển văn hóa pháp luật
khoa học - công nghệ được hiểu dưới góc độ pháp lý
Khoa học (Science) được hiểu là toàn bộ hệ thống quy luật mang tính khách quan của vật chất và xã hội tư duy, theo đó, những quy luật này đã được các nhà khoa học quan sát và nghiên cứu, tìm hiểu một cách kỹ càng để từ đó sắp xếp lại thành dữ liệu nhằm giải thích cách thức hoạt động và sự tồn tại của một hiện tượng, sự vật nào đó. Theo khoản 2, Điều 3 của Luật Khoa học và Công nghệ 2013 thì: “Khoa học là hệ thống tri thức về bản chất, quy luật tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng tự nhiên, xã hội và tư duy”. Những tri thức về quy luật khách quan giúp con người có thể dùng chúng để áp dụng vào thực tiễn sản xuất và đời sống, vận dụng các quy luật để sáng tạo ra các nguyên lý, các giải pháp tác động vào các sự vật, hiện tượng nhằm biến đổi trạng thái của chúng.
Có thể hiểu, khoa học là những gì đã được nghiên cứu kỹ và có bằng chứng xác thực qua một quá trình vận dụng các ý tưởng, nguyên lý và phương pháp khoa học để tìm ra các kiến thức mới nhằm mô tả, giải thích hay dự báo các sự vật, hiện tương trong thế giới khách quan, nhằm làm phong phú thêm các tri thức khoa học, đưa ra các câu trả lời để giải quyết các vấn đề thực tiễn.
Cũng theo khoản 2, Điều 3 của Luật Khoa học và Công nghệ 2013, quy định “Công nghệ là giải pháp, quy trình, bí quyết kỹ thuật có kèm theo hoặc không kèm theo công cụ, phương tiện dùng để biến đổi nguồn lực thành sản phẩm”. Ngoài ra, theo Ủy ban Kinh tế Xã hội Châu Á Thái Bình Dương Liên Hợp Quốc (ESCAP) quy định “Công nghệ là kiến thức có hệ thống và quy trình, kỹ thuật dùng để chế biến vật liệu và thông tin, bao gồm kiến thức, thiết bị, phương pháp và các hệ thông dùng trong việc tạo ra hàng hóa và cung cấp dịch vụ”. Như vậy, công nghệ (Technology) là bao gồm kiến thức và kỹ năng cần thiết để sản xuất hàng hóa và dịch vụ, là kết quả của sức mạnh tư duy và kiến thức của con người và sự kết hợp của các quy tắc tồn tại trong tự nhiên; là ứng dụng có hệ thống của khoa học và tri thức được tổ chức cho các nhiệm vụ thực tế và kỹ thuật, giải thích quá trình chuyển đổi đầu vào thành đầu ra(1). Hoạt động khoa học và công nghệ là hoạt động nghiên cứu khoa học, nghiên cứu và triển khai thực nghiệm, phát triển công nghệ, ứng dụng công nghệ, dịch vụ khoa học và công nghệ, phát huy sáng kiến và hoạt động sáng tạo khác nhằm phát triển khoa học và công nghệ.
Như vậy, khoa học - công nghệ hiểu khái quát là tổng hợp toàn bộ những hoạt động có tính sáng tạo và hệ thống giúp phát triển được những kiến thức liên quan đến tự nhiên và xã hội, ứng dụng liên quan quan đến hoạt động con người, phát triển kinh tế.
Trong việc phát triển văn hóa pháp luật, việc đặt ra các chính sách khoa học công nghệ (science and technology policy) là rất quan trọng và cần thiết. Được hiểu, cần phải tạo ra hệ thống các quan điểm, mục tiêu, nguyên tắc chỉ đạo, định hướng phát triển, các thể chế và biện pháp thúc đẩy việc tiếp thu, phát triển và sử dụng khoa học – công nghệ và các ngành khoa học hỗ trợ công nghệ để thực hiện các mục tiêu kép, phát triển văn hóa pháp luật trong thời đại cách mạng công nghệ 4.0 như hiện nay.
