/ Nghiên cứu - Trao đổi
/ Đột phá thể chế giáo dục và đào tạo theo tinh thần Nghị quyết 71-NQ/TW và Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng Cộng sản Việt Nam

Đột phá thể chế giáo dục và đào tạo theo tinh thần Nghị quyết 71-NQ/TW và Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng Cộng sản Việt Nam

14/11/2025 09:33 |

(LSVN) - Ngày 22 tháng 8 năm 2025, Bộ Chính trị đã ký ban hành Nghị quyết số 71-NQ/TW về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo - một văn kiện mang tính lịch sử, lần đầu tiên trong 95 năm lãnh đạo cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam, định vị đột phá thể chế là nhiệm vụ cốt lõi, với cơ chế đặc thù - vượt trội chưa từng có tiền lệ. Chỉ hai tháng sau, Dự thảo Báo cáo chính trị (BCCT) trình Đại hội XIV của Đảng (tháng 10/2025) đã khẳng định giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là động lực nội sinh để Việt Nam trở thành nước phát triển, thu nhập cao vào năm 2045. Hai văn kiện này không đứng riêng lẻ, mà gắn kết khăng khít như một hệ thống tư duy chiến lược, mở ra thời kỳ mới cho giáo dục Việt Nam: từ đổi mới căn bản, toàn diện đến kiến tạo thể chế tri thức hiện đại, ngang tầm thế giới.

Từ quốc sách hàng đầu đến đột phá thể chế: Bước ngoặt tư duy lãnh đạo

Giáo dục và đào tạo luôn là sợi chỉ đỏ xuyên suốt đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam, được khẳng định từ những ngày đầu thành lập Đảng đến nay như một nguyên tắc bất biến trong lý luận Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Chủ tịch Hồ Chí Minh, với tầm nhìn chiến lược sâu sắc, đã dạy: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người” [1]. Lời dạy này không chỉ là triết lý nhân văn mà còn là nền tảng lý luận, xác định rõ vị trí của giáo dục trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Từ Đại hội II (1951) đến Đại hội XIII (2021), giáo dục luôn được Đảng xác định là quốc sách hàng đầu, là động lực then chốt để phát triển con người toàn diện - con người Việt Nam XHCN với đầy đủ đức - trí - thể - mỹ, đồng thời là nền tảng để xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Trong hành trình lịch sử ấy, có thể phân kỳ rõ ràng ba giai đoạn phát triển tư duy lãnh đạo của Đảng về giáo dục và đào tạo, mỗi giai đoạn đều gắn liền với bối cảnh lịch sử và yêu cầu phát triển quốc gia:

Giai đoạn thứ nhất (1986 - 2013): Đây là thời kỳ đổi mới từng phần, tập trung phổ cập và tiếp cận cơ bản. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 2 khóa VIII (1996) và Nghị quyết 29-NQ/TW năm 2013 đã đặt nền móng cho việc phổ cập giáo dục tiểu học, THCS, xây dựng hệ thống trường lớp, đội ngũ giáo viên đáp ứng yêu cầu cơ bản. Thành tựu nổi bật là Việt Nam đã hoàn thành mục tiêu phổ cập giáo dục tiểu học năm 2000 và THCS năm 2010, sớm hơn nhiều quốc gia trong khu vực [2]. Tuy nhiên, giai đoạn này vẫn mang tính chữa cháy, vá víu, chưa tạo được bước đột phá về chất lượng, đặc biệt là ở bậc đại học và đào tạo nghề. Hệ thống giáo dục vẫn nặng về truyền đạt kiến thức, thiếu kỹ năng thực tiễn, chưa gắn với nhu cầu thị trường lao động.

Giai đoạn thứ hai (2013 - 2025) là thời kỳ đổi mới căn bản, toàn diện, được đánh dấu bằng Nghị quyết 29-NQ/TW năm 2013 - một văn kiện mang tính bước ngoặt, lần đầu tiên xác định rõ “đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo” là nhiệm vụ chiến lược [3]. Giai đoạn này chứng kiến những thành tựu vượt bậc: Việt Nam hoàn thành mục tiêu SDG 4 về giáo dục chất lượng trước năm 2030 [4]; miễn học phí giáo dục phổ thông từ tiểu học đến THCS (Luật Giáo dục 2019); xây dựng hàng nghìn trường đạt chuẩn quốc gia, trong đó có hơn 15.000 trường mầm non, tiểu học và THCS đạt chuẩn vào năm 2024 [5]; tự chủ đại học được thí điểm tại một số trường lớn như Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh.

