Cụ thể, tại Điều 6 dự thảo Luật Giám định tư pháp (sửa đổi) đề xuất về các hành vi bị cấm trong việc giám định tư pháp như sau:
Cụ thể, nghiêm cấm người trưng cầu, yêu cầu giám định tư pháp thực hiện các hành vi:
- Lợi dụng việc trưng cầu, yêu cầu giám định tư pháp để gây khó khăn, cản trở hoạt động tố tụng;
- Nhận bất kỳ một khoản tiền, tài sản hoặc lợi ích nào từ cá nhân, tổ chức để làm sai lệch nội dung trưng cầu, yêu cầu giám định tư pháp;
- Can thiệp, cản trở việc thực hiện giám định của người giám định tư pháp;
- Xúi giục, ép buộc người giám định tư pháp đưa ra kết luận giám định tư pháp sai sự thật;
- Các hành vi bị nghiêm cấm khác theo quy định của luật có liên quan.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.
Bên cạnh đó, dự thảo Luật (sửa đổi) cũng nghiêm cấm người giám định tư pháp thực hiện các hành vi:
- Lợi dụng danh nghĩa giám định viên tư pháp, người giám định tư pháp theo vụ việc, việc thực hiện giám định tư pháp để trục lợi;
- Nhận bất kỳ khoản tiền hoặc lợi ích khác từ người trưng cầu, yêu cầu giám định hoặc người khác có liên quan ngoài khoản chi phí giám định, bồi dưỡng giám định theo quy định của pháp luật;
- Tiết lộ bí mật thông tin mà mình biết được khi thực hiện giám định tư pháp gây ảnh hưởng đến hoạt động tố tụng;
- Từ chối tiếp nhận, thực hiện giám định tư pháp, đưa ra kết luận giám định tư pháp mà không có lý do chính đáng hoặc cố ý kéo dài thời gian thực hiện giám định tư pháp, ban hành kết luận giám định tư pháp;
- Cố ý đưa ra kết luận giám định tư pháp sai sự thật;
- Các hành vi bị nghiêm cấm khác theo quy định của luật có liên quan.
Đồng thời, nghiêm cấm tổ chức giám định tư pháp nhận bất kỳ một khoản tiền, tài sản hoặc lợi ích nào từ người trưng cầu, yêu cầu giám định hoặc người khác có liên quan ngoài khoản chi phí giám định, bồi dưỡng giám định theo quy định của pháp luật.
Cản trở, gây khó khăn cho người giám định tư pháp trong việc thực hiện giám định.
Tiết lộ bí mật thông tin mà mình biết được khi thực hiện giám định tư pháp gây ảnh hưởng đến hoạt động tố tụng.
Đe dọa, ép buộc người giám định tư pháp đưa ra kết luận giám định tư pháp sai sự thật.
Từ chối tiếp nhận, thực hiện giám định tư pháp, đưa ra kết luận giám định tư pháp mà không có lý do chính đáng hoặc cố ý kéo dài thời gian thực hiện giám định tư pháp, ban hành kết luận giám định tư pháp.
Cố ý đưa ra kết luận giám định tư pháp sai sự thật.
Và các hành vi bị nghiêm cấm khác theo quy định của luật có liên quan.
Ngoài ra, Điều 3 dự thảo Luật (sửa đổi) cũng đè xuất việc thực hiện giám định tư pháp phải theo các nguyên tắc sau:
Thứ nhất, tuân thủ pháp luật, tuân theo trình tự, thủ tục giám định, quy trình giám định, quy chuẩn chuyên môn giám định.
Thứ hai, trung thực, chính xác, khách quan, vô tư, kịp thời.
Thứ ba, chỉ kết luận về chuyên môn những vấn đề trong phạm vi được trưng cầu, yêu cầu.
Thứ tư, chịu trách nhiệm trước pháp luật về kết luận giám định.
Theo quy định hiện hành, Điều 6 Luật Giám định tư pháp 2012 sửa đổi, bổ sung 2020 chỉ quy định nghiêm cấm các hành vi sau:
- Từ chối đưa ra kết luận giám định tư pháp mà không có lý do chính đáng.
- Cố ý đưa ra kết luận giám định tư pháp sai sự thật.
- Cố ý kéo dài thời gian thực hiện giám định tư pháp.
- Lợi dụng việc thực hiện giám định tư pháp để trục lợi.
- Tiết lộ bí mật thông tin mà mình biết được khi tiến hành giám định tư pháp.
- Xúi giục, ép buộc người giám định tư pháp đưa ra kết luận giám định tư pháp sai sự thật.
- Can thiệp, cản trở việc thực hiện giám định của người giám định tư pháp.