- Đổi mới sáng tạo:
Theo định nghĩa gốc, đổi mới sáng tạo (Innovation) là việc tạo ra và ứng dụng các thành tựu, giải pháp kỹ thuật, công nghệ, giải pháp quản lý để nâng cao hiệu quả phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao năng suất, chất lượng, giá tị gia tăng của sản phẩm, hàng hóa.
Theo OECD (2005), đổi mới sáng tạo là việc thực hiện một sản phẩm (hàng hóa và dịch vụ) mới hoặc một quy trình mới hoặc được cải tiến đáng kể, một phương pháp marketing mới, hoặc phương pháp tổ chức quản lý trong thực tiễn hoạt động sản xuất kinh doanh, trong tổ chức công việc hoặc trong quan hệ với bên ngoài.
Qua đó, đổi mới sáng tạo là quá trình chuyển ý tưởng, tri thức thành một kết quả cụ thể như sản phẩm, dịch vụ, quy trình… mang lại lợi ích gia tăng cho khoa học, xã hội trong đó cũng đóng góp vai trò phát triển văn hóa pháp luật.
- Văn hóa pháp luật:
Theo từ điển Tiếng Việt, văn hóa là tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử, là một hệ thống tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên xã hội(2). Văn hóa là hiện tượng xã hỗi hết sức đa dạng, đa cấp độ, được nhìn nhận, tiếp cận theo nhiều cách thức khác nhau. Ở trình độ lý luận và yêu cầu của xã hội hiện nay, văn hóa được coi là tất cả những gì liên quan đến con người, ít nhiều thể hiện sức mạnh bản chất của con người. Theo đó, văn hóa có thể hiểu là những phương thức và kết quả hoạt động của con người đạt được trong lịch sử, bao gồm giá trị vật chất, giá trị tinh thần do con người sáng tạo ra. Hiểu theo nghĩa hẹp, văn hóa phản ánh hệ thống các giá trị và quy tắc ứng xử được xã hội chấp nhận, hàm chứa những quan điểm về mục đích và lý tưởng xã hội.
Trong lĩnh vực hoạt động pháp luật, văn hóa tồn tại với tư cách là sự thăng hoa trong môt lĩnh vực hoạt động xã hội – chính trị đặc thù. Yếu tố văn hóa trong lĩnh vực pháp luật là sự thống nhất hữu cơ giữa quá trình hoạt động của con người trong quan hệ pháp lý và hiệu quả đối tượng hóa năng lực của con người trong lĩnh vực đó.
Văn hóa pháp luật là thuật ngữ dùng để mô tả mối quan hệ gắn bó khăng khít giữa các giá trị pháp luật và các giá trị văn hóa, là tổng thể các hoạt động hàm chứa các giá trị pháp luật được hình thành trên cơ sở tri thức pháp luật, lòng tin, tình cảm đối với pháp luật và hành vi pháp lý thực tiễn.
Theo GS.TS. Lê Minh Tâm, văn hóa pháp luật là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần mà con người đã tạo ra trong lĩnh vực pháp luật bao gồm hệ thống quy phạm pháp luật được ban hành trong các thời kỳ lịch sử, những tư tưởng, quan điểm, luận điểm, nguyên lý, nguyên tắc, những tác phẩm văn hóa pháp luật, những kinh nghiệm và thói quen tích lũy được trong quá trình xây dựng và thực thi pháp luật(3).