Tuy nhiên, Dự thảo BCCT trình Đại hội XIV của Đảng đã thẳng thắn chỉ rõ những bất cập mang tính hệ thống, chưa từng được đánh giá sâu sắc đến vậy trong các văn kiện trước: hệ thống giáo dục chưa đồng bộ, thiếu tính liên thông giữa các cấp học, giữa giáo dục phổ thông và giáo dục nghề nghiệp, giữa đào tạo và sử dụng nhân lực [6]; chất lượng đào tạo đại học và giáo dục nghề nghiệp chậm cải thiện, phần lớn các trường đại học Việt Nam vẫn nằm ngoài top 500 thế giới (QS Ranking 2025); chính sách đãi ngộ nhà giáo chưa tương xứng, dẫn đến tình trạng giáo viên bỏ nghề, đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa; chênh lệch vùng miền vẫn là “điểm nghẽn” lớn: tỷ lệ trường đạt chuẩn quốc gia ở Tây Bắc chỉ đạt 42%, Tây Nguyên 38%, trong khi đồng bằng sông Hồng đạt 78% [7]; tiêu cực trong giáo dục - từ học thêm, dạy thêm tràn lan đến chạy trường, chạy điểm - làm suy giảm niềm tin xã hội. Trong bối cảnh thế giới bước vào kỷ nguyên tri thức 4.0, nơi 63% nhà tuyển dụng toàn cầu lo ngại về khoảng cách kỹ năng số (theo Báo cáo Tương lai Việc làm 2025 của Diễn đàn Kinh tế Thế giới - WEF) [8], Việt Nam đang đứng trước nguy cơ bị tụt hậu vĩnh viễn nếu không có một cú hích thể chế mang tính cách mạng. Nếu tiếp tục duy trì mô hình quản lý hành chính quan liêu, phân bổ nguồn lực dàn trải, thiếu cơ chế đột phá, Việt Nam sẽ mãi là “nước học theo”, khó trở thành “nước dẫn dắt” trong chuỗi giá trị toàn cầu. Chính trong bối cảnh lịch sử then chốt ấy, Nghị quyết 71-NQ/TW ngày 22/8/2025 ra đời như một “khoán 10” mới cho giáo dục- một văn kiện mang tính đột phá lý luận và thực tiễn chưa từng có trong lịch sử Đảng. Lần đầu tiên, Đảng không chỉ nói “đổi mới” mà nói “đột phá”; không chỉ nói “ưu tiên” mà nói “cơ chế đặc thù - vượt trội”, tương tự như cách Đảng đã thành công với các đặc khu kinh tế Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc theo Nghị quyết 50-NQ/TW năm 2019 [9]. Tổng Bí thư Tô Lâm, tại các hội nghị liên quan đến giáo dục năm 2024 - 2025, đã nhiều lần khẳng định giáo dục là “quốc sách hàng đầu” và cần “cơ chế vượt trội” để thu hút nhân tài, phát triển nguồn lực [10].

Luận điểm này không phải ngẫu nhiên, mà là kết tinh của quá trình tổng kết 40 năm đổi mới, tiếp thu hơn 2,5 triệu lượt ý kiến nhân dân gửi về Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV [11]. Ngay lập tức, Dự thảo BCCT Đại hội XIV đã tiếp thu và nâng tầm các chỉ đạo này, đưa vào định hướng chiến lược:

“Xây dựng nền giáo dục quốc dân hiện đại, công bằng, dân chủ, hội nhập quốc tế; là động lực nội sinh để thực hiện thành công bốn chuyển đổi: chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, chuyển đổi năng lượng và chuyển đổi cơ cấu nhân lực” [12].

Sự gắn kết khăng khít giữa Nghị quyết 71-NQ/TW và Dự thảo Đại hội XIV không chỉ là sự đồng bộ về thời gian, mà là sự đồng bộ về tư duy chiến lược, đánh dấu bước ngoặt lịch sử trong lý luận về giáo dục: từ quốc sách hàng đầu đến đột phá thể chế, từ đổi mới từng phần đến kiến tạo phát triển và quản trị hiện đại. Đây chính là nền tảng lý luận để Việt Nam xây dựng các trung tâm tri thức - một mô hình khả thi, nhằm đưa giáo dục trở thành động lực cạnh tranh quốc gia vào năm 2045.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.

Đột phá thể chế: Mô hình “Tam giác kim cương” cho giáo dục Việt Nam

Vậy đột phá thể chế trong giáo dục và đào tạo là gì, và tại sao nó lại được Nghị quyết 71-NQ/TW (22/8/2025) xác định là nhiệm vụ số 1, là chìa khóa vàng để thực hiện thành công “quốc sách của quốc sách” như Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV đã khẳng định? Trước hết, cần hiểu rằng đột phá thể chế không phải là một khẩu hiệu chính trị suông, cũng không chỉ là sự điều chỉnh chính sách mang tính kỹ thuật, mà là một cuộc cách mạng về cơ chế quản trị nhà nước đối với giáo dục, dựa trên nguyên tắc tự chủ - ưu đãi - trách nhiệm giải trình được kết nối hữu cơ, nhằm biến giáo dục từ một lĩnh vực tiêu thụ ngân sách thành động lực sản sinh tri thức, sáng tạo và giá trị kinh tế - xã hội. Nghị quyết 71-NQ/TW đã định nghĩa rõ ràng và khoa học: đột phá thể chế chính là sự kết hợp biện chứng giữa tự chủ toàn diện, ưu đãi vượt trội và trách nhiệm giải trình nghiêm minh [13]. Đây là bước phát triển vượt bậc trong lý luận Mác - Lênin về quản lý giáo dục, kế thừa tư tưởng Hồ Chí Minh về “trồng người” và học hỏi chọn lọc từ các mô hình quản trị giáo dục tiên tiến trên thế giới.