Có thể thấy, khái niệm văn hóa pháp luật có nhiều nghĩa, được thể hiện ở trình độ tư duy pháp lý, trình độ cảm nhận, nhận thức về thực tiễn pháp luật; mức độ tôn trọng pháp luật; trình độ tri thức pháp luật của nhân dân, thực trạng của quá trình lập pháp và thực hiện pháp luật có chất lượng; các phương thức hoạt động pháp luật đặc thù như của các cơ quan pháp luật, kiểm tra hiến pháp, kết quả của hoạt động pháp luật dưới dạng sản phẩm tinh thần và vật chất do con người xây dựng như luật, hệ thống lập pháp, thực tiễn tư pháp…
Như vậy, văn hóa pháp luật là một bộ phận của nền văn hóa nói chung, là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần được con người sáng tạo ra trong lĩnh vực pháp luật. Do đó, văn hóa pháp luật cũng được cấu thành từ các yếu tố: ý thức pháp luật, hệ thống pháp luật, hành vi pháp luật và lối sống theo pháp luật.
Chức năng của khoa học - công nghệ và Đổi mới sáng tạo trong phát triển văn hóa pháp luật
Khoa học – công nghệ và đổi mới sáng tạo góp phần không nhỏ trong việc xây dựng, phát triển văn hóa pháp luật; cung cấp luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách phát triển đất nước.
Trong điều kiện thực tế của nước ta hiện nay, để nâng cao trình độ hiểu biết pháp luật của người dân thì việc giáo dục, tuyên truyền, phổ biến pháp luật đóng vai trò quan trọng. Qua đó, việc ứng dụng khoa học – công nghệ và đổi mới sáng tạo vào quá trình phổ biến pháp luật là rất cần thiết. Qua quá trình nghiên cứu khoa học pháp lý, đổi mới tư duy, nhận thức của người làm luật để áp dụng vào thực tiễn đời sống, phổ cập pháp luật cho người dân từ đó đưa ra giải pháp quản lý để nâng cao hiệu quả phát triển văn hóa pháp luật. Văn hóa pháp luật là sản phẩm hoạt động pháp luật của con người; văn hóa pháp luật định hướng cho các thành viên xã hội lựa chọn cách xử sự hợp lý để tránh xung đột với các cá nhân khác, cách giải quyết hài hòa các lợi ích xã hội và lợi ích cá nhân mà không vi phạm pháp luật. Việc chọn lọc nhanh hơn các cách xử sự đó, kiểm nghiệm qua thời gian và trở thành khuôn mẫu hành vi, thẩm thấu vào ý thức pháp luật của mỗi người thì khoa học – công nghệ và đổi mới sáng tạo có vai trò quan trọng.
Bên cạnh đó, khoa học – công nghệ và đổi mới sáng tạo hỗ trợ đưa ra hệ thống các quan điểm, mục tiêu, nguyên tắc chỉ đạo, định hướng phát triển, các thể chế và biện pháp thúc đẩy việc tiếp thu, phát triển và sử dụng khoa học – công nghệ và các ngành khoa học hỗ trợ công nghệ để thực hiện các mục tiêu kép, phát triển văn hóa pháp luật trong thời đại cách mạng công nghệ 4.0 như hiện nay. Điều đó thể hiện ở sự vận dụng và phát huy các kết quả nghiên cứu văn hóa pháp luật vào hoạt động thực tiễn hoạch định, xây dựng chính sách pháp luật của nhà nước. Việc xây dựng và ban hành pháp luật, có ảnh hưởng mạnh mẽ tới ý thức của con người; góp phần hình thành ý thức pháp luật của cá nhân và các nhóm xã hội.
Dưới tác động của khoa học – công nghệ và đổi mới sáng tạo vào văn hóa pháp luật, việc hoạch định và xây dựng chính sách pháp luật đúng đắn là định hướng quan trọng cho việc phát triển và hoàn thiện hệ thống pháp luật.
Nói tóm lại, sự phát triển của văn hóa pháp luật đòi hỏi phải có sự phù hợp giữa nội dung hệ thống pháp luật thực định với những đòi hỏi khách quan của thực tiễn đời sống xã hội trong điều kiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, ứng dụng khoa học – công nghệ và đổi mới sáng tạo là vô cùng cần thiết.
Các yếu tố ảnh hưởng của khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo trong phát triển văn hóa pháp luật
Hiện nay, khoa học – công nghệ và đổi mới sáng tạo trong phát triển văn hóa pháp luật bị ảnh hưởng bởi các yếu tố sau:
Thứ nhất, tạo ra công cụ, phương tiện truyền tải, tuyên truyền làm lan tỏa, nâng cao nhận thức và hình thành văn hóa pháp luật trong các chủ thể như các buổi tư vấn, lấy ý kiến xây dựng và thực thi văn bản pháp luật, các hội thảo, tọa đàm...
Thứ hai, tăng thêm chủ thể tiếp cận văn hóa pháp luật khi sự ra đời của khoa học công nghệ và sáng tạo kéo theo sự ra đời của các chủ thể mới tiếp cận văn hóa pháp luật. Các nhà nghiên cứu và xa hơn là trí tuệ nhân tạo, robot và sự ra đời của các quan hệ pháp luật mới như quan hệ thương mại điện tử, Sở hữu trí tuệ cần được phổ cập và xây dựng hệ thống văn hóa pháp luật tương ứng.
Thứ ba, nâng cao chất lượng văn hóa pháp luật do nâng cao kiến thức pháp luật tạo ra hoặc tạo điều kiện du nhập và giao lưu văn hóa pháp luật giữa các hệ thống pháp lý để học hỏi văn hóa pháp luật của nhau hoặc tạo ra văn hóa pháp luật mới mang tính chất hỗn hợp.
Ngoài ra, khoa học – công nghệ và đổi mới sáng tạo làm nổi bật hơn được các đặc điểm của văn hóa pháp luật. Sự tác động của khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo đến văn hóa pháp luật cũng đồng thời tác động lên đặc tính cá nhân, môi trường trên phương diện văn hóa pháp luật đối với quá trình lập pháp – hành pháp – tư pháp. Có thể nói, khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo chịu sự tác động của văn hóa pháp luật và ngược lại.
2. Thực trạng của khoa học - công nghệ và Đổi mới sáng tạo trong phát triển văn hóa pháp luật
Trong những năm qua, pháp luật ngày càng được coi trọng đúng với vị trí, ý nghĩa của nó, là một điều kiện quan trọng cho nền văn hóa pháp luật Việt Nam hiện đại hình thành và phát triển. Trong nền văn hóa đó, không thể bỏ qua việc ứng dụng của khoa học – công nghệ và đổi mới sáng tạo vào sự phát triển của văn hóa pháp luật.
Những ứng dụng của khoa học – công nghệ và đổi mới sáng tạo là các công cụ giúp cho việc mở rộng ghi nhận, thúc đẩy và bảo vệ quyền con người, phát triển văn hóa pháp luật. Chẳng hạn, quyền tiếp cận thông tin được thực hiện một cách nhanh chóng và đầy đủ hơn với sự hỗ trợ của internet, dữ liệu lớn, sự phát triển của hệ thống thông tin trực tuyến, mạng xã hội... Dữ liệu lớn giúp cho việc thu thập và phân tách dữ liệu dễ dàng hơn, thông qua đó có thể hỗ trợ và giám sát tình trạng phân biệt đối xử với các nhóm dễ bị tổn thương. Thông tin về các vi phạm quyền con người cũng được chia sẻ nhanh chóng hơn, nhờ đó các chính phủ, tổ chức phi chính phủ và các bên chịu trách nhiệm về quyền con người có thể tiếp nhận và đưa ra giải pháp hỗ trợ kịp thời.
Hiện nay, Luật Chuyển giao công nghệ và Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa được Quốc hội thông qua đã góp phần hoàn thiện môi trường pháp lý, thúc đẩy hoạt động chuyển giao công nghệ, thương mại hóa và ứng dụng các thành tựu khoa học - công nghệ hiện đại, lành mạnh hóa, nâng cao văn hóa pháp luật trong các lĩnh vực như kinh tế, văn hóa, chính trị… tạo nền tảng để thực hiện thành công công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay.