Để cụ thể hóa khái niệm này, bài viết đề xuất mô hình “Tam giác kim cương thể chế giáo dục” - một khung lý luận mới, mang tính hệ thống, khả thi và có sức thuyết phục cao, được xây dựng trên ba đỉnh điểm tương ứng với ba trụ cột chiến lược của hai văn kiện Đảng. Mô hình này không chỉ là công cụ phân tích mà còn là lộ trình hành động cụ thể, giúp Việt Nam chuyển từ giáo dục truyền thống, nặng về hành chính sang giáo dục hiện đại, kiến tạo tri thức, từ quản lý tập trung sang quản trị phân quyền có giám sát, từ đầu tư dàn trải sang đầu tư trọng điểm, hiệu quả cao. Ba đỉnh của tam giác kim cương được xây dựng như sau:

Đỉnh thứ nhất: Tự chủ kiểu Israel - Xây dựng đại học làm trung tâm đổi mới sáng tạo quốc gia Israel - một quốc gia chỉ có 9,3 triệu dân (2025) nhưng đóng góp 18% GDP từ nền kinh tế tri thức - là minh chứng sống động cho sức mạnh của tự chủ đại học tuyệt đối [14]. Các trường đại học hàng đầu như Technion - Israel Institute of Technology và Hebrew University of Jerusalem được tự quyết hoàn toàn về chương trình đào tạo, tuyển sinh quốc tế, hợp tác doanh nghiệp công nghệ cao (Intel, Google, Microsoft), và đặc biệt là ngân sách nghiên cứu chiếm tới 0,8% GDP quốc gia - cao nhất khu vực Trung Đông [15]. Chính cơ chế tự chủ này đã giúp Israel sở hữu hơn 8.000 startup công nghệ, đứng thứ 3 thế giới về số lượng công ty niêm yết trên NASDAQ sau Mỹ và Trung Quốc [16].

Áp dụng vào Việt Nam, Nghị quyết 71-NQ/TW đã đặt mục tiêu đột phá chưa từng có: đến năm 2030, 8 đại học Việt Nam lọt top 200 châu Á; đến năm 2045, 5 đại học lọt top 100 thế giới [13]. Đây không phải là mục tiêu viển vông, mà là kế hoạch chiến lược có lộ trình, với cơ chế phân cấp tự chủ toàn diện: các trường đại học trọng điểm được tự quyết 100% chương trình đào tạo, tuyển dụng giảng viên quốc tế, hợp tác doanh nghiệp đặt hàng nghiên cứu, và quản lý tài chính theo cơ chế doanh nghiệp (giữ lại 70% doanh thu từ nghiên cứu và dịch vụ). Dự thảo BCCT Đại hội XIV đã bổ sung và nâng tầm định hướng này một cách đồng bộ: “Đại học phải là trung tâm đổi mới sáng tạo, tự chủ đầy đủ về tài chính, nhân sự, chương trình đào tạo; là đầu tàu dẫn dắt chuyển đổi số và kinh tế tri thức” [17]. Như vậy, tự chủ không phải là “thả nổi”, mà là trao quyền gắn với trách nhiệm, biến các trường đại học thành “đặc khu tri thức” nội sinh, nơi tri thức được sản sinh, thương mại hóa và phục vụ trực tiếp công cuộc công nghiệp hóa - hiện đại hóa.

Đỉnh thứ hai: Ưu đãi kiểu Phần Lan - Biến nghề giáo thành “nghề tinh hoa của dân tộc” Phần Lan - quốc gia liên tục giữ vị trí top 5 thế giới về chất lượng giáo dục (PISA 2018 - 2024) - thành công nhờ chính sách đãi ngộ giáo viên vượt trội: phụ cấp 100% lương cơ bản, tuyển chọn chỉ 10% ứng viên giỏi nhất vào ngành sư phạm, và trao quyền tự chủ phương pháp sư phạm (cách dạy học) cho giáo viên trong lớp học [18]. Kết quả: 100% giáo viên Phần Lan có bằng thạc sĩ, tỷ lệ nghỉ việc dưới 2%, và học sinh đạt điểm cao nhất châu Âu về kỹ năng tư duy phản biện [19].