Ngoài ra, truyền thông và mạng xã hội ngày càng trở thành một kênh quan trọng thể hiện quyền tự do biểu đạt, tự do ngôn luận của người dân trên thế giới. Các ứng dụng công nghệ mới cũng tạo điều kiện thuận lợi trong việc tiếp cận quyền cho các nhóm dễ bị tổn thương. Chẳng hạn, công nghệ góp phần làm tăng khả năng tiếp cận dịch vụ, giảm chi phí hỗ trợ cho người khuyết tật. Người khuyết tật sẽ có cơ hội được sử dụng nhiều hơn các thiết bị hiện đại hỗ trợ cho tình trạng khuyết tật. Sự phát triển của công nghệ gen cũng giúp cho việc điều tra tội phạm dễ dàng hơn, đặc biệt là các loại tội phạm xâm hại phụ nữ, trẻ em...
Bên cạnh đó, tài sản trí tuệ là một vấn đề rất quan trọng trong hội nhập quốc tế, đồng thời đây cũng là một lĩnh vực của khoa học máy tính, tập trung vào việc tạo ra những cỗ máy thông minh, có thể hoạt động, tư duy… như trí tuệ con người. Chính phủ nước ta cũng đang tận dụng lợi thế và những lợi ích của tài sản trí tuệ giúp phát triển văn hóa pháp luật. Tuy nhiên, việc vận dụng tài sản trí tuệ, khoa học – công nghệ và đổi mới sáng tạo trong việc phát triển văn hóa pháp luật còn gặp khó khăn trong việc xác định chủ thể, đối tượng điều chỉnh pháp luật. Bởi trí tuệ nhân tạo không phải thực thể tự nhiên như con người. Do đó, không thể gộp trí tuệ nhân tạo vào nhóm điều chỉnh như “luật định”.
Tuy nhiên, sản phẩm của khoa học công nghệ cũng tạo ra thách thức về quyền lao động và vấn đề việc làm của người lao động, bất bình đẳng, sự gia tăng tính dễ bị tổn thương cho các nhóm đối tượng trong xã hội. Mặc dù, sự ra đời của công nghệ số với các nền tảng trực tuyến có thể góp phần thúc đẩy bình đẳng giới thông qua việc hỗ trợ phụ nữ tiếp cận thông tin, giáo dục và kết nối với các cơ hội phát triển, nhưng cũng làm tăng nguy cơ bị tấn công, quấy rối, bạo lực tình dục qua mạng. Đối với lĩnh vực lao động, vào năm 1998, hãng máy ảnh Kodac tuyển dụng 170.000 người lao động, chiếm 85% thị trường giấy ảnh trên thế giới thì gần đây, lĩnh vực kinh doanh này đã không còn hoạt động. Các lĩnh vực nghề nghiệp thủ công cũng sẽ biến mất, thay vào đó là sự xuất hiện ngành, nghề mới đòi hỏi kỹ năng tay nghề cao. Theo nghiên cứu của Viện Toàn cầu McKinsey, ước tính đến năm 2030 sẽ có khoảng 400 - 800 triệu việc làm trên thế giới được thay thế bằng công nghệ tự động hó(4). Sự ra đời của các “nhà máy thông minh”, trong đó máy móc được kết nối in-tơ-nét và liên kết với nhau qua một hệ thống có thể tự hình dung toàn bộ quy trình sản xuất, đưa ra quyết định sẽ thay thế dần các dây chuyền sản xuất trước đây. Cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 cũng sẽ dẫn tới xu hướng các nước có lợi thế về công nghệ và vốn sẽ quay trở lại đầu tư vào quốc gia của mình trên cơ sở áp dụng công nghệ “nhà máy thông minh”, chứ không đầu tư sang các nước có lợi thế về nguồn lao động.