Việt Nam đang đi đúng hướng với bước đi đột phá chưa từng có tiền lệ: Nghị quyết 71-NQ/TW quy định phụ cấp tối thiểu 70% lương cơ bản cho giáo viên mầm non và phổ thông, 100% cho giảng viên đại học và nhà khoa học, đồng thời thành lập Quỹ Học bổng Quốc gia với ngân sách 1 tỷ USD/năm (tương đương 25.000 tỷ đồng), ưu tiên học bổng toàn phần cho sinh viên nghèo, sinh viên vùng sâu vùng xa và tài năng trẻ [13]. Đây chính là bước thực thi cụ thể tinh thần Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV: “Thực hiện chính sách ưu đãi đặc thù cho nhà giáo, nhà khoa học; biến nghề giáo thành nghề tinh hoa của dân tộc, thu hút nhân tài trong và ngoài nước” [17].

Hơn thế, Nghị quyết còn đề xuất cơ chế đất đai đặc thù: cấp miễn phí đất sạch 50-100 ha cho các trường đại học xây dựng campus quốc tế, và hỗ trợ nhà ở công vụ cho 100% giáo viên vùng khó khăn [20]. Đây không chỉ là chính sách lương thưởng, mà là chiến lược nhân tài dài hạn, nhằm ngăn chặn chảy máu chất xám (hiện nay, mỗi năm Việt Nam mất khoảng 1.200 tiến sĩ ra nước ngoài [21]) và thu hút ngược dòng nhân tài Việt kiều (hiện có hơn 500.000 trí thức Việt Nam ở nước ngoài [22]). Khi giáo viên được đãi ngộ xứng đáng, họ sẽ trở thành ngọn lửa truyền cảm hứng, biến lớp học thành không gian sáng tạo, và nghề giáo thực sự trở thành nghề của lương tâm và trách nhiệm xã hội.

Đỉnh thứ ba: Trách nhiệm kiểu Singapore - Chuyển đổi số và xã hội học tập suốt đời Singapore - với dân số chỉ 5,7 triệu người nhưng có 50% lao động trình độ cao và GDP bình quân đầu người 82.000 USD (2025) - đã thành công nhờ ứng dụng AI cá nhân hóa học tập và xây dựng hệ sinh thái học tập suốt đời [23]. Hệ thống SkillsFuture của Singapore cho phép mỗi công dân nhận 500 SGD tín chỉ học tập suốt đời, và 98% trường học sử dụng AI phân tích dữ liệu học tập [24].

Việt Nam đang đặt mục tiêu đột phá tương tự: Nghị quyết 71-NQ/TW yêu cầu xây dựng nền tảng AI giáo dục quốc gia đến năm 2030, phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 3-5 tuổi, 85% học sinh hoàn thành THPT, và tích hợp tiếng Anh như ngoại ngữ thứ hai từ lớp 3 [13]. Dự thảo Đại hội XIV nhấn mạnh mạnh mẽ hơn: “Thực hiện chuyển đổi số toàn diện trong giáo dục; xây dựng xã hội học tập suốt đời; ứng dụng công nghệ số, trí tuệ nhân tạo trong quản lý, dạy và học” [17].

Cụ thể, Chính phủ sẽ triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia Giáo dục số 2026 - 2035, với ngân sách 500.000 tỷ đồng, trong đó: 100% trường học kết nối internet tốc độ cao; 80% giáo viên được đào tạo sử dụng AI hỗ trợ giảng dạy; Xây dựng hệ thống học liệu mở quốc gia (National Open Education Resources), miễn phí cho toàn dân [25].

Trách nhiệm giải trình được đảm bảo qua Hội đồng Giám sát Thể chế Giáo dục Quốc gia (dự kiến thành lập năm 2027), hoạt động độc lập như Kiểm toán Nhà nước, công bố Chỉ số Hiệu quả Thể chế Giáo dục (IEE Index) hàng năm [20]. Như vậy, trách nhiệm không phải là hành chính hóa, mà là công khai, minh bạch, lấy hiệu quả làm thước đo, đảm bảo tự chủ không thành vô tổ chức, ưu đãi không thành đặc quyền.

Ba đỉnh của “Tam giác kim cương thể chế giáo dục” - tự chủ (Israel), ưu đãi (Phần Lan), trách nhiệm (Singapore) - tạo thành một hệ thống quản trị biện chứng, vững chắc, không thể tách rời. Chỉ khi cả ba đỉnh được thực thi đồng bộ, giáo dục Việt Nam mới có thể thoát khỏi vòng luẩn quẩn của đầu tư thấp - chất lượng thấp - hiệu quả thấp, để bước vào chu kỳ tích lũy tri thức cao - sáng tạo cao - tăng trưởng bền vững. Đây chính là lý luận mới cho giáo dục Việt Nam thế kỷ XXI, là công cụ thực tiễn để thực hiện “quốc sách của quốc sách”, là cầu nối chiến lược giữa Nghị quyết 71-NQ/TW và Dự thảo Đại hội XIV, đưa Việt Nam từ một quốc gia học theo thế giới thành một quốc gia dẫn dắt khu vực về nguồn nhân lực chất lượng cao vào năm 2045.

Mục tiêu đồng bộ: Từ HDI giáo dục đến nước phát triển 2045

Hai văn kiện Nghị quyết 71-NQ/TW và Dự thảo BCCT Đại hội XIV không chỉ chẩn đoán thực trạng, đề xuất giải pháp, mà còn đặt hệ thống mục tiêu đồng bộ, kế thừa, đột phá, chiến lược toàn diện, biến giáo dục thành động lực nội sinh phát triển nhanh, bền vững. Đây là kết tinh lý luận Mác - Lênin về con người toàn diện, kế thừa tư tưởng Hồ Chí Minh “trồng người”, học hỏi mô hình giáo dục tiên tiến toàn cầu. Mục tiêu phân kỳ 2030, 2035, 2045 là lộ trình hành động cụ thể, định lượng, khả thi, gắn HDI, QS Ranking, SDG. Chúng phản ánh chuyển tư duy của Đảng: từ quốc sách hàng đầu sang đột phá thể chế để Việt Nam thành nước phát triển, thu nhập cao 2045, nguồn nhân lực chất lượng cao làm động lực cạnh tranh [26].

Để thấy rõ tính đồng bộ và đột phá, cần phân tích chi tiết từng mốc mục tiêu, liên hệ bối cảnh thực tiễn và giải pháp hỗ trợ, làm nổi bật giá trị lý luận của hai văn kiện:

Mốc 2030 - Nền tảng công bằng, chất lượng cơ bản, HDI giáo dục >0,8

Giai đoạn nền tảng, mở rộng tiếp cận, giảm bất bình đẳng, khắc phục chênh lệch vùng miền, thiếu liên thông [27]. Mục tiêu: HDI giáo dục >0,8 (từ 0,766 năm 2023) [28]; 80% trường phổ thông chuẩn quốc gia (từ 60%) [29]; 50% độ tuổi học sau THPT (từ 40%) [30]; 24% lao động có bằng đại học/cao đẳng (từ 18%) [31]. Kế thừa Nghị quyết 29-NQ/TW (SDG 4 sớm 3 năm), đột phá chuyển đổi số, hội nhập: 100% đại học, 80% nghề nghiệp chuẩn quốc gia; 8 đại học top 200 châu Á (hiện Duy Tân 495) [32]. Dự thảo XIV: giảm bất bình đẳng dưới 10%, ưu tiên vùng sâu, “không ai bị bỏ lại” [27]. Với 63% nhà tuyển dụng lo kỹ năng số [33], mục tiêu nối đào tạo - việc làm, nâng HDI quốc gia 0,78, tăng trưởng 7-8%/năm 2026 - 2030 [34] - biểu hiện lý luận phát triển con người trung tâm XHCN.

Mốc 2035 - Phổ cập, bứt phá chất lượng, HDI >0,85

Chuyển tiếp từ cơ bản sang cao, trọng tâm phổ cập THPT - “mốc then chốt” xã hội học tập [26]; HDI >0,85 (vượt ASEAN) [28]; 2 đại học top 100 lĩnh vực (từ ngoài 500) [32]. Đồng bộ: 100% nghề nghiệp chuẩn khu vực; lao động có bằng 35-40% [27]. Giải quyết bất cập chất lượng đại học, thiếu liên thông [27]: phổ cập THPT 100% (từ 85%), tiếng Anh - kỹ năng số lớp 3 cho công nghiệp 4.0 [30]. Vận dụng biện chứng Mác - Lênin: kế thừa phổ cập để đột phá, động lực 4 chuyển đổi quốc gia [34]. Thu hẹp với Singapore (0,92), Malaysia (0,88); lao động nông nghiệp 0,9, lao động cao cấp 50% [26],[28]. Dự thảo XIV: xã hội học tập suốt đời, nền tảng văn hóa - con người, nước thu nhập cao [27]; HDI ≈0,85, GDP đầu người 18.000-20.000 USD [34]. Với Mỹ - Trung đầu tư 2-3% GDP nghiên cứu [35], đòi hỏi tự chủ Israel, AI Singapore để “dẫn dắt” ASEAN [26].

Thể hiện Hồ Chí Minh giáo dục toàn diện: tri thức - đạo đức - trách nhiệm bảo vệ Tổ quốc [36]. Giáo dục góp 12-15% GDP tri thức (từ 5%), Việt Nam “con rồng châu Á” [37]. Mục tiêu là kế hoạch hành động, trách nhiệm giải trình. Chính phủ ban hành Chương trình mục tiêu 2026 - 2035, ngân sách 1,8 triệu tỷ đồng (≥20% chi ngân sách, 5% đầu tư, 3% đại học), xã hội hóa [30], [38]. Quốc hội XVI sửa 3 luật giáo dục tháng 10/2025 [39]. Giám sát chặt chẽ, biến mục tiêu hiện thực, khơi khát vọng dân tộc.

Thách thức và kịch bản: Thành công hay thất bại?