3. Đánh giá về thành tựu và đóng góp của khoa học - công nghệ và Đổi mới sáng tạo trong phát triển văn hóa pháp luật
Những kiến nghị
Hiện nay, trong lĩnh vực dân sự, các bên đương sự đã sử dụng các dữ liệu điện tử để chứng minh cho yêu cầu của mình cũng như phản đối yêu cầu, toà án cũng sử dụng dữ liệu điện tử làm nguồn chứng cứ để xác định chứng cứ cho việc giải quyết vụ việc dân sự. Để sử dụng dữ liệu điện tử làm chứng cứ trong vụ việc cần tuân thủ những yêu cầu nhất định như: Việc thu thập dữ liệu điện tử phải hợp pháp; chứng cứ điện tử được sử dụng làm căn cứ trong quá trình tố tụng phải đảmbảo có liên quan và cần thiết, hợp pháp và tuân thủ các yêu cầu về thủ tục; bảo đảm tính xác thực, tính toàn vẹn hoặc chính xác. Một thông tin được rút ra từ dữ liệu điện tử để được coi là chứng cứ phải đảm bảo thuộc tính: tính khách quan, tính liên quan và tính hợp pháp. Để đảm bảo các thuộc tính của chứng cứ điện tử thì việc thu thập và đánh giá chứng cứ phải đảm bảo thực hiện theo đúng quy định của pháp luật. Về bản chất, chứng cứ điện tử có thể bị thay đổi, hư hỏng hoặc bị phá hủy do xử lý hoặc kiểm tra không đúng cách, do đó, cần phải có biện pháp phòng ngừa để có thể thu thập được đúng chứng cứ điện tử.
Bên cạnh đó, Nhà nước cần có chính sách ưu tiên, đầu tư phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực khoa học - công nghệ - Văn hóa và cần đào tạo kiến thức chuyên sâu về pháp luật với đội ngũ cán bộ chuyên biệt, đủ về số lượng, nâng cao về chất lượng. Để làm được điều đó, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, ban ngành như Bộ Văn hoá - Thể thao và Du lịch, Bộ Công an, Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Tư pháp…
Ngoài ra, trong xu thế phát triển của khoa học – kỹ thuật, đặc biệt là sự phát triển của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao ý thức tự học tập, tự đào tạo của người dân, xây dựng xã hội học tập nhằm: “Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, phù hợp với bối cảnh phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Xây dựng văn hóa trong hệ thống chính trị, trong từng cộng đồng làng, bản, khu phố, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp và mỗi gia đình. Phát huy vai trò của gia đình, cộng đồng, xã hội trong việc xây dựng môi trường văn hóa, làm cho văn hóa trở thành nhân tố thúc đẩy con người Việt Nam hoàn thiện nhân cách…Từng bước thu hẹp khoảng cách về hưởng thụ văn hóa giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng miền và các giai tầng xã hội”(5).
Những giải pháp
Thứ nhất, tác động của khoa học - công nghệ, Đổi mới sáng tạo đòi hỏi phải sự thay đổi và hình thành tư duy mới về pháp luật. Vẫn trên cơ sở nền tảng pháp luật pháp quyền, dân chủ nhưng cần hình thành và phát triển cách tiếp cận, ứng dụng về công nghệ pháp luật trên cả luật nội dung và luật hình thức(6). Để có thể đáp ứng tối đa nhu cầu điều chỉnh pháp luật cần phải có hệ thống pháp luật điều chỉnh những vấn đề liên quan đến khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo và đồng thời đảm bảo về chất lượng các văn bản quy phạm pháp luật được ban hành. Trong xã hội, lợi ích của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng, giai tầng đều khác nhau nên đòi hỏi pháp luật phải phản ánh một cách hài hòa những lợi ích cơ bản, ý chí, nguyện vọng cơ bản của tất cả các lực lượng chủ yếu trong xã hội. Hoạt động xây dựng pháp luật phải bám sát quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, đồng thời xác định thứ tự những vấn đề cần ưu tiên, đặc biệt là những vấn đề quan trọng có tác động lớn đối với xã hội. Để khoa học – công nghệ và đổi mới sáng tạo phát huy hết vai trò khi có sự tác động cùng chiều, phù hợp với văn hóa pháp luật thì khi xây dựng pháp luật cần phải xem xét, nghiên cứu sao cho các quy định của pháp luật phải phù hợp với phong tục, tập quán, truyền thống, giá trị đạo đức của người dân.