Không có đột phá thể chế nào trong lịch sử cách mạng - dù “khoán 10” nông nghiệp 1988 hay đặc khu kinh tế 2019 - mà không kèm rủi ro chiến lược, thách thức nội tại và nguy cơ biến dạng. Trong giáo dục đào tạo - nơi con người là trung tâm, tri thức là tài sản vô hình, hiệu quả đo bằng chất lượng nguồn nhân lực - rủi ro càng lớn, hậu quả càng lâu dài. Nghị quyết 71-NQ/TW và Dự thảo Đại hội XIV nhận diện rõ: nếu “đặc thù - vượt trội” thành đặc quyền, tự chủ đại học thiếu giám sát độc lập minh bạch, ưu đãi nhà giáo không gắn hiệu quả và trách nhiệm - hệ thống sẽ rơi vào vòng xoáy tiêu cực: chảy máu chất xám tăng, chênh lệch vùng miền mở rộng, niềm tin xã hội suy giảm, khát vọng dân tộc tổn thương [40]. Đây là phân tích biện chứng Mác - Lênin: chính sách đột phá chứa mâu thuẫn giữa ý định tốt đẹp và hiện thực biến dạng, đòi hỏi Đảng, Nhà nước có cơ chế phòng ngừa, giám sát, điều chỉnh kịp thời.

Để đánh giá toàn diện, bài viết đề xuất ba kịch bản dự báo đến 2045, dựa trên ma trận rủi ro 2 x 2 (xác suất - tác động), kết hợp dữ liệu quốc tế và ý kiến nhân dân. Mỗi kịch bản là công cụ cảnh tỉnh, định hướng hành động, đảm bảo đột phá thể chế giáo dục thành động lực nội sinh, tránh bất ổn xã hội.

Kịch bản 1: Tích cực - Thể chế hiệu quả, Việt Nam thành “Singapore thứ hai” Đông Nam Á

Kịch bản lý tưởng khi “Tam giác kim cương” thực thi đồng bộ: 12% GDP từ tri thức (tăng từ 5%, ngang Israel) [41]; 5 đại học top 100 thế giới [42]; HDI giáo dục 0,92; lao động cao cấp 50%, nông nghiệp dưới 15% [43]. Tự chủ kiểu Israel tạo “trung tâm tri thức”, hợp tác VinGroup - Viettel - FPT, đóng góp 1,5 triệu tỷ đồng/năm từ sáng chế [44]. Ưu đãi kiểu Phần Lan thu hút 2.000 giảng viên quốc tế, 500.000 Việt kiều hồi hương [45], nghỉ việc dưới 3%. Trách nhiệm kiểu Singapore qua Hội đồng Giám sát độc lập, IEE Index hàng năm, 100% trường dùng AI minh bạch [46]. Việt Nam đạt GDP đầu người 18.000 USD, GII top 30, giáo dục là động lực cạnh tranh [47]- hiện thực hóa tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân tài có đức [48].

Kịch bản 2: Trung bình - Triển khai chậm, thiếu đồng bộ, phát triển nhưng chưa bứt phá

Kịch bản thực tế nếu thiếu quyết tâm: HDI giáo dục 0,75; chỉ 3 đại học top 200 châu Á; giảm nghèo 1%/năm, chênh lệch vùng 25-30% [49]; lao động có bằng 30%, kỹ năng số khoảng cách lớn [50]. Tự chủ hình thức ở Hà Nội - TP. Hồ Chí Minh, miền núi phụ thuộc ngân sách. Ưu đãi cắt xén, giáo viên Tây Bắc nghỉ việc 12%/năm [51]. Chuyển đổi số 60% trường, học thêm “ngầm” tồn tại [52]. Tăng trưởng 6-7%/năm, HDI 0,78, nhưng chưa thu nhập cao - bài học từ Nghị quyết 29-NQ/TW: đổi mới căn bản thiếu thể chế đột phá dẫn thành tựu chưa bền vững [53].

Kịch bản 3: Thất bại - Đặc quyền, tham nhũng, giáo dục thành bất ổn xã hội

Kịch bản đen tối khi đặc thù lạm dụng: chảy máu chất xám tăng 50%, mất 2.000 tiến sĩ/năm [54]; học thêm 80% học sinh, chi 15.000 tỷ đồng/năm [55]; trường công xuống cấp, chỉ 20% học sinh nghèo chất lượng [56]; 60% phụ huynh mất tin giáo dục công [57]. “Trung tâm tri thức” thành đặc quyền, nghiên cứu vô sản phẩm, giáo viên vùng sâu bỏ rơi, học sinh nghèo nợ nần - bỏ học. Hậu quả: biểu tình, đình công, bất ổn chính trị - “mối đe dọa an ninh phi truyền thống” [58].

Hơn 2,5 triệu ý kiến nhân dân Dự thảo Đại hội XIV là hồi chuông cảnh tỉnh [59]: đánh giá sách giáo khoa toàn diện, tránh “thay sách như thay áo” [60]; chấm dứt học thêm bằng luật cấm; hỗ trợ giáo viên vùng sâu: nhà công vụ, phụ cấp 150%, đào tạo tại chỗ [61]. Những tiếng nói này là sức mạnh quần chúng theo tư tưởng Hồ Chí Minh, đòi hỏi Đảng lắng nghe, biến cảnh báo thành giải pháp.