Thứ hai, áp dụng khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo vào việc xử lý các hành vi vi phạm pháp luật. Cách mạng công nghiệp 4.0 giúp cho sự tham gia của người dân vào công tác giám sát xã hội. Sự phối hợp của các phương tiện, thiết bị an ninh hiện đại là không thể thiếu được trong công tác phòng ngừa những vi phạm pháp luật. Bởi lẽ, hành vi của con người là hành vi có ý thức, thể hiện năng lực cá nhân trước những tình huống thực tế nhằm đạt được những mục đích nhất định và dự liệu được kết quả của hành vi đó. Pháp luật có chức năng điều chỉnh các hành vi đó và ngược lại, bằng những hành vi hợp pháp, thực tế của các chủ thể, làm cho pháp luật được hiện thực hóa trong cuộc sống. Những hành vi được thực hiện không đúng với yêu cầu của pháp luật sẽ đều bị xử lý theo luật định. Việc xử lý kịp thời, nghiêm minh những hành vi vi phạm pháp luật là tác động trực tiếp đến tư tưởng, tình cảm pháp luật của người dân. Theo đó, cần phải ứng dụng khoa học – công nghệ hiện đại vào việc đánh giá, xử lý ở những bước cơ bản ban đầu như ở các khâu kiểm tra, xác thực thông tin nhanh chóng, tạo môi trường pháp lý lành mạnh, tạo tính răn đe cho người dân.
Ngoài ra, việc áp dụng đổi mới sáng tạo, khoa học - công nghệ, trí tuệ nhân tạo có ý nghĩa rất lớn trong việc triển khai mạnh mẽ công tác tuyên truyền, giáo dục, phổ biến pháp luật bằng nhiều biện pháp khác nhau để người dân nhận thức đúng đắn về pháp luật. Từ đó, hình thành lối sống theo pháp luật, kỷ cương, trật tự, an ninh, an toàn xã hội được đảm bảo, xây dựng nếp sống văn minh trong toàn xã hội. Do đó, cần phải đẩy mạnh việc tuyên truyền giáo dục thông qua khoa học – công nghệ và đổi mới sáng tạo.
(1) Kamaladdin Rahmani, Mahmood Behravesh, Masoud Behravesh, Nayere Karegar and Abolfazl Fereidooni (2010), “Examing the Level and Strength of Technology in the Industries of the Iran by Using ESCAP Model and Introducing Solutions for Developing Technology”, pp. 2-3. (2) Từ điển Tiếng việt, NXB Sự Thật, tr.34, Hà Nội 1994. (3) Lê Minh Tâm (1998), “Vấn đề văn hóa pháp luật ở nước ta trong giai đoạn hiện nay”, Tạp chí Luật học số 5, tr17-24. (4) Nguyễn Thị Thanh Hải (2020), Viện Quyền con người, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, “Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến bảo đảm quyền con người”, Cổng thông tin điện tử Tạp chí Cộng sản. (5) Nghị quyết số 33 – NQ/TW ngày 9/6/2014 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. (6) Nguyễn Thị Quế Anh, Ngô Huy Cương (2018), “Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và những vấn đề đặt ra đối với cải cách pháp luật Việt Nam”, NXB Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội. |
TS. NGÔ NGỌC DIỄM - NGUYỄN THẢO LINH
Khoa Luật – Trường Đại học Văn hoá Hà Nội