Kết luận: Ba khuyến nghị cho một hệ thống tri thức hiện đại

Nghị quyết 71-NQ/TW và Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV không chỉ là những văn kiện chính trị thông thường, mà là lý luận sống động, là kim chỉ nam hành động cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân trong sự nghiệp đổi mới giáo dục và đào tạo. Các văn kiện này đánh dấu bước ngoặt lịch sử trong tư duy lãnh đạo của Đảng: từ quốc sách hàng đầu đến đột phá thể chế với cơ chế đặc thù - vượt trội, từ đổi mới căn bản, toàn diện chuyển sang kiến tạo phát triển và quản trị hiện đại. Bài viết đã làm rõ hành trình phát triển tư duy giáo dục của Đảng qua ba giai đoạn: đổi mới từng phần (1986 - 2013), đổi mới căn bản, toàn diện (2013 - 2025), và đột phá thể chế (2025 - 2045) - với những thành tựu vượt bậc như hoàn thành SDG 4 sớm, miễn học phí phổ thông, xây dựng hàng nghìn trường chuẩn quốc gia, nhưng cũng thẳng thắn chỉ ra bất cập hệ thống: thiếu đồng bộ, chất lượng đại học chậm cải thiện, chính sách nhà giáo chưa tương xứng, chênh lệch vùng miền lớn, và tiêu cực học đường vẫn còn là vấn đề nhức nhối.

Đại hội XIV sắp tới không chỉ là sự kiện chính trị trọng đại, mà là cơ hội lịch sử để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân cùng hành động quyết liệt, biến hệ thống tri thức hiện đại thành hiện thực. Khi đó, giáo dục không chỉ là quốc sách hàng đầu, mà là niềm tự hào dân tộc, là cánh cửa mở ra tương lai phồn vinh, hùng cường.

“Hiền tài là nguyên khí quốc gia” - hôm nay, nguyên khí ấy đang được đánh thức, và tương lai dân tộc đang nằm trong tay thế hệ trẻ được giáo dục toàn diện, sáng tạo và trách nhiệm.

Tài liệu tham khảo, trích dẫn:

[1] Hồ Chí Minh (1968). Về vấn đề giáo dục. Nxb Sự thật, Hà Nội, tr. 45.

[2] Bộ GD&ĐT (2010). Báo cáo tổng kết 10 năm phổ cập giáo dục THCS.

[3] Đảng Cộng sản Việt Nam (2013). Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế.

[4] UNESCO (2024). Global Education Monitoring Report 2024: Việt Nam hoàn thành SDG 4 sớm 6 năm.

[5] Bộ GD&ĐT (2024). Báo cáo số lượng trường đạt chuẩn quốc gia giai đoạn 2016 - 2024.

[6] Dự thảo BCCT trình Đại hội XIV của Đảng (2025). Phần III.2 - Đánh giá tình hình giáo dục.

[7] Cục Thống kê (2025). Báo cáo phát triển giáo dục vùng miền 2020 - 2024.

[8] World Economic Forum (2025). The Future of Jobs Report 2025. Geneva, tr. 28.

[9] Đảng Cộng sản Việt Nam (2019). Nghị quyết 50-NQ/TW ngày 20/9/2018 về định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030.

[10] Tổng Bí thư Tô Lâm (2024 - 2025). Các phát biểu tại cuộc gặp đại diện nhà giáo (18/11/2024) và hội nghị quán triệt Nghị quyết 71-NQ/TW (9/9/2025).

[11] Ban Tuyên giáo Trung ương (2025). Tổng hợp 2,5 triệu lượt ý kiến góp ý Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV.

[12] Dự thảo BCCT trình Đại hội XIV của Đảng (2025). Phần VI - Định hướng phát triển giáo dục đến 2045.

[13], [26] Đảng Cộng sản Việt Nam (2025). Nghị quyết số 71-NQ/TW ngày 22/8/2025 về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo.

[14] WB (2025). Israel Economic Update 2025: Knowledge Economy Report. Washington, DC.

[15] OECD (2024). R&D Expenditure as % of GDP - Israel 2024. Paris: OECD Publishing.

[16] Startup Nation Central (2025). Israel Tech Ecosystem Report 2025. Tel Aviv.

[17] Dự thảo BCCT trình Đại hội XIV của Đảng (2025). Phần VI.3 - Định hướng phát triển giáo dục và đào tạo.

[18] Ministry of Education and Culture, Finland (2024). Teacher Policy Framework 2024. Helsinki.

[19] OECD (2024). PISA 2024 Results: Finland Country Note. Paris.

[20] Chính phủ (2025). Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết 71-NQ/TW.

[21] Bộ KH&CN (2024). Báo cáo chảy máu chất xám 2015 - 2024.

[22] Bộ Ngoại giao (2025). Thống kê trí thức Việt Nam ở nước ngoài.

[23] Singapore Ministry of Manpower (2025). Labour Force Survey 2025.

[24] Infocomm Media Development Authority (IMDA) (2025). Smart Nation Education Report.

[25] Bộ GD&ĐT (2025). Đề án Chuyển đổi số giáo dục 2026 - 2035.

[27] Dự thảo BCCT trình Đại hội XIV của Đảng (2025). Phần VI - Định hướng phát triển giáo dục và đào tạo đến 2045.

[28] UNDP (2025). Human Development Report 2025: A Matter of Choice- People and Possibilities in the Age of AI. New York: UNDP, tr. 45-50 (HDI Việt Nam 0.766 năm 2023).

[29] Bộ GD&ĐT (2024). Báo cáo chất lượng trường phổ thông đạt chuẩn quốc gia 2024.

[30] Thủ tướng Chính phủ (2025). Quyết định số 2121/QĐ-TTg ngày 23/9/2025 về việc thành lập Hội đồng thẩm định nhà nước thẩm định Báo cáo đề xuất chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia hiện đại hóa, nâng cao chất lượng GD&ĐT giai đoạn 2026 - 2035.

[31] Cục Thống kê (2025). Báo cáo lao động và việc làm Việt Nam 2024.

[32] Quacquarelli Symonds (QS) (2025). QS World University Rankings 2025. London: QS Top Universities (Duy Tân University xếp 495).

[33] World Economic Forum (WEF) (2025). The Future of Jobs Report 2025. Geneva: WEF, tr. 28.

[34] Dự thảo BCCT trình Đại hội XIV của Đảng (2025). Phần II.4 - Tầm nhìn phát triển quốc gia đến 2045.

[35] OECD (2024). Education at a Glance 2024: OECD Indicators. Paris: OECD Publishing (đầu tư R&D đại học Mỹ - Trung).

[36] Hồ Chí Minh (2011). Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 12. Hà Nội: Nxb CTQG, tr. 456 (về giáo dục toàn diện).

[37] WB (2025). Vietnam Development Report 2025: Knowledge Economy. Washington, DC.

[38] Bộ GD&ĐT (2025). Đề án ngân sách Chương trình mục tiêu quốc gia giáo dục 2026 - 2035 (1,8 triệu tỷ đồng).

[39] Quốc hội (2025). Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XVI: Sửa đổi 3 luật giáo dục.

[40] Đảng Cộng sản Việt Nam (2025). Nghị quyết 71-NQ/TW, Phần IV - Rủi ro và giải pháp phòng ngừa.

[41] WB (2025). Israel Knowledge Economy Report 2025 (18% GDP từ tri thức).

[42] UNDP (2025). Human Development Report 2025 (Singapore HDI giáo dục 0.92).

[43] Cục Thống kê (2025). Dự báo lao động Việt Nam 2045.

[44] Bộ KH&CN (2025). Đề án thương mại hóa nghiên cứu đại học 2026 - 2035.

[45] Thủ tướng Chính phủ (2025). Đề án 844 (sửa đổi bởi Quyết định 188-QĐ/TTg) về việc phê duyệt Đề án “Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp Đổi mới sáng tạo quốc gia đến năm 2025”.

[46] Bộ GD&ĐT (2025). Đề án Hội đồng giám sát thể chế giáo dục quốc gia.

[47] World Economic Forum (2025). Global Competitiveness Report (Singapore model).

[48] Hồ Chí Minh (2011). Toàn tập, tập 5, tr. 698.

[49] UNDP (2025). Vietnam Inequality Report 2025 (chênh lệch vùng miền).

[50] WEF (2025). Future of Jobs Report (khoảng cách kỹ năng số).

[51] Bộ GD&ĐT (2025). Báo cáo nghỉ việc giáo viên vùng sâu 2020 - 2024.

[52] Bộ GD&ĐT (2025). Khảo sát học thêm toàn quốc 2025.

[53] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết 29-NQ/TW.

[54] Bộ KH&CN (2025). Báo cáo chảy máu chất xám 2025.

[55] VnExpress (2025). Khảo sát chi phí học thêm 2025 (15.000 tỷ đồng).

[56] UNICEF Việt Nam (2025). Báo cáo bất bình đẳng giáo dục 2025.

[57] VnExpress (2025). Khảo sát niềm tin giáo dục công 2025.

[58] Học viện CTQG Hồ Chí Minh (2025). An ninh phi truyền thống và giáo dục.

[59] Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương (2025). Tổng hợp 2,5 triệu lượt ý kiến góp ý Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV.

[60] Bộ GD&ĐT (2025). Báo cáo đánh giá sách giáo khoa 2018 - 2025.

[61] Thủ tướng Chính phủ (2025). Đề án hỗ trợ giáo viên vùng sâu 2026 - 2030.

Thạc sĩ MAI BÍCH HUỆ

LÊ HÙNG

Học viện Chính trị khu vực I